TRUYỀN TÂM PHÁP YẾU

GIẢNG GIẢI

H.T THÍCH THANH TỪ

Pháp Yếu Truyền Tâm

Thiền Sư Đoạn Tế Ở Núi Hoàng Bá

 

CHÁNH VĂN:      

 

Sư bảo Hưu rằng:

Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm này từ vô thủy tới nay không từng sanh không từng diệt, không xanh không vàng, không h́nh không tướng, không thuộc có không, không kể mới cũ, chẳng dài chẳng ngắn, chẳng lớn chẳng nhỏ, vượt qua tất cả hạn lượng danh ngôn dấu vết đối đăi, chính thẳng đó là phải, động niệm liền trái.

 

GIẢNG:

 

Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, phải hiểu chữ một tâm này cho rơ, đừng bị lầm. Phật với chúng sanh chỉ có một tâm, nếu Phật giác ngộ lẽ ra chúng sanh cũng giác ngộ, nhưng tại sao Phật giác ngộ mà chúng ta lại không giác ngộ? Nếu một tâm th́ tất cả chư Phật không hai, tại sao lại có Phật Di-đà, Phật Ca-diếp, Phật Thích-ca, vô số Phật như vậy? Chỗ này người ta dễ lầm, như Bà-la-môn giáo cho rằng chỉ có một Phạm thiên, khi tu đại ngă của họ thể nhập vào đại ngă Phạm thiên, thế là xong. Như vậy chỉ có một đại ngă, bao nhiêu người tu đều nhập về đó hết. Nếu Phật nói một tánh giác chung th́ Ngài thành Phật chúng ta cũng được ảnh hưởng, sao Phật thành Phật lâu quá mà ḿnh c̣n ngồi đây? Đó là một lư.

Lư thứ hai, nếu là một th́ chỉ có một vị Phật, như Bà-la-môn giáo chỉ có một Đại Phạm thiên gọi là đại ngă, sao chúng ta lại có vô số Phật, vậy vị Phật nào là chủ? Chỗ này kinh Viên Giác dùng thí dụ thật hay. Nói rằng trong một ngôi nhà tối có đốt một trăm ngọn đèn riêng khác, nhưng ánh sáng của một trăm ngọn đèn đó ḥa nhập vào nhau chỉ có một, không sai khác. Như vậy ngọn đèn tuy khác nhưng ánh sáng th́ đồng. Cho nên chữ một là nói về ánh sáng chớ không phải nói về ngọn đèn. Một mà không phải một, mới có vô số chư Phật. Mỗi vị giáo hóa mỗi nơi, giống như các ngọn đèn để ở những vị trí khác nhau, nhưng tánh chất của ánh sáng vẫn đồng.

Bây giờ chúng ta có thể hiểu hằng hà sa số chúng sanh là hằng hà sa số chư Phật. Quí vị có dám nhận ḿnh là Phật không? Nếu bây giờ nhận ḿnh là Phật th́ bị tội tăng thượng mạn, nhưng nghĩ ḿnh không có Phật tánh th́ tu tiến không? Không. Chúng ta ai cũng có tánh Phật nhưng chưa phải Phật quả. Phật tánh không rời ḿnh, nhưng ta c̣n mê, c̣n quên nên làm chúng sanh. Như người có ḥn ngọc quí mà quên, cất đâu không biết th́ người đó giàu hay nghèo? Có ngọc quí nhưng không biết để đâu th́ giàu cũng thành nghèo. Chừng nào lấy được ḥn ngọc quí ra dùng mới giàu. Chúng ta cũng vậy, có tánh giác là có Phật nhưng bây giờ quên, không biết Phật ở đâu, cứ thấy toàn là chúng sanh. Chừng nào chúng ta thấy ông Phật của ḿnh một cách cụ thể, rơ ràng chừng đó mới biết ḿnh vốn là Phật mà xưa nay quên. Như vậy tâm thể chúng ta có tánh Phật đồng với tánh Phật của chư Phật, nên nói là một.

Tâm này từ vô thủy tới nay không từng sanh, không từng diệt, không xanh không vàng, không h́nh không tướng v.v…  Tâm thể này từ thuở nào tới giờ, không sanh không diệt, không màu sắc không h́nh tướng. Chỗ này nói suông th́ quí vị rất khó hiểu, v́ sao tâm lạ vậy? Ở đây có hai trường hợp để chúng ta nhận biết được tâm.

Trường hợp thứ nhất rất b́nh thường giản dị, chỉ ai khéo tinh mắt một chút sẽ nhận ra ngay. Như chúng ta ngồi b́nh tĩnh trước sân chùa nh́n tất cả cảnh vật, mà không có niệm số một số hai nào dấy động hết, lúc đó có tâm không? Nếu không tâm th́ ai biết nh́n, ai biết thấy, có tiếng động biết nghe. Cái thấy nghe không dấy niệm đó là tâm chưa từng sanh chưa từng diệt. Vừa khởi khen chê hay ưa ghét liền qua tướng sanh diệt. Cho nên ở đây nói cái đó không có danh ngôn mà động niệm liền trái. Chỉ khi không dấy niệm tâm đó hiện tiền. Tâm không nghĩ ǵ hết diễn tả làm sao? H́nh tướng làm sao? Dáng dấp làm sao? V́ nó không h́nh tướng nên không xanh vàng đỏ trắng mà vẫn thấy vẫn nghe. Vừa khởi một niệm như cây tùng này đẹp th́ tâm ẩn khuất liền. Cho nên dùng chữ “động niệm liền trái”, động niệm là mất tâm chân thật liền.

Chúng ta nh́n là nh́n, thấy là thấy, không khởi niệm th́ tâm hiện tiền. Có khi nào quí vị cảm nhận điều đó không? Ai cũng cảm nhận được hết, như vậy đâu có người nào vô phần. Đă có phần nhưng không biết giữ của báu nên rồi xao lăng quên mất, cứ chạy theo cái nghĩ đông nghĩ tây cả ngày. Nhiều người rất tội nghiệp, ngồi một lát chợt vui lên muốn cười, sau đó lại quạu. Dáng vui dáng quạu của họ hiện ra tại cái ǵ? Tại ôn lại quá khứ, quá khứ đẹp th́ vui, quá khứ thù địch th́ quạu. Như vậy họ ngồi đó mà không có ngồi đó, v́ ngồi đó mà sống với quá khứ. Chúng ta sống với cái đă qua là sống với cái mất. Hoặc không sống với cái đă qua th́ sống với cái chưa tới, chưa tới cũng là ảo tưởng. Cái thực hiện tại chúng ta không sống, thành ra sống cả ngày mà thật ra không sống ǵ hết.

 V́ vậy nhà Thiền bắt chúng ta phải sống với hiện tại, quá khứ đă qua, vị lai chưa đến, chỉ hiện tại là chủ yếu. Như vậy mới thấy sống với hiện tại quá khó. Tại sao khó? V́ chúng ta quen nuôi dưỡng quá khứ, vị lai. Lấy quá khứ làm kinh nghiệm, lấy vị lai làm mơ ước. Mơ ước cái sẽ tới đẹp hơn bây giờ, nên thấy nó hấp dẫn, c̣n hiện tại th́ coi thường.

 

CHÁNH VĂN:

 

Ví như hư không không có giới hạn, không thể đo lường.

 

GIẢNG:

 

Tâm lặng lẽ, tự sáng suốt biết rơ mà không suy nghĩ, tâm đó có tướng mạo không? Không. Bởi không tướng mạo nên giống như hư không, giống như hư không nên không giới hạn, v́ vậy nói nó lớn không thể đo lường.

 

CHÁNH VĂN:

 

Duy một tâm này tức là Phật. Phật cùng chúng sanh không riêng khác.

 

GIẢNG:

 

Chỉ cái tâm lặng lẽ không động niệm đó là Phật. Phật cùng chúng sanh không khác.

 

CHÁNH VĂN:

 

Chỉ v́ chúng sanh chấp tướng cầu bên ngoài, càng cầu càng mất, khiến Phật đi t́m Phật, đem tâm bắt tâm, măn đời cùng kiếp trọn không thể được.

 

GIẢNG:

 

Chỉ v́ chúng sanh chấp tướng cầu bên ngoài, chạy theo h́nh thức nên càng cầu càng mất. Nghe chùa nào thờ Phật đẹp muốn tới chiêm bái. Nghe chùa nào Phật linh cầu ǵ cũng được, muốn chạy lại cầu. Chỉ cầu cái bên ngoài, mà càng cầu càng mất. Khiến Phật đi t́m Phật tức sai ông Phật thật đi t́m ông Phật giả. Ông Phật thật là ông Phật tâm tỉnh giác của ḿnh, ông Phật giả là ông Phật xi măng ngồi trên bàn. Có đau không? Nói vậy có người bảo tôi không lạy Phật nữa, sợ tội v́ đem Phật thật lạy Phật giả. Hiểu như vậy càng lầm. Tuy biết ḿnh có Phật thật nhưng chưa sống được với Phật thật mà sống với chúng sanh, th́ thôi đem chúng sanh lạy Phật giả, để tỉnh nhớ ông Phật của ḿnh. Lạy Phật giả để nhớ đến Phật thật nơi ḿnh, chớ không phải lạy Phật để cầu xin. Đó là ư nghĩa người biết tu Phật.

Đem tâm bắt tâm, măn đời cùng kiếp trọn không thể được. Tức đem tâm này t́m tâm khác, cứ đuổi bắt nhau không có ngày cùng. Thí dụ chúng ta vừa dấy niệm xấu, liền dùng niệm tốt đuổi niệm xấu đi. Niệm xấu đi rồi chỉ c̣n niệm tốt, như vậy cũng là tu kha khá. Nhưng vẫn c̣n cái này đuổi cái kia, chỉ khi nào niệm tốt niệm xấu đều lặng th́ cái thật nó hiện tiền.

 

CHÁNH VĂN:

 

Họ chẳng biết, dứt nghĩ quên tính, Phật tự hiện tiền.

 

GIẢNG:

 

Câu này nói trắng ra, không giấu giếm ǵ hết. Họ chẳng biết, dứt nghĩ quên tính, Phật tự hiện tiền, tức ḿnh dứt hết suy nghĩ, dứt hết tính toán th́ Phật tự hiện tiền. Quí vị một ngày Phật hiện được mấy giờ? Hay mấy phút? Sáu tiếng ngồi thiền, tôi cho mất hết năm tiếng, ít ra cũng c̣n một tiếng Phật hiện, chớ chẳng lẽ không có chút nào. Tu là để chúng ta trở về Phật của ḿnh, mà muốn trở về tâm Phật th́ phải dứt nghĩ, quên hết tính toán, Phật mới hiện tiền.

 

CHÁNH VĂN:

 

Tâm này tức là Phật, Phật tức là chúng sanh.

 

GIẢNG:

 

Tâm hiện tiền đó là Phật, tâm này đâu có rời thân người. Cho nên Phật tức là chúng sanh.

 

CHÁNH VĂN:

 

Khi làm chúng sanh tâm này không giảm, khi làm chư Phật tâm này không thêm, cho đến lục độ vạn hạnh công đức như hà sa tự sẵn đầy đủ, chẳng nhờ tu mà thêm, gặp duyên liền thi thố, duyên dứt liền vắng lặng.

 

GIẢNG:

 

Khi làm chúng sanh tâm này không giảm, khi làm Phật tâm này không thêm. Tâm hằng tri hằng giác của ḿnh lúc đang làm chúng sanh, nó vẫn hiện tiền, khi ta thành Phật nó vẫn hiện tiền, đâu có thêm bớt. Cũng chính tâm này khi gặp duyên, nó ứng hiện nào là lục độ vạn hạnh công đức như hà sa, tự đầy đủ, không nhờ tu mà thêm, gặp duyên liền thi thố, duyên dứt liền vắng lặng. Cho nên nói chân không mà diệu hữu. Tâm này không một tướng, một bóng dáng nên gọi là chân không. Từ chân không đó tùy duyên, ứng cơ, lợi vật không thiếu nên gọi là diệu hữu.

 

CHÁNH VĂN:

 

Nếu người không quyết định tin tâm này là Phật, chấp tướng tu hành để cầu được công dụng đều vọng tưởng, cùng đạo trái nhau.

 

GIẢNG:

 

Nếu người không quyết định tin tâm này là Phật, cứ chấp tướng bên ngoài tu hành để cầu được công dụng, th́ những công dụng đó đều là vọng tưởng, cùng đạo trái nhau.

 

CHÁNH VĂN:

 

Tâm này tức là Phật lại không có Phật khác, cũng không có tâm khác.

 

GIẢNG:

 

Tâm không dấy niệm, không suy tính, không so đo v.v… tâm đó là Phật, không có tâm nào khác nữa. Chúng ta thấy một đoạn này Tổ Hoàng Bá dạy Bùi Hưu rất rơ ràng, không giấu giếm tí nào hết. Cũng ngài Hoàng Bá mà khi Lâm Tế tới hỏi th́ đánh, không nói ǵ hết, c̣n Bùi Hưu tới hỏi Ngài lại dạy. Tại sao? Chỗ này phải nắm cho vững, nếu không chúng ta hiểu lầm chắc gặp quan, Ngài nể nên chỉ dạy, c̣n gặp Tăng Ngài đánh.

Nếu đi sâu chúng ta sẽ thấy thâm ư người xưa. V́ Bùi Hưu là quan, không có thời giờ, nếu hiểu được đạo ông sẽ ủng hộ đạo. C̣n Lâm Tế, Tổ biết là một người có tương lai, nếu nói rơ cho nghe th́ nhận một cách quá nhẹ nên dễ quên. Như mấy chú nghe tôi giảng có thể ngay lúc đó hiểu, nhưng một lát quên mất, cuối cùng chỉ nhớ hơn thua tốt xấu phải quấy lăng xăng, mà quên cái thật. Muốn cho con người kỳ đặc kia được chỗ thâm nhập măi măi không quên, cho nên dồn ép bằng cách đánh.

Hỏi “thế nào là đại ư Phật pháp”, Tổ liền đánh. Hỏi ba lần, đánh ba lần, đánh cho khóc ṃ v́ không biết lỗi tại chỗ nào mà ăn đ̣n. Nhưng tới chừng gặp ngài Đại Ngu chỉ nói một cách hết sức nhẹ: “Hoàng Bá thật là tâm lăo bà, chỉ tột cùng cho ông rồi, mà ông c̣n nghĩ có lỗi không lỗi”, ngay đó ngài Lâm Tế nhận ra, thấy rơ ràng. Cho nên nói “từ khi nhận được rồi tới sau không bao giờ quên, không bao giờ mất”. V́ vậy tông Lâm Tế kéo dài măi hơn một ngàn năm. Như vậy không phải v́ vị nể Bùi Hưu mà Tổ xử sự nhẹ nhàng, không v́ ác cảm với Lâm Tế mà đánh đập. Hành động đánh là gây một ảnh hưởng sâu đậm lâu dài cho ngài Lâm Tế. C̣n vị cư sĩ kia hiểu bao nhiêu tốt bấy nhiêu, không sao hết. Nếu đánh Bùi Hưu, ông sẽ oán chùa, có lợi ǵ. Cho nên hai trường hợp khác nhau.

Biết như vậy nhưng sao bây giờ tôi không đánh mấy chú? Bây giờ người ta đồn tu thiền điên, mà tôi lại đánh hét nữa th́ người ta nói tôi điên mất rồi, ai dám tu thiền. Do đó tôi phải giảng nói để mấy chú lănh hội được phần nào hay phần ấy, cộng thêm sách vở nghiên cứu. Từ đó quí vị mới tin Phật pháp hay mà ráng tu, chớ làm như người xưa không thể được. Tùy thời cơ, tùy hoàn cảnh mà linh động, chúng ta không thể chấp một bề. Có nhiều người nói Đức Sơn đánh, Lâm Tế hét đó là Thiền tông Trung Hoa. Ḿnh bây giờ cũng tu thiền, tại sao không biết đánh biết hét ǵ hết, như vậy là hiểu lầm. Mỗi trường hợp có cái khác nhau, chúng ta phải linh động, không thể chấp cứng một bên.

 

CHÁNH VĂN:

 

Tâm này sáng sạch ví như hư không, không có một điểm tướng mạo, khởi tâm động niệm liền trái pháp thể, tức là chấp tướng. Từ vô thủy tới nay không có Phật chấp tướng. Tu lục độ vạn hạnh muốn cầu thành Phật, tức là thứ lớp. Từ vô thủy đến nay không có Phật thứ lớp.

 

GIẢNG:

 

Ở đây cho chúng ta thấy lối tu đốn ngộ không có thứ bậc, không từ Bồ-tát thập tín, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng, thập địa v.v… mà đi thẳng. Mê là chúng sanh, ngộ là Phật. Đốn là đốn chỗ đó, chỉ có một bước mê và ngộ thôi. Nhưng trong cái ngộ, có người ngộ cạn, có người ngộ được sâu, hoặc người ngộ nhưng giữ không được và người ngộ mà giữ được, khác nhau như vậy. Ở đây không đặt thứ bậc thấp cao, chỉ thẳng cái tâm thể chân thật, chúng ta nhận được gọi là thấy đạo. Thấy đạo rồi cứ thế mà tu.

Lúc lặng lẽ mà rơ ràng thường biết, tâm đó không có một chút tướng mạo, nên ví như hư không. Song hư không th́ vô tri, c̣n tâm thể hằng tri, hằng giác, khác nhau chỗ đó. Vừa khởi tâm động niệm liền trái pháp thể. V́ khi dấy niệm, chúng ta chạy theo niệm nên ông chủ ẩn mất. Bởi vậy cả ngày nói tu mà tu với tướng bên ngoài. Nhớ chuyện này, nhớ chuyện kia, rồi phê phán người này hay người kia dở. Sự tu nằm trên tướng sanh diệt th́ không đi tới chỗ chân thật. Nếu được điều ǵ chẳng qua do chấp tướng mà được. Nên ở đây nói “không có Phật chấp tướng”. Phật thật th́ không chấp tướng, đă chấp tướng th́ không phải Phật thật. Chúng ta tu khó v́ lâu nay quen huân tập nhiều thứ, nên buông không được.

Tu lục độ vạn hạnh muốn cầu thành Phật, tức là Phật thứ lớp, nghĩa là từ Phật thập tín, Phật thập trụ, Phật thập hạnh cho tới Phật thập địa v.v… đó là Phật thứ lớp. Từ vô thủy tới nay Phật là Phật, chớ không có Phật thứ lớp.

 

CHÁNH VĂN:

 

Chỉ ngộ một tâm lại không có một chút pháp có thể được, đây tức là chân Phật. Phật cùng chúng sanh một tâm không khác.

 

GIẢNG:

 

Ngộ được tâm không dấy niệm đó th́ không một chút pháp có thể được, v́ tâm ấy không phải pháp ǵ hết. Đây tức là chân Phật, Phật cùng chúng sanh một tâm không khác. Phật đó với Phật của tất cả chúng sanh chỉ một Phật tâm, không có hai.

 

CHÁNH VĂN:

 

Ví như hư không, không xen lẫn, không hư hoại. Như vầng mặt trời soi bốn phương thiên hạ. Khi mặt trời lên ánh sáng chiếu khắp cả thiên hạ, hư không không từng sáng; khi mặt trời lặn, bóng tối che trùm thiên hạ, hư không không từng tối. Cảnh tối sáng tự đuổi cướp nhau, tánh hư không rỗng lặng chẳng đổi.

 

GIẢNG:

 

Thí dụ này xét kỹ thật hay. Ví như hư không, không có xen lẫn, không bị thứ ǵ làm hư hoại. Như vầng mặt trời soi bốn phương thiên hạ, lúc mặt trời lên nh́n trong hư không thấy sáng. Khi mặt trời lặn nh́n trong hư không thấy tối. Như vậy hư không có tối sáng không? Nếu nó sáng th́ khi tối lẽ ra cái sáng ḥa lẫn trong cái tối, nhưng thực tế không phải như vậy, nên biết hư không không tối, không sáng.

Cảnh tối sáng tự đuổi cướp nhau, tánh hư không rỗng lặng chẳng đổi. Tối đến th́ sáng ẩn, tối ẩn th́ sáng đến, hai thứ cứ đuổi cướp nhau, chớ hư không không đổi. Thực tế một chút, chúng ta thấy khi trong tâm ḿnh nghĩ điều thiện th́ cái thiện hiện ra, nghĩ điều ác th́ cái ác hiện ra. Khi nghĩ thiện th́ không có ác, khi nghĩ ác th́ không có thiện. Tâm chân thật giống như hư không, thiện ác giống như tối sáng. Tối tới th́ sáng ẩn, sáng đến th́ tối ẩn, không cái nào dính với hư không hết. Tâm thể cũng vậy, không có thiện ác. Khi hai thứ thiện ác lặng th́ tâm thể hiện tiền.

Bây giờ dù sáng dù tối cũng không liên hệ ǵ với hư không, nếu không sáng không tối th́ cũng là hư không. Tâm nghĩ thiện, nghĩ ác là tâm sanh diệt, khi tâm sanh diệt ấy dừng lặng th́ tâm thể nguyên vẹn hiện tiền, không t́m kiếm ở đâu. Cho nên gọi nó là “Bản lai diện mục”. Diện là mặt, mục là mắt, mặt mắt thật của chúng ta sẵn có từ thuở nào.

 

CHÁNH VĂN:

 

Phật và chúng sanh tâm cũng như thế. Nếu xem Phật thấy tướng giải thoát thanh tịnh, sáng suốt, xem chúng sanh thấy tướng nhơ bẩn tối tăm, người thấy biết như vậy trải qua số kiếp hà sa trọn không được Bồ-đề, v́ chấp tướng vậy.

 

GIẢNG:

 

Người thấy Phật là giải thoát thanh tịnh, c̣n chúng sanh nhơ bẩn tối tăm, như vậy tu trải qua số kiếp hà sa trọn không được Bồ-đề, v́ chấp tướng vậy. Nếu nghĩ nhớ thân Phật là thanh tịnh sáng suốt, thân chúng ta nhơ bẩn tối tăm th́ được, chớ tâm Phật và tâm chúng ta, tâm thể đó không có bên sáng bên tối. Chỉ v́ chúng ta quên, chạy theo vọng tưởng nên thấy có nhơ bẩn, tối tăm, chớ thể thanh tịnh của Phật và thể thanh tịnh của chúng sanh vốn không hai. Người nào thấy hai là chấp tướng.

 

CHÁNH VĂN:

 

Chỉ một tâm này, trọn không có pháp bằng hạt bụi nhỏ có thể được, tức tâm là Phật.

 

GIẢNG:

 

Chỉ một tâm này, tâm này là tâm nào? Tâm từ bi phải không? Tâm Bát-nhă phải không? Tất cả tâm có danh có tướng đều không phải. Chỉ là tâm thể thanh tịnh sẵn có của ḿnh, không có pháp bằng hạt bụi có thể được. Tâm đó là tâm Phật.

 

CHÁNH VĂN:

 

Như nay người học đạo không ngộ tâm thể này, bèn ở trên tâm sanh tâm, hướng ra ngoài cầu Phật, chấp tướng tu hành đều là pháp ác, chẳng phải đạo Bồ-đề.

 

GIẢNG:

 

Như nay người học đạo không ngộ tâm thể này, bèn ở trên tâm sanh tâm, nghĩa là chúng ta không ngộ, không nhận được tâm chân thật, rồi sanh khởi tưởng Phật thế này, Phật thế nọ. Đó là ở trên tâm sanh tâm. Hướng ra bên ngoài cầu Phật, chạy nơi này nơi kia t́m Phật. Chấp tướng tu hành đều là pháp ác, tại sao? V́ pháp đó không phải là pháp chân thật, cho nên nói là ác. Chẳng phải đạo Bồ-đề v́ đạo Bồ-đề là đạo giác ngộ. Giác ngộ cái ǵ? Giác ngộ tâm Phật của chính ḿnh. Phật tử thường có những sai lầm như nghe ai có ǵ huyền bí, lạ lùng th́ ngỡ người đó đă đạt đạo. Sự thật đạo là tâm chân thật sẵn có nơi ḿnh. Nhận được tâm đó là ngộ đạo, không nhận được là mê.

 

CHÁNH VĂN:

 

Cúng dường chư Phật mười phương không bằng cúng dường một đạo nhân vô tâm. Tại sao? V́ người vô tâm là không tất cả tâm, thể như như, trong như cây đá không động không lay, ngoài như hư không chẳng bít chẳng ngại, không năng sở, không chỗ nơi, không tướng mạo, không được mất. Người thú hướng mà không dám vào pháp này, sợ lạc vào không, không có chỗ nơi nương tựa, trông thấy mé rồi thối lui. 

      

GIẢNG:

 

Đây là dẫn kinh Tứ Thập Nhị Chương, Phật nói cúng dường chư Phật mười phương không bằng cúng dường một đạo nhân vô tâm. Có người thắc mắc cúng dường chư Phật mười phương nhiều như vậy sao không bằng cúng dường đạo nhân vô tâm? Ở đây chỉ cho chúng ta thấy, người phát tâm cúng dường chư Phật mười phương là xoay ra ngoài t́m Phật cầu Phật, c̣n đạo nhân vô tâm là chính ḿnh đi tới chỗ vô tâm, đó là chỗ cúng dường tuyệt đỉnh. Trở về để thấy ông Phật nơi ḿnh c̣n hơn ra ngoài làm trăm ngàn Phật sự, gọi là cúng dường Phật không bằng trở về ḿnh nhận chân được ḿnh. Nhận chân được ḿnh là vô tâm, vô tâm là đạo, đạo tức là Phật. Nên nhớ người học đạo là trở về ḿnh, chớ không phải chạy ra ngoài.

V́ người vô tâm là người không tất cả tâm, thể như như, trong như cây đá không động không lay, ngoài như hư không chẳng bít chẳng ngại, không năng sở, không chỗ nơi, không tướng mạo, không được mất. Người thú hướng mà không dám vào pháp này, sợ lạc vào không, không có chỗ nơi nương tựa, trông thấy mé rồi thối lui. Chỗ này nói chúng ta có hai cái khó. Thứ nhất là làm sao cho được không tâm, tức không tất cả tâm. Không tất cả tâm rồi lại bị cái khó thứ hai là sợ lạc vào không, đâm ra hoảng hốt. Đó là hai cái khó của người tu.

Khó thứ nhất chúng ta có thể qua được, v́ tin lặng hết tất cả niệm sẽ giác. Khi hết tất cả niệm, sao không thấy ǵ hết, sợ rơi vào không, đâm ra hoang mang. Nhưng họ quên không có ǵ hết tức là không tất cả vọng niệm, không tất cả lăng xăng mà thường biết rơ ràng. Thường biết rơ ràng làm sao lạc về không được? Nếu không biết như cây như gỗ th́ lạc về không là phải. Nhưng không tất cả niệm, c̣n vẫn thấy biết rơ ràng mà nói lạc về không th́ vô lư. Nhiều người tu tới đây muốn thối lui, tưởng thấy hào quang mới thích thú, chớ không thấy ǵ hết th́ tu làm chi. Hiểu như vậy thật là lầm to. Chỗ đó vô nhất vật, rỗng thênh, làm sao thấy cái ǵ? Khi tâm chúng ta trong sáng nên biết nó rỗng thênh. Tâm đang biết rỗng thênh làm sao nói không biết ǵ hết!

Chỗ này quí vị tu lâu phải chú ư, nếu không tới đây giật ḿnh, sao lâu nay ḿnh tu nhiều quá mà không c̣n ǵ hết, đâm ra hoang mang. Không c̣n tất cả niệm, tất cả dấy động, chớ tâm thênh thang vẫn c̣n. Song có nhiều người thích tới đó có hào quang hoặc thấy Phật sờ đầu mới vừa ư, không thấy Phật sờ đầu, không thấy hào quang, họ hoảng hốt sợ tu tới đây thành không ngơ. Như vậy để biết chúng ta tu tới đây không c̣n tất cả niệm sanh diệt, chỉ c̣n cái biết rỗng lặng, trùm khắp không nơi chốn. Cái biết rỗng lặng đó là tâm thể, là Phật thật của ḿnh, chớ không phải ǵ lạ. Nhận được như thế rồi, tu thuần thục mới có diệu dụng vô cùng, cho nên nói chân không mà diệu hữu. Đi tới đó Phật mới có tam minh, lục thông v.v… C̣n chúng ta chưa tới đó mà đă hoảng muốn thối lui, làm sao được? Chỗ này hết sức quan trọng, người tu không biết rất dễ lầm lẫn.

 

CHÁNH VĂN:

 

So sánh để t́m thấy biết rộng. Thế nên người thấy biết như lông, người ngộ đạo như sừng.

 

GIẢNG:

 

Sở học nhiều, hiểu biết rộng ví như con nai, lông th́ nhiều nhưng sừng chỉ có hai thôi. Ở thế gian học để trở thành một người khôn mất chừng bao nhiêu năm? Học suốt đời suốt kiếp, đủ trăm ngàn muôn thứ, biết được phần này th́ không biết phần khác, cho nên học càng rộng thấy biết càng nhiều, nhưng chỉ là lông. Như lông con nai, chúng ta đếm hết không? Không, v́ quá nhiều nhưng lại không có giá trị, c̣n sừng nh́n thấy hai cái thôi, đơn giản và rất có giá trị.

 

CHÁNH VĂN:

 

Văn-thù xứng lư, Phổ Hiền xứng hạnh. Lư là lư chân không vô ngại. Hạnh là hạnh ĺa tướng không cùng.

 

GIẢNG:

 

Ngài Văn-thù xứng lư, lư tức là trí, trí hợp với lư. Phổ Hiền xứng hạnh, hạnh đi đôi với nguyện, nên thường nói hạnh nguyện. Người lư, người hạnh. Ở đây Ngài nói lư là lư ǵ? Là lư chân không vô ngại, v́ trí tuệ chân thật đạt được lư chân không. Hạnh là hạnh ǵ? Là hạnh ĺa tướng không cùng, tất cả tướng đều ĺa, đó là hạnh. Chúng ta bây giờ nói trí, nói hạnh lại khác. Trí biết nhiều nhưng biết toàn những thứ giả danh giả tướng, hạnh là làm tất cả việc nhưng chỉ là những việc không thật. Ở đây Ngài trở về tâm, lư là chân không vô ngại, hạnh là ĺa tướng không cùng.

 

CHÁNH VĂN:

 

Quan Âm xứng đại từ, Thế Chí xứng đại bi.

 

GIẢNG:

 

Bồ-tát Quán Thế Âm xứng với hạnh đại từ, Bồ-tát Đại Thế Chí xứng với hạnh đại bi.

 

CHÁNH VĂN:

 

Duy-ma là Tịnh Danh. Tịnh là tánh, danh là tướng. Tánh tướng không khác nên hiệu là Tịnh Danh.

 

GIẢNG:

 

Ngài Duy-ma-cật dịch theo nghĩa chữ Hán là Tịnh Danh. Tịnh là tịnh cái tánh, c̣n Danh là tướng. Danh tướng đều thanh tịnh, tánh tướng không khác nên hiệu là Tịnh Danh.

 

CHÁNH VĂN:

 

Các vị đại Bồ-tát tiêu biểu nơi người đều sẵn có, không rời một tâm, ngộ đó tức phải.

 

GIẢNG:

 

Nói tới Bồ-tát Văn-thù là nói lư chân không vô ngại nơi tâm chúng ta. Nói Bồ-tát Phổ Hiền là nói hạnh ĺa tất cả chấp tướng, chấp bóng dáng nơi nội tâm của ḿnh. Nói Bồ-tát Quan Âm là nói tới ḷng đại từ nơi mỗi chúng ta. Nói Bồ-tát Thế Chí là nói hạnh đại bi của ḿnh. Nói tới ngài Duy-ma-cật là nói tới Tịnh Danh, tức tánh tướng đều thanh tịnh. Như vậy tất cả Bồ-tát đều biểu trưng sẵn có nơi mỗi chúng ta.

Chúng ta thường được học Bồ-tát Văn-thù là căn bản trí, Bồ-tát Phổ Hiền là sai biệt trí. Căn bản trí là trí thấu suốt lư chân không vô ngại, sai biệt trí là trí ĺa tất cả tướng không cùng. V́ có trăm ngàn thứ tướng sai biệt nên dùng sai biệt trí để dẹp. Tại sao ở đây nhắc đến ngài Văn-thù, Phổ Hiền trước rồi mới tới Quan Âm, Thế Chí? V́ đạt được lư chân không vô ngại, ĺa các tướng vô cùng, chừng đó mới phát đại bi tâm, đại từ tâm là Quan Âm, Thế Chí.

Tuy nhiên, nhận được lư chân không vô ngại, c̣n phải đợi ngài Phổ Hiền. Ngài Phổ Hiền gạt hết tất cả niệm sanh diệt rồi mới tới chỗ vô tâm. Vô tâm, có người nghe một lần liền được, có người phải nhiều năm, nhiều tháng, nhiều đời mới được. Chúng ta nhớ Lục tổ Huệ Năng khi ngộ rồi, từ đó về sau không cần ngồi thiền như ḿnh nữa. Thấy chú nào ngồi thiền Ngài lại nắm lỗ tai thổi. Tại sao vậy? V́ Ngài đi đứng ngồi nằm đều vô tâm, ngồi chi cho thừa. Tổ Lâm Tế khi được vô tâm rồi, Ngài nói không cần dụng công mà cũng không có một niệm.

Chúng ta bây giờ chưa được chỗ cứu kính cho nên gỡ lần mấy chú vọng tưởng. Đầu tiên gỡ mấy chú xấu trước, lần lần mấy chú tốt cũng lùa đi luôn. Chừng nào lùa hết tốt xấu mới thảnh thơi, nhẹ nhàng. Đó là gốc của sự tu. Nếu không như vậy sự tu hành của chúng ta sẽ không đi tới đâu.

Hiện giờ chúng ta c̣n phàm phu, nếu giúp được ai th́ dễ có bệnh ǵ? Giúp được người liền thấy ḿnh có công ơn, nếu người không đề cao, không ca tụng, ḿnh không vui. Được danh th́ vui, không được danh th́ buồn, v́ chúng ta c̣n kẹt trên danh tướng. Người ngộ được lư chân không, thấu suốt tất cả pháp sanh diệt, bỏ hết th́ tâm rỗng rang sáng suốt. Người ấy thấy chúng sanh mê muội kẹt trên h́nh tướng liền khởi tâm từ thương cứu giúp, thấy họ đi trong ṿng danh lợi, tử sanh khởi tâm bi xót xa không nỡ bỏ, nên nguyện cứu vớt chúng sanh. Chúng ta bây giờ lo cứu những cái có h́nh có tướng, càng cứu lại càng sa lầy.

Làm việc thiện là tốt, nhưng làm trong danh trong tướng nên dễ mắc kẹt. Đă mắc kẹt th́ nó dẫn chúng ta đi trong luân hồi sanh tử. V́ vậy, chúng ta có tâm đại từ, tâm đại bi khi nào đạt được lư chân không vô ngại, khi nào hạnh ĺa tướng không cùng, chừng đó mới là đại từ, đại bi chân thật. V́ vậy đức Quan Âm, Thế Chí được nhắc sau Bồ-tát Văn-thù, Phổ Hiền. Bồ-tát Văn-thù đi đầu v́ nhận được tâm chân thật, sau mới ĺa hết vọng niệm, ĺa hết các tướng. Nếu không có trí tuệ dẫn đầu làm sao chúng ta ĺa các tướng? Không nghĩ cái này th́ nghĩ cái kia. Bởi vậy tu thiền khó nhất là buông bỏ, niệm nào cũng bỏ. Nếu không nhận được ḿnh có tâm thể chân thật, rỗng lặng th́ không chắc ǵ ḿnh bỏ trọn vẹn, ĺa trọn vẹn được, cho nên nói đốn ngộ tiệm tu là thế. Đốn ngộ là nhận được tâm thể của ḿnh, rồi sau mới ĺa bỏ vọng niệm. V́ vậy Bồ-tát Văn-thù đi trước, Bồ-tát Phổ Hiền đi sau. Được Văn-thù, Phổ Hiền nhập tâm rồi, sau mới tới hạnh của Bồ-tát Quan Thế Âm, Đại Thế Chí. Bốn vị Bồ-tát này có sẵn nơi ḿnh hết. Hiểu như vậy mới thấy giá trị tu, mỗi vị Bồ-tát là mỗi hạnh có sẵn nơi ḿnh.

Ngài kết luận: Các vị đại Bồ-tát tiêu biểu nơi người đều sẵn có, không rời một tâm, ngộ đó tức phải. Nhận ra được như thế tức là phải.

 

CHÁNH VĂN:

 

Nay người học đạo không hướng trong tâm ḿnh mà ngộ, bèn ở ngoài tâm chấp tướng theo cảnh đều trái với đạo.

 

GIẢNG:

 

Ngài quở trách chúng ta học đạo mà không hướng vào trong tâm để ngộ, cứ chạy theo tướng bên ngoài. Đó là trái đạo.

 

CHÁNH VĂN:

 

Cát sông Hằng, Phật nói là cát. Chư Phật, Bồ-tát, Thích phạm, chư Thiên đạp giẫm đi qua, cát cũng chẳng mừng; trâu, dê, trùng, kiến giày xéo lên trên, cát cũng chẳng giận. Trân bảo thơm tho, cát cũng chẳng tham; phẩn uế hôi thối, cát cũng chẳng ghét. Tâm này tức tâm mà không tâm, ĺa tất cả tướng, chúng sanh chư Phật không có sai biệt, chỉ hay vô tâm liền là cứu kính.

 

GIẢNG:

 

Có bài kinh đức Phật nói chúng ta tu hạnh nhẫn nhục cũng như cát vậy. Người giẫm đạp lên, trâu lừa ngựa đi qua, cát không la rầy. Giả sử có người đem trân bảo hay hoa thơm bỏ xuống, cát không mừng. Hoặc ai đó đem đồ hôi thối quăng trên mặt cát, cát cũng không buồn. Tâm thể giống như cát, bởi nó không niệm làm sao có mừng, có giận. Người sống được với tâm đó th́ cả ngày không buồn, không giận, không thương, không ghét. Ai mắng cũng không giận, ai khen cũng không mừng th́ có ngu không? Thế gian nói kẻ đó là kẻ ngu, nhưng với đạo đó là bậc Thánh. V́ không bị tâm sanh diệt lôi cuốn chạy theo thanh trần bên ngoài, nên thản nhiên tự tại. Tâm đó là tâm thể biết tất cả, mà không dấy niệm thương ghét giận hờn, nên đâu có vui buồn.

Tâm của chúng sanh luôn so sánh phân biệt, vừa có lời khen liền vui, có lời chê liền giận, được th́ mừng, mất th́ buồn v.v… cả ngày đổi thay vùn vụt, không dừng. Vui buồn thương ghét là nhân tạo nghiệp luân hồi sanh tử. Nếu không vui buồn thương ghét là nhân ǵ? Nhân giải thoát sanh tử. Cái không đi trong luân hồi sanh tử không phải Phật là ǵ?

Tâm này tức tâm mà không tâm, ĺa tất cả tướng, chúng sanh chư Phật không có sai biệt, chỉ hay vô tâm liền là cứu kính. Ở đây bảo vô tâm là vô tâm nào? Vô tâm là vô cái tâm sanh diệt, c̣n tâm bất sanh vẫn hiện tiền. Chỉ vô cái tâm sanh diệt, th́ tâm chân thật hiển hiện.

 

CHÁNH VĂN:

 

Người học đạo nếu không thể thẳng đó vô tâm th́ nhiều kiếp tu hành trọn không thành đạo, bị công hạnh tam thừa ràng buộc, không thể được giải thoát.

 

GIẢNG:

 

Nếu người học đạo không thể thẳng đó vô tâm, dù nhiều kiếp tu hành trọn không thành đạo. Bởi v́ vô tâm mới được chỗ chân thật. Chân thật là ǵ? Là chân không vô ngại, đó mới là gốc thành Phật. Nếu chúng ta c̣n có một h́nh, một tướng trạng nào đều là bị ràng buộc, không thể giải thoát.

Người tu trải qua nhiều bậc và người ngay một đời này nhận ra, chỗ vô tâm như nhau. Quí vị hay so sánh người ở chùa hai chục năm, với người mới vào đạo một năm, nếu cả hai đều được vô tâm th́ cho là người hai chục năm cao hơn người một năm. Thật ra chỗ được đó không khác, trừ công tạo lập, gầy dựng, đạo đức mới khác. Nói như vậy để chúng ta biết rằng tới chỗ vô tâm, dù người tu nhiều năm hay người chỉ tu một thời gian ngắn mà đến được đó đều như nhau.

 

CHÁNH VĂN:

 

Nhưng, chứng tâm này có nhanh chậm. Có người nghe pháp một niệm liền được vô tâm. Có người đến thập tín, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng mới được vô tâm. Dài hay ngắn được vô tâm mới trụ, lại không có thể tu, không có thể chứng, thật không sở đắc, chân thật không dối. Người chỉ một niệm mà được, cùng người đến thập địa mới được, công dụng tương đương, không có sâu cạn, chỉ là nhiều kiếp luống chịu khổ nhọc vậy.

 

GIẢNG:

 

Nói người chứng được chân tâm có nhanh chậm. Có người nghe pháp một niệm liền được vô tâm. Có người tu đến thập tín, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng, thập địa mới được vô tâm. Tại sao thứ bậc khác nhau như vậy? Bởi v́ nếu ngay đó trực nhận được bản tâm th́ mạnh mẽ buông hết vọng niệm, chỉ c̣n một tâm hiện tiền, đó là nhanh. Nếu tu từ từ, mỗi ngày giảm một chút, lâu ngày bước lên từng cấp bậc, đó là chậm. Hai lối đi đến chỗ ngộ khác nhau v́ tâm mạnh yếu của mỗi người, nên nói dài hay ngắn được vô tâm mới trụ.

Lại không có thể tu, không có thể chứng, không sở đắc, chân thật không dối. Nói không có thể tu, không có thể chứng, không sở đắc, chân thật không dối, đó là lẽ thật. Nghe đến đây có ai vui không? Tu mà không tu, không chứng, không đắc. Không tu, không chứng, không đắc th́ làm ǵ đây? Nếu bỏ một thời khóa liền bị rầy, như vậy quí thầy bắt tu hay không tu? Bắt tu. Tại sao ở đây nói không tu? Quí thầy c̣n khuyên Phật tử cố gắng tu để chứng thành Phật quả là có chứng, tại sao ở đây nói không chứng? Nếu tu nhận được bản tâm là trụ là đắc, sao nói vô trụ vô đắc?

Chúng ta quen quan niệm chữ tu nghĩa là sửa, là chừa bỏ. Những ǵ xấu chúng ta sửa lại thành tốt, cái ǵ hư chúng ta bỏ không dùng nữa. Như vậy chừa bỏ cái xấu để tiến lên cái hay cái tốt, đó là tu. Tâm thể chân thật đâu có hư xấu mà sửa bỏ, chẳng qua chúng ta quên nó nên bây giờ chịu khó nhận nó. Nhận ra, nhớ lại đừng quên là được rồi, không nói tu ǵ cả. Nhưng bây giờ chúng ta lận đận lao đao trên đường tu là v́ sao? V́ quên tâm chân thật, cả ngày chạy theo mấy chú vọng tưởng thành ra lao đao lận đận. Bảo tu là đừng chạy theo vọng tưởng nữa, chớ đâu phải tu cái chân thật sẵn có. Như vậy trên mặt chân thật không có tu, mà tu là sửa lại đừng chạy theo vọng tưởng điên đảo thôi. Không chạy theo vọng tưởng điên đảo là dừng lại, chớ có tu sửa ǵ đâu.

Như sân là một nghiệp ai cũng sợ. Nhiều vị tu năm năm, mười năm vẫn c̣n ngán cái sân. Lâu lâu bị thiên hạ kích động trái ư th́ mặt mày đỏ hừng lên, miệng nói bậy nói bạ. Như vậy đáng sợ không? Nhưng qua cơn điên khùng rồi, ngồi lặng lại t́m xem cái sân hồi năy ở đâu? T́m không ra. Nếu nó thật th́ khi lặng xuống phải có chỗ ẩn núp, nhưng t́m lại không có. Khi dấy động th́ rối loạn lung tung, khi lặng xuống không c̣n dấu vết, cái đó thật hay giả? Giả, vậy mà lâu nay chúng ta v́ khùng điên chạy theo nó. Khùng điên v́ không có nền tảng trí tuệ. Người ta không trí tuệ nên nói bậy, ḿnh cũng không trí tuệ mới chạy theo cái bậy ấy. Từ đó sanh ra đủ thứ hỗn loạn, đủ thứ đau khổ. Chúng ta tu là đừng lầm, đừng mê những lời điên khùng. Nghe việc ǵ cũng cười th́ có chuyện ǵ xảy ra. Nhưng nghe trái tai chịu không nổi liền sanh đủ thứ chuyện. Một người điên cộng thêm hai người điên, rốt cuộc cả chùm điên hết th́ khổ, rồi kêu Ta-bà khổ. Ta-bà khổ tại chỗ nào?

Nếu ngồi yên lặng nh́n lại sẽ thấy rơ ràng, tất cả chúng ta sống trong điên đảo, nên Bát-nhă gọi là vọng tưởng điên đảo. Cái tưởng điên đảo mà cứ chạy theo nó, v́ vậy cả đời điên đảo. Điên đảo từ bé đến già đến chết, cho nên lộn lên lộn xuống làm người làm vật đủ thứ. Bây giờ mỗi lần vọng tưởng dấy lên, biết nó vọng không theo, th́ hết điên đảo. Hết điên đảo mới nhớ cái thật của chính ḿnh, như thế tạm gọi là tu, chớ sự thật có ǵ để tu.

Nói tu là chúng ta đừng chạy theo suy nghĩ lăng xăng, sống thật với cái sẵn có của ḿnh. Không có ǵ để tu th́ có ǵ để chứng không? Không có cái tu làm sao có cái chứng. Không có cái chứng nên cũng không có đắc. Do vậy ở đây nói “không có thể tu, không có thể chứng, thật không có sở đắc”. Không tu, không chứng, không đắc nhưng nhà Thiền dạy thường tỉnh, đừng mê, đừng quên. Vọng tưởng lên biết vọng tưởng không theo th́ sống lại cái thật của ḿnh. Đó là tỉnh và nhớ lại gốc nơi mỗi chúng ta. Người tu phải khéo nhận cho chín chắn, hiểu thật tường tận th́ sự tu hành không khó lắm.

Ở đây nói “chỉ là nhiều kiếp luống chịu khổ nhọc vậy”. Tại sao? V́ chúng ta không nhận ra cái thật, cứ chạy theo thứ lớp, cấp bậc h́nh thức thành ra nhiều thứ nhọc.

 

CHÁNH VĂN:

 

Tạo ác tạo thiện đều là chấp tướng. Chấp tướng tạo ác luống chịu luân hồi; chấp tướng tạo thiện luống chịu nhọc nhằn, thảy đều không bằng một câu nói tự nhận được bản pháp. Pháp này tức là tâm, ngoài tâm không có pháp. Tâm này tức là pháp, ngoài pháp không có tâm. Tâm tự vô tâm, cũng không vô tâm, đem tâm cầu vô tâm, tâm trở lại thành có. Thầm khế hội mà thôi. Dứt các nghĩ bàn, nên nói dứt đường ngôn ngữ, diệt chỗ tâm hành. Tâm này là cội nguồn thanh tịnh. Phật và người đều có. Các loài ḅ bay máy cựa cùng chư Phật, Bồ-tát một thể không khác. Chỉ v́ vọng tưởng phân biệt tạo các thứ nghiệp. Trên quả Phật sẵn có, thật không một vật, rỗng suốt vắng lặng sáng sủa, nhiệm mầu an lạc. Phải sâu tự ngộ nhập, thẳng đó là phải, tṛn đầy sẵn đủ không có thiếu sót.

 

GIẢNG:

 

Ngài nói tạo ác, tạo thiện đều là chấp tướng. Câu này bị người ta phản đối lắm. Tạo ác là chấp tướng, tại sao tạo thiện cũng chấp tướng? Vậy không cho làm thiện sao? Thật ra với cái nh́n đối đăi, tạo ác là tội lỗi, tạo thiện là phước lành. Tạo ác bị luân hồi ở địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Tạo thiện bị luân hồi ở cơi người, a-tu-la, trời. Cả hai đứng về mặt luân hồi đều như nhau, chỉ khác luân hồi ở chỗ khổ và luân hồi ở chỗ ít khổ hơn.

Ví dụ được sanh về cơi trời như trời Đế Thích, lâu lâu cũng hết phước. Khi hết phước năm tướng suy hiện, lúc đó khổ hay vui? Cũng khổ như thường. Như vậy tất cả khổ vui trong ṿng luân hồi tuy có khác nhưng gốc vẫn là luân hồi. V́ vậy ở đây nói tạo ác, tạo thiện đều là chấp tướng, một bên bị tướng luân hồi trong tam ác đạo, một bên được tướng luân hồi trong tam thiện đạo. Nên nói làm thiện th́ luống chịu nhọc nhằn v́ c̣n phải lên xuống trong các đường, không bằng một câu nói tự nhận bản pháp, pháp này tức là tâm.

Ngày nay thiên hạ chịu tạo thiện để đời sau sung sướng hơn đời này. Nói đời sau nhập Niết-bàn thấy xa vời quá, chỉ muốn sướng hơn đời này một chút là vui rồi. Hoặc nói mất không có đời sau th́ buồn chết. Do đó người đời thích làm thiện, không thích tu giải thoát sanh tử. V́ vậy khuyến khích làm lành người ta dễ chấp nhận, c̣n bảo tu cho thoát khỏi sanh tử, người ta không biết sẽ ra sao nên không nghe theo.

Ở đây các Tổ dạy muốn ra khỏi sanh tử phải nhận được bản pháp. Pháp tức là bản tâm của ḿnh. Khi tâm khởi nghĩ xấu đó là tạo nghiệp ác, nghĩ lành là tạo nghiệp thiện. Người mới tập tu phải bỏ nghĩ ác, nuôi nghĩ lành. Tuy nhiên nghĩ ác sanh ba đường dữ, nghĩ lành sanh ba đường thiện th́ cũng là sanh. C̣n có nghĩ là c̣n tạo nghiệp, chừng nào tâm không c̣n nghĩ hai bên, lúc đó ta vẫn biết mà không có niệm, đó chính là tâm chân thật. Không có niệm th́ không có nghiệp, không có nghiệp th́ thoát ly sanh tử. Cho nên muốn ra khỏi ṿng sanh tử phải dứt cả hai bên. Cái nghĩ hai bên đều buông xả hết, rốt cuộc c̣n một tâm thể thanh tịnh hằng tri, hằng giác, không bị sanh tử. Không bị sanh tử th́ nó có hay không? Không phải có, không phải không. Tại sao? V́ c̣n thấy có, thấy không cũng là hai bên.

Khi hai niệm thiện ác không nghĩ th́ c̣n cái biết không? Biết rơ ràng là c̣n tâm, chớ đâu phải không tâm. Tâm ấy không bị nghiệp dẫn nên nói giải thoát. Điều này hết sức cụ thể, không phải chuyện mơ màng thiếu thực tế. Chúng ta không chịu nghiệm xét, cứ chạy theo nghĩ ác nghĩ thiện, như vậy mà tạo nghiệp luân hồi. Lục Tổ nói hết sức thẳng: “ Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái ǵ là Bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?” Câu này Ngài đă chỉ trắng ra, không c̣n một chút ǵ giấu giếm. Dứt cả nghĩ thiện, nghĩ ác th́ hiện hữu Bản lai diện mục của ḿnh, thoát ly sanh tử.

Như người tu theo hạnh Thanh văn chứng Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán. Tới A-la-hán rồi tiến lên Diệt tận định, không c̣n niệm thiện ác. V́ Diệt tận định th́ đâu c̣n niệm thiện, niệm ác. Rơ ràng không có vị A-la-hán nào c̣n niệm. Diệt tận định là định không c̣n một chút tâm dạng niệm khởi, như vậy mới tới vô sanh, nhập Niết-bàn. Ngay đây nếu chúng ta không c̣n hai niệm thiện ác th́ dù chưa nhập Niết-bàn nhưng cũng như ở Niết-bàn. Quí vị chịu ở Niết-bàn không? Ai cũng mơ ước được giải thoát nhập Niết-bàn, trong khi Niết-bàn ngay trước mắt không chịu nhận.

Ở đây chỉ thẳng tâm sanh diệt tạo nghiệp luân hồi, tâm không sanh diệt đi đến Niết-bàn. Ai có gan không thèm nghĩ thiện, nghĩ ác th́ gần Niết-bàn rồi, khỏi cần nhập Diệt tận định. Chúng ta hiểu cho tường tận mới thấy đường lối của Phật Tổ dạy, tuy khác nhau từ cấp bậc, nhưng chỗ cứu kính vẫn gặp nhau, không thể khác được. Nên nói “Tâm này tức là pháp, ngoài pháp không có tâm”. Thường thường nhà Phật hay dùng từ “pháp” để chỉ muôn sự muôn vật, mà cũng dùng từ “pháp” để chỉ cho chánh pháp của Phật dạy. Tất cả pháp đều từ tâm này mà ra nên biết tâm này tức là pháp, ngoài pháp không có tâm.

Tâm tự vô tâm, cũng không vô tâm, đem tâm cầu vô tâm, tâm trở lại thành có. Tâm này tự vô tâm. Tại sao? V́ đứng trên hai mặt, niệm hữu niệm vô hay niệm thiện niệm ác, người ta nói có tâm. Hết những niệm đó th́ tâm mà vô tâm. Tâm là sao? V́ không có niệm mà vẫn biết, vẫn tri giác đó là tâm. Vô tâm là sao? V́ không có niệm thiện, niệm ác đó là vô tâm. Vô tâm mà không phải không ngơ, vô tâm tạo nghiệp nhưng tâm chân thật vẫn hiện tiền. V́ vậy nói tâm tự vô tâm.

Cũng không vô tâm là sao? Bởi v́ tâm hằng tri giác làm sao vô được. Đem tâm cầu vô tâm, tâm trở lại thành có, nếu khởi tâm để t́m tâm chân thật, tâm ấy trở thành có rồi. Chỗ tâm này là tâm mà vô tâm. Tại sao? V́ hằng biết mà không nghĩ thiện, không nghĩ ác, không nghĩ phải, không nghĩ quấy v.v… đó là vô tâm. Vô tâm tức là tâm. Tại sao? V́ vô tâm sanh tử hay vô tâm tạo nghiệp, mà c̣n tâm chân thật. Cho nên vô tâm mà vẫn là tâm, không phải vô tâm là không có ǵ hết.

Tâm dấy niệm t́m thuộc về dấy động, lấy dấy động t́m tâm chân thật, làm sao t́m được? Cho nên nói nếu dùng tâm t́m tâm, tâm trở lại thành hữu, nghĩa là tâm bị t́m trở thành có. Trong mười mục chăn trâu, ban đầu c̣n trâu c̣n chăn, cuối cùng trâu mất chăn cũng không c̣n. Nếu c̣n một thằng chăn hay c̣n con trâu cũng chưa tới chỗ cứu kính, phải cả hai đều mất, mới đi tới chỗ viên măn. V́ vậy nói tâm này chỉ thầm khế hội, thầm nhận thầm biết, chớ không t́m kiếm.

Dứt các nghĩ bàn, không thể nghĩ bàn tới chỗ đó, nên dứt đường ngôn ngữ, chỗ ấy không nói năng ǵ được, diệt chỗ tâm hành, dứt tâm theo đuổi t́m kiếm. Câu nên dứt đường ngôn ngữ, diệt chỗ tâm hành, là chỉ cho muốn đến nơi chân thật th́ không c̣n ngôn ngữ, không c̣n tâm hành. Thiền sư Đả Địa khi có người hỏi “thế nào Phật”, Ngài chỉ cầm gậy đập dưới đất một cái, hỏi “thế nào pháp” cũng đập một cái, không trả lời ǵ hết. Tại sao? V́ Phật và pháp là chỗ không có ngôn ngữ, vừa có ngôn ngữ liền trật rồi. Ngài chỉ thẳng nhưng chúng ta không biết nên không nhận ra yếu chỉ của Thiền sư.

Ngài Lâm Tế tới hỏi Tổ Hoàng Bá “thế nào là đại ư Phật pháp”, ngài Hoàng Bá không nói mà chỉ đập thôi. Bởi v́ đây là chỗ ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt, bây giờ phải trả lời làm sao? Trả lời là có ngôn ngữ, thành ra Tổ cầm gậy đập. Như vậy thấy tàn nhẫn quá. Hỏi một câu có nghĩa có lư đàng hoàng, không chỉ lại đánh. Khi Lâm Tế tới ngài Đại Ngu, Ngài bảo: “Hoàng Bá thật là tâm lăo bà v́ ông mà chỉ chỗ tột cùng, ông c̣n nghĩ có lỗi không lỗi.” Bởi chỉ chỗ tột cùng nên không thể mở miệng, không cho hành giả suy nghĩ. Có nói là có suy nghĩ, v́ vậy Ngài chỉ đánh, đó là tâm lăo bà.

Bây giờ tôi cũng đánh, không nói ǵ hết, quí vị chịu không? Chắc ít tháng xách gói đi hết. Tâm lăo bà không đúng chỗ thiên hạ cũng không chịu nổi. Chỉ người đến nơi rồi mới thấy được tâm lăo bà, c̣n chưa đến th́ thấy tàn nhẫn. Chúng ta nh́n hành động ấy cũng thật bất b́nh, cho nên Lâm Tế khóc là phải. Tức quá mà, hỏi có ư nghĩa đàng hoàng không dạy không trả lời, c̣n đánh nữa. Đâu phải đánh một lần, ba lần đều như vậy, không tức sao được. Chính chỗ dồn ép đó, sau này ngài Lâm Tế ngộ được mới truyền bá hơn ngàn năm. Đó là thủ thuật đại tài của những bậc đại Thiền sư, chúng ta bây giờ chỉ là tiểu Thiền sư nên không dám dùng thủ thuật ấy.

Tâm này là cội nguồn thanh tịnh. Khi không nghĩ thiện, không nghĩ ác, không nghĩ phải, không nghĩ quấy mà thường biết th́ cái biết đó thanh tịnh không? Thanh tịnh. Cái biết thanh tịnh này có người nào thiếu không? Nếu không, tại sao không dám nhận, phải chờ nhắc tới nhắc lui! Tại v́ quên. Bây giờ nhờ thiện hữu tri thức nhắc nhở mới nhớ, mỗi lần nhắc tin thêm một chút, nhận ra một chút, lâu ngày thấm dần, chừng đó mới nhận toàn diện. V́ vậy phải chịu cực.

Phật và người đều có, chư Phật có tâm đó, chúng ta cũng có tâm đó, cho đến loài ḅ bay máy cựa cùng Bồ-tát đều có tâm ấy. Tại sao? V́ các loài đều có tánh biết.

Chỉ v́ vọng tưởng phân biệt tạo các thứ nghiệp, chúng ta c̣n vọng tưởng nên c̣n tạo nghiệp, lên hay xuống th́ tùy mỗi người. Muốn hết nghiệp phải hết vọng tưởng. Nếu hết vọng tưởng lúc đó chúng ta khùng hay sáng suốt? Không vọng tưởng biết nấu cơm ăn không? Cũng biết vo gạo, biết lặt rau vậy. Đợi vọng tưởng mới biết làm sao? Khi tất cả chúng ta đều hết vọng tưởng th́ Thiền viện trở thành Cực Lạc rồi, không cần ai nhắc ai, ai rầy ai, cứ tự do làm việc theo tâm thanh tịnh bản nhiên thôi, không chuyện ǵ hết. C̣n bây giờ phải nghe rầy tới, rầy lui, nhắc qua, nhắc lại là tại mỗi người đều khởi vọng tưởng, thi thố vọng tưởng của ḿnh. Người này vừa vọng tưởng liền muốn thi thố ra, người khác cũng thi thố đối lại, riết thành cả đám căi nhau hoài. Căi là gốc từ vọng tưởng, không có cái nào ngoài vọng tưởng hết. Nếu tất cả Tăng Ni sống mà không vọng tưởng th́ có chuyện ǵ phải căi, phải rầy nữa. Thật nhẹ nhàng biết mấy! Nên con đường thành Phật không phải xa, xa là chỉ v́ vọng tưởng mà ra.

Trên Phật quả sẵn có, thật không một vật, rỗng suốt vắng lặng sáng sủa, nhiệm mầu an lạc. Trên quả Phật sẵn có là sẵn có cái ǵ? Không một vật ǵ hết, bản lai vô nhất vật, rỗng suốt vắng lặng, nhiệm mầu an lạc. Bây giờ vị nào thử trong một ngày không vọng tưởng, từ sớm tới chiều ở Thiền đường ra ngoài làm công tác, đừng có một chút vọng tưởng, người đó có thể sống được với cái sáng suốt rỗng lặng của ḿnh không? Nghe nói sáng suốt rỗng lặng, thiên hạ tưởng tới đó bế tắc, không hiểu biết, nhưng không ngờ đến đó mới được nhiệm mầu, an lạc. Cho nên đức Phật nhập định sâu, sau đó mới chứng Tam minh, Lục thông. Từ chân không mới có diệu hữu. Chân không là chỗ không tất cả vật, không tất cả nghiệp, rỗng suốt vắng lặng, đến đây rồi mới có Tam minh, Lục thông tức là diệu hữu.

Phải sâu tự ngộ nhập, thẳng đó là phải, tṛn đầy sẵn đủ không có thiếu sót. Tất cả chúng ta ai cũng đủ, cũng sẵn có tâm Phật, tất nhiên ai cũng có quyền làm Phật. Cho nên Bồ-tát Thường Bất Khinh gặp ai cũng bái, nói: “Tôi không dám khinh các ngài, v́ các ngài đều sẽ thành Phật.” Đó là lời Bồ-tát nhắc khéo, chúng ta có đủ khả năng thành Phật mà quên nên phải nhắc. Nhiều người nghĩ Ngài nói câu đó với tư cách khiêm nhường, nhưng sự thật đó là bài pháp ngắn, đánh thức khả năng thành Phật nơi mỗi người, để chúng ta vững niềm tin tiến tu, chớ không phải câu nói khiêm nhường.

Học tới đây chúng ta đă biết v́ sao ḿnh đi trong luân hồi, làm sao để ra khỏi sanh tử. Như vậy có cần coi bói xem ḿnh được giải thoát không? Chính thầy bói cũng luân hồi sanh tử, làm sao coi được. Phải tự thấy ḿnh tường tận, nếu đang tạo nghiệp trong sanh tử th́ sẽ đi đường sanh tử. Nếu nuôi dưỡng toàn những niệm xấu th́ sẽ đi trong ba đường địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Nếu thuần niệm thiện, thương người này giúp kẻ kia, th́ biết ḿnh sẽ đi trong ba đường lành. C̣n cả ngày từ sớm tới chiều như ngây như ngu, tâm thanh tịnh không một niệm nào dấy khởi là biết ngang đây dứt đường sanh tử. Rơ ràng như vậy khỏi cần hỏi, khỏi cần cầu xin ai hết. Chúng ta đủ thẩm quyền để chọn lối đi. Lối thứ nhất xuống ba đường dữ, lối thứ nh́ sanh ba đường lành, lối thứ ba ra khỏi sanh tử. Mỗi vị tự chọn lấy, không ai chọn thế được.

V́ vậy các Thiền sư nói tới nói lui, nói qua nói lại đều bảo đừng dính hai bên. V́ đó là gốc của luân hồi sanh tử. Chừng nào hai bên lặng, dù chúng ta ra vườn nhổ cỏ mà cũng là đang ở trong đại định. Lục Tổ dạy đại định là làm tất cả việc mà không có niệm dính hai bên. Trong đại định có tuệ, v́ không dấy động là định, mà hằng tri hằng giác là tuệ. Đây gọi là định tuệ không hai. C̣n định trước rồi lần lần sanh tuệ, không gọi là đại định. Đó là chỗ thâm sâu mà người học đạo cần phải biết cho rơ, mới thông cảm được với người xưa.

 

CHÁNH VĂN:

 

Giả sử người tinh tấn tu hành trải qua ba vô số kiếp, qua các địa vị, cùng người do một niệm chứng được, chỉ là chứng cái sẵn có. Kỳ thật, trên Phật của ḿnh không thêm được một vật ǵ, xem lại công dụng nhiều kiếp thảy đều là việc làm trong mộng. Cho nên Như Lai nói: “Ta đối với A-nậu Bồ-đề (Vô thượng Chánh giác) thật không có sở đắc, nếu có sở đắc, đức Phật Nhiên Đăng ắt không thọ kư cho ta.”

 

GIẢNG:

 

Nếu tu hành theo kinh dạy th́ phải trải qua ba vô số kiếp mới được thành Phật. Ở đây nói trải qua ba vô số kiếp, qua các địa vị thập tín, thập trụ v.v… cùng người do một niệm chứng được, chỉ là chứng cái sẵn có của ḿnh, kỳ thật trên Phật của ḿnh không thêm một vật ǵ. Chừng đó mới thấy công phu tu hành qua ba vô số kiếp, thảy đều là việc trong mộng. Bởi v́ tu khổ hạnh thế này, làm lợi ích cho chúng sanh thế kia, nhưng tất cả đều là sanh diệt. V́ vậy dẫn kinh nói: “Ta đối với A-nậu Bồ-đề thật không có sở đắc, nếu có sở đắc, đức Phật Nhiên Đăng ắt không thọ kư cho ta.” Bởi v́ chân thật là cái sẵn có của ḿnh, có thêm bớt ǵ đâu mà sở đắc. Nếu c̣n sở đắc là c̣n kẹt h́nh tướng, kẹt thứ bậc, Phật đâu thọ kư cho người kẹt chấp. Chừng nào chúng ta nhận chân được chỗ chân thật cứu kính, Phật mới thọ kư.

 

CHÁNH VĂN:

 

Lại nói: “Pháp ấy b́nh đẳng không có cao thấp, ấy gọi là Bồ-đề.”

 

GIẢNG:

 

Bởi v́ trên tâm thể chân thật, Phật và chúng sanh không khác nên nói b́nh đẳng, ấy gọi là Bồ-đề.

 

CHÁNH VĂN:

 

Tức tâm bản nguyên thanh tịnh này, chúng sanh, chư Phật, núi sông, thế giới, có tướng, không tướng, khắp cả mười phương thế giới, tất cả đều b́nh đẳng không có tướng ta và kia.

 

GIẢNG:

 

Khi nhận được tâm bản nguyên thanh tịnh rồi, chừng đó chúng ta thấy chúng sanh, Phật cho tới tất cả muôn pháp ở thế gian đều không hai.

 

CHÁNH VĂN:

 

Tâm bản nguyên thanh tịnh này thường tự tṛn sáng soi khắp, mà người đời không ngộ, chỉ nh́n cái thấy nghe hiểu biết làm tâm, bị cái thấy nghe hiểu biết che đậy, cho nên không thấy được bản thể tinh minh.

 

GIẢNG:

 

Chúng ta có tâm bản nguyên thanh tịnh tự tṛn sáng soi khắp hết, mà không nhận, không ngộ được nó, chỉ nhận cái thấy nghe hiểu biết làm tâm. V́ vậy bị cái thấy nghe hiểu biết che đậy, nên không thấy được bản thể tinh minh. Bản thể tinh minh là cái trong sáng của chính ḿnh. Chỗ này không khéo quí vị sẽ nhận lầm rằng tất cả cái thấy nghe hiểu biết không ảnh hưởng ǵ với bản thể tinh minh, v́ Ngài nói chỉ nh́n cái thấy nghe hiểu biết làm tâm. Nhưng nhớ, thấy nghe hiểu biết tức là kiến văn giác tri, nó là giặc mà nó cũng là tâm ḿnh. Đoạn dưới sẽ nói rơ.

 

CHÁNH VĂN:

 

Chỉ nên thẳng đó vô tâm th́ bản thể tự hiện. Như vầng mặt trời lên trên hư không soi sáng khắp mười phương không có chướng ngại. Người học đạo chỉ nhận cái thấy nghe hiểu biết động tác thi vi; không dẹp cái thấy nghe hiểu biết tức là con đường tâm bặt dứt không lối vào. Chỉ nơi cái thấy nghe hiểu biết nhận bản tâm. Song bản tâm không thuộc cái thấy nghe hiểu biết, cũng không rời cái thấy nghe hiểu biết.

 

GIẢNG:

 

Nói đi nói lại, sở dĩ chúng ta lầm là v́ quen cái thấy nghe hiểu biết là tội, mà không nhận ra cái thấy nghe hiểu biết cũng là công. Như vậy thấy nghe hiểu biết thế nào là tội, thấy nghe hiểu biết thế nào là công? Thấy b́nh hoa rồi khởi nghĩ b́nh hoa đẹp xấu đó là tội. Thấy b́nh hoa biết ḿnh có cái hay thấy đó là công. Tội hay công đều do nơi ḿnh. Nghe nói nhận cái thấy nghe hiểu biết, rồi bị nó che đậy nên bịt mắt, bịt tai… hiểu như vậy là lầm.

Đây nói chỉ nên thẳng đó vô tâm th́ bản thể tự hiện, thẳng đó vô tâm tức là đối với tất cả sự việc xảy ra chung quanh, ngay đó chúng ta vô tâm. Được vô tâm th́ như vầng mặt trời lên trên hư không, soi sáng khắp mười phương không có chướng ngại. Ngược lại, nếu có tâm th́ như nh́n lên bầu trời thấy áng mây, chiếc máy bay hay cánh chim… lúc đó ta chú ư vào áng mây, máy bay, cánh chim… nên quên mất bầu trời thênh thang. Tâm ḿnh cũng vậy, tự nó thênh thang, nhưng vừa dấy niệm, chạy theo niệm th́ lặng mất tâm thênh thang.

Chúng ta thường cho cái nghĩ của ḿnh đúng, rồi phê phán đủ chuyện. Cả ngày làm việc không công mà siêng lắm. Hết chuyện này tới chuyện kia, thấy người này phê b́nh, thấy người kia phê b́nh, đủ thứ. Chuyện họ mặc họ, ḿnh có cái thật đây mà không nhớ. Tu đ̣i thành Phật, mà Phật ngay đây không nhớ, cứ nhớ hết chúng sanh này tới chúng sanh khác, cả ngày như vậy. Ông Phật ngồi trên bàn chắc cười hoài, mấy chú lạy tôi, muốn thành Phật như tôi, mà cứ chạy theo chúng sanh hoài th́ chừng nào thành Phật? Rơ ràng chúng ta quá sức dại khờ.

Như người ta đi ngoài đường th́ kệ người ta, mắc mớ ǵ ḿnh mà suy gẫm xem tâm tư người đó thế nào, như vậy chắc ǵ đúng. Vậy mà cũng bám vào suy gẫm, có phải dại khờ không? Hoặc ai vô t́nh hay cố ư nói ǵ đó, th́ thôi cho qua đi, tội ǵ phải suy nghĩ câu ấy khen hay chê cho cực. Chúng ta có bệnh cái ǵ cũng ôm vô hết, rồi than khổ than mất ăn mất ngủ. Chuyện ở đâu cũng cứ ôm vô làm sao ngủ được. Người tu phải sáng suốt khôn ngoan, việc ǵ đáng th́ làm, không đáng th́ bỏ qua, đừng bận rộn, đừng phiền hà, đừng can thiệp chuyện của người ta. Thấy huynh đệ đi chơi hơi lững thững, vô mách quí thầy lớn ông đó vầy kia. Như vậy là can thiệp chuyện của người ta rồi, ḿnh tôn trọng tự do của ḿnh, sao không tôn trọng tự do của người ta. Thấy người cắm đầu làm việc không nói năng ǵ hết, liền can thiệp vô “người đó làm việc buồn quá, không nói câu nào hết, thật là con người khó hiểu”. Người nói nhiều th́ can thiệp theo nói nhiều, người không nói th́ can thiệp theo không nói, cả ngày cứ can thiệp chuyện người ta. Chuyện của ḿnh đang rối nùi nè, bảo bỏ đi đừng nghĩ nữa mà không nghe, cứ can thiệp chuyện người ta, rồi sanh phiền năo đủ thứ. Đó là bệnh chung của chúng sanh, ai cũng mắc phải hết. Tu là gỡ bỏ những điên đảo, vô ích như vậy.

Người tu chỉ một việc là phải nhớ ông Phật thanh tịnh của ḿnh, c̣n tất cả niệm tạo nghiệp hăy buông đi. Tu là cốt thành Phật, cả ngày giữ cho thanh tịnh trọn vẹn th́ phước đức biết mấy, tu mau thành Phật biết mấy. Chúng ta nhớ câu kệ của ngài Trần Nhân Tông nói “đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền”. Đối cảnh là mắt tai mũi lưỡi thân ư đều tiếp xúc với cảnh mà không có niệm phân biệt chạy theo, đó là vô tâm, đó là Thiền, là đại định. Hiện tại quí vị ngồi một chỗ ngó xuống mà c̣n nhớ chuyện này chuyện nọ, như vậy vô tâm chưa? Ngồi yên ngó xuống mà c̣n chưa vô tâm, chớ đừng nói đối cảnh. Bởi vậy chúng ta thấy thật xấu hổ, ḿnh chưa xứng đáng là đệ tử của Tổ sư.

Tăng Ni ngồi thiền mà không vô tâm là giết chết thời giờ vô ích. Khi ngồi thiền không cho phép suy nghĩ mà cũng cứ nghĩ, như vậy không phải giết chết thời giờ là ǵ? Cho nên chúng ta tu phải sáng suốt, quí báu thời giờ của ḿnh, đừng để hoang phí một cách vô ích. Trong kinh Lăng Nghiêm, ngài A-nan hỏi Phật về căn bản phiền năo và căn bản Bồ-đề Niết-bàn, bấy giờ mười phương chư Phật “dị khẩu đồng âm”, phát ra câu nói: “Này A-nan căn bản phiền năo là sáu căn của ông, mà căn bản Bồ-đề Niết-bàn cũng là sáu căn của ông.” Như vậy sáu căn là công mà sáu căn cũng là tội. Chúng ta phải dùng sáu căn thế nào cho nó thành căn bản Bồ-đề Niết-bàn, đừng dùng theo căn bản phiền năo luân hồi sanh tử.

 

CHÁNH VĂN:

 

Cốt yếu là chớ ở trên cái thấy nghe hiểu biết khởi phân biệt, cũng chớ ở trên cái thấy nghe hiểu biết mà động niệm, cũng chớ ĺa thấy nghe hiểu biết mà t́m tâm, cũng chớ bỏ cái thấy nghe hiểu biết mà nhận pháp. Không tức, không ly, không trụ, không trước, tung hoành tự tại đều là đạo tràng.

 

GIẢNG:

 

Chỗ này nói hết sức rơ. Cốt yếu là chớ ở trên cái thấy nghe hiểu biết khởi phân biệt, v́ như vậy là bệnh. Thấy nghe hiểu biết cứ thấy nghe hiểu biết thôi, đó là Thiền, là trở về bản tâm. Cũng chớ ở trên cái thấy nghe hiểu biết mà động niệm, phân biệt là động niệm. Nên biết lỗi ở cái thấy nghe hiểu biết liền khởi phân biệt, khởi động niệm. Cũng chớ ĺa thấy nghe hiểu biết mà t́m tâm, cũng chớ bỏ cái thấy nghe hiểu biết mà nhận pháp, chính cái thấy nghe hiểu biết là dụng của tâm, nên không thể ĺa nó t́m tâm. Phật nói: “Nhất tinh minh sanh lục ḥa hợp.” Lục ḥa hợp là sáu căn. Từ một nhất tinh minh khởi ra sáu ḥa hợp, th́ sáu ḥa hợp là dụng của nhất tinh minh. Nhất tinh minh là thể. Thấy nghe hiểu biết là dụng của nhất tinh minh, nó từ thể mà ra. Bỏ dụng t́m thể làm sao được?

Ví dụ ban đêm cái nhà có sáu cửa mở hoác, ở trong đốt đèn, ánh sáng phát ra nơi sáu cửa là ánh sáng của ngọn đèn. Nếu nh́n ánh sáng nơi cửa sổ th́ ánh sáng vuông, cửa cái th́ ánh sáng dài v.v… Nh́n qua cửa th́ thấy khuôn thế này thế nọ, nhưng ánh sáng một hay nhiều? Dáng phát ra sai biệt là v́ cửa lớn nhỏ khác nhau, chớ ánh sáng không hai. Muốn biết có đèn đang thắp sáng trong nhà th́ phải từ ánh sáng ở cửa phát ra. Cũng vậy, muốn nhận được tâm thể thanh tịnh sẵn có của ḿnh, phải nhờ sáu căn. Từ sáu căn có tánh biết mới nhận ra ḿnh có tâm thể tṛn đầy. Cho nên tu muốn được Bồ-đề Niết-bàn gốc từ sáu căn. Thấy cảnh vật biết vậy thôi chớ không động niệm, đó là Bồ-đề Niết-bàn. Nếu thấy người thấy cảnh khởi niệm suy nghĩ rồi thị phi, tham đắm v.v… đó là gốc của sanh tử.

 Cho nên ở đây nói “không tức, không ly”, không tức nơi sáu căn mà cũng không rời sáu căn. “Không trụ, không trước” không ở một chỗ, không dính mắc một chỗ. Như vậy mới gọi “tung hoành tự tại đều là đạo tràng”. Phật, Tổ nói không khác, đều chỉ dạy đến nơi đến chốn chỗ trọng tâm, ngay cốt tủy cho chúng ta thấy.

 

CHÁNH VĂN:

 

Người đời nghe nói “chư Phật đều truyền tâm pháp”, cho là trên tâm riêng có một pháp có thể chứng có thể thủ, bèn đem tâm t́m pháp.

 

GIẢNG:

 

Người đời nghe nói chư Phật đều truyền tâm pháp, như Phật truyền tâm pháp cho ngài Ca-diếp v.v… rồi cho rằng trên tâm có một pháp, đó là lầm lẫn. Pháp đó tức là tâm, nói truyền tâm tức là ấn chứng người đó nhận bản tâm đúng như thật, như Phật đă nhận, ấy gọi là truyền, là ấn chứng.

 

CHÁNH VĂN:

 

Họ không biết tâm tức là pháp, pháp tức là tâm, không thể đem tâm lại cầu tâm, trải ngàn muôn kiếp trọn không có ngày được.

 

GIẢNG:

 

Pháp và tâm thật sự không hai. Tâm tức là pháp, pháp tức là tâm. Nếu chúng ta lầm không nhận ra tâm đó, đi t́m cầu pháp, tưởng pháp là cái ǵ khác, không ngờ cũng là tâm của ḿnh. Như vậy t́m cầu đến muôn kiếp không biết chừng nào mới được.

 

CHÁNH VĂN:

 

Đâu bằng chính nơi đó vô tâm, tức là bản pháp.

 

GIẢNG:

 

Như vậy th́ hết sức gọn, chính nơi đó vô tâm. Nơi đó vô tâm là sao? Tức là ngay khi duyên theo cảnh, duyên theo trần mà ḿnh không dấy niệm chạy theo, không dấy niệm dính mắc th́ ngay đó là vô tâm. Mà vô tâm là bản pháp, tức pháp gốc.

 

CHÁNH VĂN:

 

Như người lực sĩ quên hạt châu trên trán, hướng ra ngoài t́m kiếm, chạy khắp mười phương trọn không thể được. Người trí chỉ cho, liền đó tự thấy bản châu như cũ.

 

GIẢNG:

 

Thí dụ như lực sĩ trên trán có hạt châu. Người ấy bỗng quên hạt châu trên trán, cứ chạy đầu này đầu nọ t́m hạt châu. Nếu có người trí thấy rơ hạt châu trên trán, chỉ cho anh ta, bấy giờ anh rờ lên trán liền đụng hạt châu, khỏi phải chạy t́m kiếm nữa. Trong nhà Thiền, các Thiền sư dùng đủ cách chỉ hoặc Phật tức là ông, hoặc Phật ở dưới gót chân ông v.v… Nói thế nghe dễ quá người ta không chịu, nên phải nói Phật có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, thần thông này kia họ mới chịu. Như vậy chạy t́m cực khổ hay đứng một chỗ nhận ra cực khổ? Vậy mà thiên hạ chịu cái khổ, không chịu ngồi lại nhận ra, rốt cuộc t́m hoài không ra chỗ chân thật.

 

CHÁNH VĂN:

 

Người học đạo mê bản tâm ḿnh không nhận là Phật, bèn hướng ra ngoài t́m cầu khởi công dụng hạnh, y thứ lớp chứng, nhiều kiếp cần cầu hằng không thành đạo.

 

GIẢNG:

 

Ở trên là ví dụ, đến đây hợp pháp. Người học đạo quên mất bản tâm giống như chàng lực sĩ quên ḥn ngọc. Không nhận ḿnh là Phật, chàng lực sĩ không nhận ngay nơi trán có ḥn ngọc. Chạy ra ngoài t́m cầu, dùng đủ thứ công, đủ thứ hạnh để tu, nhiều kiếp cần cầu mà hằng không thành đạo, v́ cầu bên ngoài làm sao được.

 

CHÁNH VĂN:

 

Không bằng thẳng đó vô tâm, quyết định biết tất cả pháp vốn không sở hữu, cũng không sở đắc, không y không trụ, không năng không sở, không động vọng niệm, liền chứng Bồ-đề.

 

GIẢNG:

 

Như vậy chi bằng chúng ta được vô tâm, vô tâm th́ quyết định tất cả pháp vốn không có sở hữu, không năng, không sở. Không sở hữu th́ không sở đắc, không chỗ y trụ, không động vọng niệm, đó là Bồ-đề. Bồ-đề không phải chuyện ở xa, mà Bồ-đề là giác, là Phật của ḿnh.

 

CHÁNH VĂN:

 

Đến khi chứng đạo, chỉ là chứng bản tâm. Phật nhiều kiếp dụng công đều là tu suông, như lực sĩ khi được châu chỉ được hạt châu sẵn trên trán, không quan hệ ǵ sức chạy ra ngoài t́m cầu.

 

GIẢNG:

 

Lực sĩ chạy cả ngày cả tháng cả năm t́m hạt châu. Nhưng tới chừng rờ lại th́ thấy hạt châu sẵn trên trán. Như vậy anh có kể nhờ công chạy đầu này góc nọ mà được châu không? Chạy chỉ uổng công phí sức thôi, chớ thật hạt châu trên trán sẵn. Chúng ta cũng vậy, chạy nơi này, t́m nơi kia cho thấy Phật, thấy đạo. Thật ra Phật, đạo ngay nơi ḿnh không ở đâu xa hết. Chịu khó nhận th́ được, muốn nhận ông Phật của ḿnh phải làm sao? Phải vô tâm.

Ở đây nói vô tâm, song tôi nói khác một chút là “nhớ tâm”. Nói vô tâm với nói nhớ tâm có mâu thuẫn không? Vô là vô tâm nào? Nhớ là nhớ tâm nào? Vô tâm là không có tâm lăng xăng điên đảo vọng tưởng. Nhớ tâm là nhớ nhận ra ḿnh có ông Phật sẵn. Chúng ta vô mà không phải vô, vẫn có tâm chân thật hiện tiền. Nhớ tâm chân thật hiện tiền, đó là chúng ta nhận ra ông Phật của chính ḿnh.

 

CHÁNH VĂN:

 

Cho nên Phật nói: “Ta đối với A-nậu Bồ-đề thật không sở đắc.” Sợ e người không tin nên dẫn ngũ nhăn đă thấy, năm câu đă nói, chân thật không dối là đệ nhất nghĩa đế.

 

GIẢNG:

 

Đây dẫn trong kinh Kim Cang. Phật v́ sợ người không hiểu hoặc hiểu lầm nên nói: “Ta đối A-nậu Bồ Đề thật không sở đắc”, v́ cái đó đă sẵn rồi c̣n ǵ sở đắc. Nhưng sợ người không hiểu nên Phật nói về ngũ nhăn v.v… cho tới năm câu, chân thật không dối là đệ nhất nghĩa.

 

CHÁNH VĂN:

 

Người học đạo chớ nghi tứ đại làm thân, tứ đại không ngă (không thường c̣n và làm chủ), ngă cũng không chủ, cho nên biết thân này không ngă cũng không chủ. Chớ nghi năm ấm làm tâm, năm ấm không ngă cũng không chủ, cho nên tâm này không ngă cũng không chủ. Sáu căn, sáu trần, sáu thức ḥa hợp sanh diệt cũng lại như vậy. Mười tám giới đă không th́ tất cả đều không, chỉ có bản tâm thênh thang trong sạch.

 

GIẢNG:

 

Ngài chỉ cho chúng ta phân biệt thân này do tứ đại giả hợp nên không có ngă, tức không có chủ thể. Nhưng đa số người đời không chịu như thế, v́ thấy thân ràng ràng đây mà nói vô ngă làm sao chấp nhận. Bởi chúng ta mê nên lời dạy của bậc giác ngộ khó nhận được. Tứ đại là đất nước gió lửa, thân này do bốn chất đó kết hợp lại thành. Đă bốn chất kết hợp thành, làm sao có chủ. Nói tứ đại là nghiêng về sắc thân, nói ngũ uẩn th́ gồm cả thân và tâm. Sắc thuộc về thân, thọ tưởng hành thức thuộc về tâm.

Xét thân năm uẩn, đứng về mặt sắc chất nó không có chủ thể, không có ta. Đứng về tâm, thọ tưởng hành thức cũng không có chủ. Hai thứ thân và tâm đều không có chủ thể. Nói tâm tôi đang nghĩ thế này thế kia, đó đều là thọ tưởng hành thức mà ra. Thân và tâm chúng ta đang chấp đây đều không có chủ thể, không thật mà chúng ta bám vào đó cho là thật. Ở đây có người nào can đảm dám nói tôi tin chắc thân này không phải tôi và tâm lăng xăng không phải tôi không? Chỉ nói tôi hiểu mang máng, tin sơ sơ vậy, chớ không dám tin chắc, không dám hiểu thật. Bởi v́ không can đảm nhận nó giả dối, tạm bợ, cứ ngỡ nó là thật ḿnh. Cho nên nghe nói nó giả dối tạm bợ đau lắm, không ai chịu nổi.

Người mê mà chỉ cái thật cho, họ chịu nhận không? Không chịu nhận. Họ không chịu nhận, người chỉ có buồn có giận không? Chỉ bao nhiêu lần, nhắc bao nhiêu phen mà cứ nói thật hoài, có tức không? Nếu phàm phu th́ tức, c̣n Phật không tức. Phật thương chúng sanh ngu mê nhiều đời, nghe tai bên này lọt qua tai bên kia. Bởi vậy nên cứ lạy Phật khóc hoài, Phật làm sao được bây giờ.

Sáu căn, sáu trần, sáu thức ḥa hợp sanh diệt cũng lại như vậy. Mười tám giới đă không th́ tất cả đều không, chỉ có bản tâm thênh thang trong sạch. Mười tám giới tức sáu căn, sáu trần, sáu thức. Sáu căn là thân, sáu trần là cảnh, sáu thức là tâm. Ba cái này đều là nhân duyên ḥa hợp, là tướng sanh diệt. Như vậy mười tám giới không thật, chỉ có bản tâm thênh thang trong sạch mới thật thôi. Mười tám giới là nhân duyên ḥa hợp mà sanh nên nó giả hợp, c̣n tâm thênh thang trong sạch đó biết được mười tám giới giả hợp, nó mới là thật, thênh thang, trong sạch. Biết sáu căn, sáu trần, sáu thức như vậy nhưng cả ngày chúng ta đuổi theo căn trần thức mà không chịu nhận ra cái chân thật của ḿnh.

Chư Tổ rút gọn chỉ thẳng, nghe hơi khó hiểu nhưng thấm được th́ thấy đơn giản vô cùng. Ngồi lại học lời giảng của chư Tổ thế này mới thấy ba tạng kinh quá nhiều công phu, c̣n ở đây thật là đơn giản. Các ngài đem hết tâm can chỉ thẳng cho ḿnh thấy, không để chúng ta phải lang thang trong Tam Tạng giáo điển mất thời giờ. Đôi khi nhiều quá, rộng quá chúng ta không biết pháp nào chỉ thẳng cội nguồn cho ḿnh nhận ra để tu.

Bây giờ làm sao cho ông Phật của ḿnh hiển lộ ra? Chỉ vô tâm th́ Phật hiển lộ thôi. Chỉ cần nỗ lực thực hiện đúng như lời chỉ thẳng của chư Tổ, nhất định chúng ta sẽ thành công.

 

CHÁNH VĂN:

 

Có thức thực, có trí thực. Thân tứ đại là bệnh ghẻ đói, tùy thuận nuôi dưỡng không sanh tham đắm, gọi là trí thực. Buông lung ư, chấp mùi vị vọng sanh phân biệt, chỉ cầu món ngon không sanh nhàm chán, gọi là thức thực.

 

GIẢNG:

 

Thức thực là chạy theo vọng t́nh, thích món ngon vật lạ, thỏa măn mong cầu của thân. Trí thực là nhận chân lẽ thật của cuộc sống, chẳng hạn như chúng ta ăn uống chẳng qua là mượn phương tiện, rồi phải trả. Nhờ mượn mới sống nên biết rơ ăn là vay mượn không thật. Đây gọi là trí thực.

Thân tứ đại là bệnh ghẻ đói, tùy thuận nuôi dưỡng không sanh tham đắm, gọi là trí thực. Chúng ta biết thân tứ đại luôn luôn đ̣i hỏi, thiếu nước nó đ̣i nước, thiếu cơm nó đ̣i cơm, thiếu cái ǵ nó đ̣i cái nấy. Nhiều khi nó đ̣i quá sức chứa của nó nữa. Nên người ta thường nói ăn bằng con mắt, thấy là thèm mà sức chứa không nổi. Người chạy theo đ̣i hỏi ngon dở của thức ăn, để thỏa măn thân gọi là thức thực. Nếu biết thân hư giả tạm bợ, tùy thuận nuôi dưỡng nó qua ngày để sống tu hành, làm lợi ích chúng sanh gọi là trí thực.

Buông lung ư, chấp mùi vị vọng sanh phân biệt, chỉ cầu món ngon không sanh nhàm chán, gọi là thức thực. Tại sao cầu món ngon gọi là thức thực? Bởi v́ t́m món ngon vật lạ để thưởng thức, thưởng thức là phân biệt chê khen ngon dở. V́ vậy người buông lung ư ḿnh, đ̣i hỏi những món ngon gọi là thức thực.

 

CHÁNH VĂN:

 

Thanh văn là nhân tiếng được ngộ, nên gọi là Thanh văn. Bởi không rơ tự tâm, nên trên lời dạy sanh hiểu biết, hoặc nhân thần thông, hoặc nhân tướng tốt, ngôn ngữ vận động, nghe có Bồ-đề Niết-bàn tu hành trải qua ba vô số kiếp mới thành Phật đạo, đều thuộc đạo Thanh văn, gọi đó là Thanh văn.

 

GIẢNG:

 

Sao gọi là Thanh văn? Chữ thanh hay thinh là tiếng, nhân nghe tiếng Phật dạy mà ngộ đạo, gọi là Thanh văn. Thời Phật c̣n tại thế, Ngài nói pháp Tứ đế cho nên năm anh em Kiều-trần-như nghe, sau khi nghe xong năm vị liền ngộ đạo, chứng quả A-la-hán, gọi là Thanh văn. Không ngộ tự tâm, chỉ nhân lời nói của Phật mà hiểu, nhân hiểu rồi tu hành được thành đạo, gọi là Thanh văn.

 

CHÁNH VĂN:

 

Phật duy chỉ thẳng chóng rơ tự tâm xưa nay là Phật, không có một pháp có thể được, không có một hạnh có thể tu, đây là đạo vô thượng, đây là chân như Phật.

 

GIẢNG:

 

Tất cả pháp tu thứ bậc từ thấp lên cao, như từ Tu-đà-hoàn đến A-la-hán, hay Bồ-tát từ thập tín, thập trụ cho tới thập địa v.v… đều là pháp tùy thuận tâm của chúng sanh. Chỗ này Phật chỉ thẳng cho chúng ta nhận rơ tự tâm, tự tâm xưa nay là Phật, không có một pháp nào khác có thể được, không có một hạnh nào khác có thể tu, đây gọi là đạo vô thượng, là chân như Phật. Ở đây chúng ta đi thẳng một con đường Phật thừa, mê th́ làm chúng sanh, giác th́ trở về với Phật. Vậy Phật là chỉ cho tâm thể thanh tịnh sẵn có của ḿnh. Gọi chân như Phật tức là Phật chân thật như như sẵn có nơi ḿnh, đi thẳng con đường đó gọi là đạo vô thượng, không ǵ hơn.

 

CHÁNH VĂN:

 

Người học đạo chỉ sợ một niệm có, tức cùng đạo ngăn cách, niệm niệm không tướng, niệm niệm vô vi, tức là Phật.

 

GIẢNG:

 

Chỗ này Tổ nói đơn giản vô cùng: Người học đạo chỉ sợ một niệm có, tức cùng đạo ngăn cách. Một niệm nghĩ về pháp Tứ đế, về Thập nhị nhân duyên có cùng đạo xa cách không? Niệm nghĩ về Tứ đế, về Thập nhị nhân duyên có lỗi lầm ǵ? Vậy mà ở đây Ngài lại nói dứt khoát có một niệm th́ cùng đạo ngăn cách.

Niệm niệm không tướng, niệm niệm vô vi, tức là Phật. V́ chúng ta lâu nay hầu hết lấy niệm để tu. Niệm thiện để tu pháp lành, niệm chánh pháp để tu giải thoát. Niệm chánh pháp như niệm ǵ? Niệm Tứ đế, Tứ niệm xứ v.v… Tứ niệm xứ có niệm không? Tứ niệm xứ hoặc Mười hai nhân duyên hoặc niệm Phật cũng là niệm. C̣n có niệm để tu th́ niệm đó có phải cứu kính không? Không, v́ Phật như như của ḿnh không động. Nếu động không phải như. Có niệm th́ đă động rồi, nên không phải như, v́ vậy có động là cách với Phật. Chỗ này khó nếu quí vị không nắm vững dễ bị lầm lắm.

Kinh nghiệm bản thân tôi thấy rất rơ. Như ḿnh ngồi b́nh tĩnh sáng suốt không dấy một niệm nào, lúc đó ḿnh đang sống với cái ǵ? B́nh tĩnh sáng suốt mà không dấy nghĩ, lúc đó ḿnh sống với tâm chân như. Vừa nhớ Phật, nhớ Bồ-tát, nhớ A-la-hán th́ cái như động liền. Hoặc nhớ pháp này, pháp kia tâm vẫn động như thường, động th́ mất như.

Vừa có một niệm dấy lên, dù niệm đó quí cũng đă cách với Phật của ḿnh rồi. Nếu niệm dấy lên, chúng ta biết nó ảo giả bỏ đi th́ trở về ông Phật của ḿnh. Dấy niệm nhớ về đức Phật ra đời làm sao, lúc đó gần Phật hay xa Phật? Gần đức Phật Thích-ca mà xa ông Phật của ḿnh. Niệm chánh c̣n không thể được, huống là niệm tà. V́ vậy đến chỗ cuối cùng niệm niệm đều phải vô vi tức không sanh, không diệt. Nếu được niệm niệm vô vi, không một h́nh ảnh để ḿnh dính mắc, đó là Phật. Nếu có một niệm nào dính mắc th́ đă cách xa Phật rồi.

Ngồi yên tĩnh tâm trong sáng nghe thấy rơ ràng, ai cũng cho là quá tầm thường, nhưng không ngờ cái tầm thường ấy chính là phi thường. Chúng ta khéo tu th́ biết rơ Phật không xa. Bởi v́ Phật là tánh hằng giác hằng tri của ḿnh. Hằng giác hằng tri chính là ông Phật gốc. Sống được với Phật gốc mới có diệu dụng, tam minh, lục thông v.v… Nếu ḿnh quên gốc th́ muôn đời không được tam minh, lục thông. Người tu thời nay muốn được tam minh, lục thông hơn là trở về ông Phật gốc của ḿnh, phải vậy không? Nói tam minh, lục thông nghe oai quá, c̣n hằng tri hằng giác mà không nghĩ suy ǵ hết, nghe khờ quá.

Chính chỗ này, các Thiền sư khi đạt đạo rồi như ngây, như ngô, các ngài khờ khạo với cái thức phân biệt chia chẻ của thế gian, nhưng đang sống với thể thanh tịnh của ḿnh. Sống với thể thanh tịnh th́ có vẻ khờ khạo, sống với thức phân biệt thế gian th́ lanh lắm. Cho nên lanh không phải là cái hay đối với đạo, mà cái thật mới gần với đạo. Chúng ta tu phải làm sao tâm yên tĩnh lặng lẽ, không chạy theo những lăng xăng lộn xộn bên ngoài, đó mới là tâm Phật, c̣n càng chạy th́ càng xa.

 

CHÁNH VĂN:

 

Người học đạo nếu muốn thành Phật th́ tất cả Phật pháp thảy đều không dụng học, chỉ học không cầu, không đắm trước.

 

GIẢNG:

 

Người học đạo muốn thành Phật, th́ tất cả Phật pháp thảy đều không dụng học, không học Tam Tạng giáo lư mà chỉ học không cầu không đắm trước. Năm chữ “không cầu không đắm trước”, hết sức giản đơn. C̣n học Tam Tạng cả đời chưa rồi. Nếu không cầu không đắm trước th́ tâm chúng ta yên tịnh, không dính mắc ǵ hết. Đó là như, là trở về chân thật. Nhớ không cầu không đắm trước đủ rồi. C̣n học Tam Tạng giáo điển Kinh, Luật, Luận v.v… nói thao thao bất tuyệt mà cầu danh cầu lợi th́ cái học đó thật chưa, được thành Phật không?

Ở đây nói thẳng trọng tâm của sự tu. Tất cả kinh điển dạy đều hướng về chỗ chỉ cho chúng ta thấy rơ, không tham cầu không đắm trước tất cả pháp thế gian, tất cả h́nh tướng thế gian, đó là thật học đạo. C̣n nếu đắm trước h́nh tướng thế gian, dính mắc các pháp, đó là chúng ta bị kẹt chớ không phải học đạo. Hiểu như vậy mới thấy gốc của sự tu.

 

CHÁNH VĂN:

 

Không cầu tức tâm không sanh, không đắm trước tức tâm không diệt, không sanh không diệt tức là Phật.

 

GIẢNG:

 

Tại sao không cầu? Không cầu để tâm không mong mỏi, không dấy động muốn cái này, cái kia. Tâm không dấy động là tâm không sanh. Do không sanh nên không diệt. Tâm không sanh không diệt là tâm Phật. Vậy chỉ có bốn chữ “không cầu, không đắm” đủ cho chúng ta tu rồi. Có cái ǵ chúng ta nắm giữ mà không bị vô thường đâu. Đắm danh mất danh th́ khổ, đắm sắc mất sắc th́ khổ. Do vậy tâm không cầu không đắm là tâm gần với Phật.

 

CHÁNH VĂN:

 

Tám muôn bốn ngàn pháp môn đối trị tám muôn bốn ngàn phiền năo, chỉ là môn giáo hoá tiếp dẫn. Vốn không tất cả pháp, ĺa tức là pháp, người biết ĺa là Phật. Chỉ ĺa tất cả phiền năo là không pháp có thể được.  

 

GIẢNG:

 

Ngài dẫn trong kinh Phật nói tới tám muôn bốn ngàn pháp môn. Tại sao Phật chia chẻ nhiều như vậy? Bởi v́ để đối trị chúng sanh có bệnh nào th́ Phật có pháp ấy. Như sân có mấy bệnh? Nóng là một, động tới nổi nóng là sân. Kế đó hận, hận là thù. Nếu nóng giận mà không thỏa măn cái giận đó th́ thành thù. Ngoài thù c̣n hờn nữa. Như vậy chỉ sân thôi đă có ba bốn pháp rồi.

Khi nóng giận Phật dạy phải tu pháp nhẫn, chận đừng cho nó nổi dậy. Khi hận thù Phật dạy tu pháp xả, bỏ đi. Mỗi một bệnh có mấy thứ pháp, v́ bệnh quá tế nhị. Như trong tham cũng có nhiều pháp đối trị. Tham tài tu pháp ǵ, tham sắc tu pháp ǵ, tham danh tu pháp ǵ, tham lợi tu pháp ǵ, mỗi thứ tham có một pháp tu. Bệnh căn bản rồi tới chi ly nữa, bệnh nào cũng trăm ngàn thứ. V́ vậy Phật phải dạy nhiều pháp để đối trị.

Tám muôn bốn ngàn pháp môn là để trị tám muôn bốn ngàn phiền năo. Sở dĩ Phật chia nhiều pháp để trị nhiều bệnh là v́ muốn giáo hoá, tiếp dẫn chúng sanh. Ai có bệnh ǵ th́ dùng thuốc đó trị cho lành từ từ, chớ chưa lành tận gốc. Đang sốt th́ uống thuốc cảm cho hạ sốt, có các thứ thuốc là để trị các thứ bệnh, đến thuốc cuối trị hết tất cả bệnh. Ở đây Ngài nói pháp cuối cùng là ǵ?

 Vốn không tất cả pháp, ĺa tức là pháp, người biết ĺa là Phật. Chỉ một chữ ĺa thôi. Tại sao chúng ta phải ĺa? Bởi v́ tất cả pháp đều không thật, pháp không thật theo giữ nó làm sao được, cho nên phải ĺa. Người nào biết ĺa, không chấp, người đó là Phật. Không pháp có thể được nghĩa là tất cả cảnh ḿnh ĺa th́ không dính, tất cả phiền năo dấy lên ḿnh ĺa th́ không có. Bỏ tất cả chúng ta sẽ thấy ông Phật hiện tiền. Câu chuyện nhà thiền nói có vẻ thô một chút là ngài Hoàng Bá khen đệ tử của Mă Tổ: “Dưới Mă Tổ có tám mươi bốn thiện hữu tri thức, nhưng người ỉa chảy đầy đất chỉ có ngài Qui Tông.” Ỉa chảy đầy đất là xả hết tuôn sạch hết. Nói nghe thô nhưng lối khen đó rất chí lư. Người biết ĺa biết xả hết là ngài Qui Tông, c̣n những vị khác tuy cũng ĺa nhưng ĺa chưa thật sạch.

Ở đây chỉ một chữ ĺa là tất cả đều hết. V́ ĺa th́ không dính, không c̣n. Trong không dính phiền năo, ngoài không dính các pháp, đó là Phật hiện tiền.

 

CHÁNH VĂN:

 

Người học đạo muốn được biết yếu quyết th́ chớ ở trên tâm để một vật nói là Phật.

 

GIẢNG:

 

Người học đạo muốn được biết yếu quyết, tức chỗ quyết định trọng yếu, th́ chớ ở trên tâm để một vật nói là Phật. Nghĩa là sao? Tức là trên tâm của ḿnh, ḿnh tưởng có ông Phật đang ngự, như vậy chưa phải thật. Tại sao? Tâm thanh tịnh là Phật, ḿnh lại để ông Phật danh tự đè ông Phật thật của ḿnh. Chỗ này thật rơ nhưng cũng thật khó. Ai không có gan, không dám nhận th́ không thấy được.

 

CHÁNH VĂN:

 

Chân pháp thân ví như hư không. Đây là dụ pháp thân tức hư không, hư không tức pháp thân.

 

GIẢNG:

 

Chân pháp thân ví như hư không. Tại sao? Quí vị kiểm lại thử xem khi chúng ta ngồi b́nh an, không nghĩ suy th́ cái biết có không? Gió thổi nghe mát, người đi thấy rơ, cái biết bàng bạc đó có h́nh tướng không? Nó không h́nh tướng nên như hư không. Pháp thân như hư không, không trụ chỗ nào, trùm khắp mọi nơi. Đây là dụ pháp thân tức hư không, hư không tức pháp thân.

 

CHÁNH VĂN:

 

Người thường bảo pháp thân đầy khắp hư không, trong hư không gồm chứa pháp thân. Họ không biết pháp thân tức hư không, hư không tức pháp thân.

 

GIẢNG:

 

Người thường bảo pháp thân đầy khắp hư không. Câu nói đó đúng hay sai? Pháp thân có dáng ǵ mà đầy? Hư không có chỗ chứa không? Không tướng mà nói đầy th́ lấy đâu biết đầy. Cho nên từ “đầy” thuộc về h́nh tướng, Ngài không chấp nhận. Nếu nói đầy thành ra hư không giống như cái vựa, c̣n pháp thân đổ vào vựa. Đó là lối nói không rơ ràng. Ở đây Ngài bảo pháp thân không tướng nên đồng với hư không.

 Họ không biết pháp thân tức hư không, hư không tức pháp thân. Bởi hai thứ ấy cùng không h́nh không tướng, không phân biệt, không tách rời, nên nói “tức”.

 

CHÁNH VĂN:

 

Nếu quyết định nói có hư không th́ hư không chẳng phải pháp thân. Nếu quyết định nói có pháp thân th́ pháp thân chẳng phải hư không.

 

GIẢNG:

 

Nếu nói có hai thứ riêng biệt th́ pháp thân không phải là hư không, hư không không phải là pháp thân.

 

CHÁNH VĂN:

 

Chớ khởi hiểu hư không th́ hư không tức pháp thân. Chớ khởi hiểu pháp thân th́ pháp thân tức hư không. Hư không cùng pháp thân không có tướng khác.

 

GIẢNG:

 

Hai chỗ này chỉ khác bởi khởi hiểu và không khởi hiểu thôi. Không khởi hiểu th́ pháp thân, hư không không tách rời. Vừa khởi hiểu th́ đă có sai lầm.

Chớ khởi hiểu pháp thân th́ pháp thân tức hư không. Chớ khởi hiểu hư không th́ hư không tức pháp thân. Nếu khởi hiểu hư không, khởi hiểu pháp thân th́ hư không và pháp thân đó bị cụ thể bằng niệm của ḿnh, thành ra không đúng.

 

CHÁNH VĂN:

 

Phật cùng chúng sanh không có tướng khác. Sanh tử cùng Niết-bàn không có tướng khác. Phiền năo cùng Bồ-đề không có tướng khác. Ĺa tất cả tướng tức là Phật.

 

GIẢNG:

 

Tới chỗ cuối cùng Ngài bảo Phật cùng chúng sanh không có tướng khác. Nói như vậy có thực tế không? Bây giờ nh́n trong giảng đường này, xem chúng sanh với chúng sanh có tướng khác không? Có người gầy, có người béo, có người đen, có người trắng… đủ thứ hết, làm sao không có tướng khác. Vậy mà ở đây nói Phật cùng chúng sanh không có tướng khác, đó là căn cứ trên chỗ chân thật của ḿnh, chớ không phải căn cứ trên giả tướng tạm bợ. Tướng giả tạm của chúng sanh th́ có sai biệt, nhưng tâm chân thật như như th́ ai cũng như nhau.

Bây giờ tôi chỉ ngọn đèn sáng, ai cũng thấy sáng. Khi chúng ta nh́n bức tranh thấy màu sắc không khác nhau. Như vậy cái thấy không khác, cái nghe không khác, nhưng khác cái phân biệt. Phân biệt người nhanh kẻ chậm, người so sánh khéo, người không biết so sánh v.v… sai biệt chỗ đó, chớ thật ra cái biết ban đầu không khác nhau. V́ vậy nói Phật, chúng sanh không có tướng khác.

Sanh tử cùng Niết-bàn không có tướng khác. Nếu ngay trong sanh tử mà ḿnh nhận được cái thật, đó là Niết-bàn, đâu có ǵ khác.

Phiền năo cùng Bồ-đề không có tướng khác. Phiền năo Bồ-đề cũng đều là giả danh, làm ǵ có tướng khác.

 Ĺa tất cả tướng tức là Phật. Như vậy muốn làm Phật khó hay dễ? Giản đơn quá, có một chữ “ĺa”. Ĺa tất cả tướng tức là chư Phật. Chúng ta học đạo bao lâu rồi? Thuộc chữ th́ mau mà làm được không mau. Thuộc chữ “ly” dễ quá, nhưng hành được chữ “ly” thật khó. Nếu nói ở miệng th́ chưa thuộc, như mấy con sáo bắt chước người nói vậy thôi, chớ không có giá trị. Chừng nào nói ly th́ tất cả đều ly, ai chửi cũng ly, khen cũng ly, lúc nào cũng ly hết. Đó là chuyện hết sức dễ mà cũng hết sức khó.

 

CHÁNH VĂN:

 

Phàm phu chấp cảnh, đạo nhân chấp tâm. Tâm cảnh cả hai đều quên mới là chân pháp.

 

GIẢNG:

 

Phàm phu chấp cảnh, cứ chạy theo cảnh này đẹp, cảnh kia xấu, cảnh này bền chắc, cảnh kia tạm bợ v.v…

Đạo nhân chấp tâm. Chấp tâm là sao? Người tu phần nhiều hay chấp tâm. Biết cảnh ở ngoài hư giả, nhưng cho tâm nghĩ thiện, nghĩ ác, tâm đang tŕ chú, đang tụng kinh, đó là tâm chân thật. Một bên chấp cảnh, một bên chấp tâm, hai bên chấp có khác nhưng đều là chấp hết. Muốn trị chữ “chấp” th́ dùng chữ “ly”. Ly th́ không chấp cảnh, không chấp tâm nên không phải phàm phu, không phải đạo nhân. Không phải phàm phu, không phải đạo nhân th́ là ǵ? Là Phật. Chỉ một chữ ly thôi, hết sức đơn giản. Bởi vậy nên Tâm cảnh cả hai đều quên mới là chân pháp.

 

CHÁNH VĂN:

 

Quên cảnh vẫn dễ, quên tâm rất khó.

 

GIẢNG:

 

Cảnh ở ngoài chúng ta bỏ dễ hơn là tâm. Cái tâm cho là sáng suốt, tâm hiểu đúng v.v… bỏ thật là khó.

 

CHÁNH VĂN:

 

Người không dám quên tâm, sợ rơi vào chỗ không, không sờ mó đến.

 

GIẢNG:

 

Có người tu sợ buông hết không c̣n ǵ nên không dám bỏ tâm. Lúc nào cũng giữ tâm của ḿnh đang biết, đang thấy, đang nghe, đang nghĩ v.v… cho đó là tâm thật. Tổ bảo người này không biết quên tâm.

 

CHÁNH VĂN:

 

Không biết không vốn chẳng không, chỉ một chân pháp giới.

 

GIẢNG:

 

Chúng ta không biết rằng cái không ấy vốn chẳng phải không. Tại sao? V́ nó là chân pháp giới, tức pháp giới chân thật, là chỗ không chấp tâm không chấp cảnh.

 

CHÁNH VĂN:

 

Tánh linh giác này từ vô thủy đến nay tuổi đồng với hư không, chưa từng sanh, chưa từng diệt, chưa từng có, chưa từng không, chưa từng uế, chưa từng tịnh, chưa từng ồn náo, chưa từng vắng lặng, chưa từng bé, chưa từng già, không chỗ nơi, không trong ngoài, không số lượng, không h́nh tướng, không sắc tượng, không âm thanh, không thể t́m, không thể cầu, không thể dùng trí tuệ mà biết, không thể dùng ngôn ngữ mà nhận, không thể dùng cảnh vật mà hội, không thể dùng dụng công mà đến.

 

GIẢNG:

 

Chỗ này Ngài chỉ tâm chân thật của chính ḿnh. Tâm chân thật chính là tánh linh giác của ḿnh từ vô thủy tới giờ, tuổi nó đồng với tuổi hư không. Hư không bao nhiêu tuổi? Hư không không có tuổi. Tại sao? Hư không là hư không, nó không có ngày đêm, không năm tháng nên không có tuổi. Ngày đêm năm tháng, đặt thành thời gian là căn cứ trên ṿng quay của trái đất, hư không có quay không? Hư không không quay, không quay làm sao có năm tháng, không có năm tháng làm sao có tuổi.

Tánh linh giác cũng không có tuổi. Tại sao? V́ tánh linh giác không phải là cái sanh cái diệt. Sanh diệt là nghiệp tướng của chúng sanh, chớ tánh giác không sanh không diệt. Quí vị tự nghiệm lại sẽ thấy rơ, cái hằng tri giác của ḿnh chưa từng dấy niệm. Khi chúng ta dấy niệm tức là chạy theo niệm sanh diệt, tạo nghiệp lành dữ, tái sanh vào chỗ lành dữ. Nghiệp lôi kéo tánh linh giác cùng đi vào chỗ tốt, chỗ xấu. Khi sanh ra rồi, tùy nơi đặt thời gian không gian, chớ tánh linh giác chưa từng sanh chưa từng diệt, làm sao có tuổi, làm sao già chết, làm sao có sắc tượng. Tánh linh giác bất sanh bất diệt nên là Niết-bàn vô sanh.

Thân sanh diệt tạm bợ mấy chục năm, người đời quí trọng vui tươi khi nó c̣n khỏe, chớ nó sắp hoại diệt th́ khổ. Thân hoại đi nhưng tánh linh giác không hoại. Đức Phật chỉ cho chúng sanh nhận ra ḿnh có tánh linh giác để thoát ly sanh tử. Nếu đứng trên tánh giác nh́n lại thân này, chẳng khác nào một con phù du trên mặt nước, mới chạy lăng xăng đó liền chết. Trong kinh Phật hay trong lời các Tổ thường ví dụ tánh giác có sẵn nơi chúng ta như hoa sen trong ḷ lửa. Lửa cháy hừng hực mà nó vẫn tươi, không v́ lửa mà bị tàn hoại. Đó là chỉ cho ngay nơi thân tâm vô thường này, tánh giác vẫn sẵn đó không ǵ làm hoại, không ǵ chi phối được nó.

Thường chúng ta không nhận tánh giác, mà chỉ nhận thân tâm lăng xăng thiện ác, chạy theo nó để tạo nghiệp sanh tử. Chừng nào không chấp thân này là ĺa ngă, không chạy theo niệm sanh diệt là ĺa tâm vọng tưởng. Ĺa hai thứ chấp đó là trở về tánh thật. Ngược lại cứ chạy đuổi theo hai thứ ấy th́ bảo đảm chúng ta sẽ sanh tử liên miên. Thế nên đức Phật thương chúng sanh, nói pháp suốt bốn mươi chín năm không chán, Ngài thấy ḿnh mê muội quá mới ráng nói cho biết, vậy mà cho tới bây giờ chúng ta vẫn chưa biết hết, chỉ biết chút chút thôi.

 

CHÁNH VĂN:

 

Chư Phật, Bồ-tát cùng tất cả hàm linh xuẩn động đồng tánh đại Niết-bàn này. Tánh tức là tâm, tâm tức là Phật, Phật tức là pháp.

 

GIẢNG:

 

Mấy chữ “tức” này thật là khó. Tánh tức là tâm, tại sao tánh tức là tâm? Tánh nói đủ là tánh giác. Giác tức là biết, biết tức là tâm. Cho nên tánh tức là tâm. Tâm tức là Phật. Cái biết giác đó là Phật nên tâm tức là Phật. Phật tức là pháp, tánh giác đó là pháp chân thật trùm khắp cả pháp giới, chớ không phải không ngơ, nên Phật tức là pháp.

 

CHÁNH VĂN:

 

Một niệm ĺa chân đều là vọng tưởng.

 

GIẢNG:

 

Niệm ĺa chân là niệm ǵ? Như chúng ta đang ngồi an tịnh, không nghĩ không suy lúc đó là chân. Vừa dấy niệm nghĩ cái ǵ đó là niệm ĺa chân. Chúng ta tu để cầu chân, mà luôn luôn khởi niệm ĺa chân. V́ chân là phẳng lặng mà dấy lên là động rồi, tức ĺa cái chân thật. Cho nên Ngài nói “một niệm ĺa chân đều là vọng tưởng”, người tu phải chiếu soi vọng tưởng cho nó lặng xuống, trở về thể chân thật.

 

CHÁNH VĂN:

 

Không thể đem tâm lại t́m tâm, không thể đem Phật lại cầu Phật, không thể đem pháp lại cầu pháp.

 

GIẢNG:

 

Chúng ta phải hiểu Phật là tánh giác sẵn của ḿnh nên không thể khởi niệm hiểu biết, cũng không thể khởi đi cầu Phật v́ chính tâm lặng lẽ hằng giác hằng tri là Phật. Không thể đem pháp cầu pháp. Như vậy tâm, Phật, pháp là cái không thể cầu.

 

CHÁNH VĂN:

 

Người học đạo thẳng đó vô tâm, thầm khế hội mà thôi.

 

GIẢNG:

 

Người học đạo khôn ngoan, thấu hiểu ngay đó đừng dấy niệm khởi nghĩ là vô tâm. Vô tâm th́ khế hội được tánh linh giác. Nếu có tâm nghĩ suy, có tâm t́m kiếm là mất tánh linh giác, rơ ràng như vậy. Như chúng ta muốn nh́n thấy mặt nước hồ phẳng th́ cứ yên lặng nh́n nó, chớ lấy cục đá dội xuống để t́m mặt hồ phẳng lặng th́ mặt hồ phẳng mất ngay.

Chúng ta đang là Phật, khởi niệm cầu Phật th́ mất Phật rồi. Tâm đang phẳng lặng sáng suốt là Phật, bây giờ chúng ta dấy niệm cầu Phật, chẳng khác nào ôm đá quăng xuống mặt hồ phẳng để thấy mặt hồ phẳng. Thấy được không? Đó là lầm lẫn của chúng sanh nhiều đời. V́ vậy Tổ nói: Người học đạo thẳng đó vô tâm, thầm khế hội mà thôi. Ngay đó buông tất cả niệm th́ tự khế hội, chớ không có ǵ lạ.

 

CHÁNH VĂN:

 

Nghĩ tâm tức là sai, lấy tâm truyền tâm đây là chánh kiến.

 

GIẢNG:

 

Lấy tâm mà khởi nghĩ về tâm đă là sai. Lấy tâm truyền tâm là chánh kiến. V́ sao lấy tâm truyền tâm là chánh kiến? V́ tâm người truyền và tâm người được truyền đều thanh tịnh. Hai bên thông cảm nhau nên nói lấy tâm truyền tâm. Như Tổ Huệ Khả tŕnh với Tổ Đạt-ma: “Bạch Hoà thượng, con dứt hết các duyên.” Tổ Đạt-ma bảo: “Coi chừng rơi vào không.” Tổ Huệ Khả thưa: “Rơ ràng thường biết, làm sao không được.” Tổ Đạt-ma bảo: “Ông như thế, ta như thế, chư Phật cũng như thế.” Đó là lấy tâm truyền tâm. “Ông như thế” là tâm ông không c̣n dính các duyên, rơ ràng thường biết. Ta cũng thế, tâm Phật cũng thế. Truyền như vậy mới là chánh kiến, chớ nói truyền tâm ấn bằng cách làm phép ǵ đó để truyền tâm là trật lất, xa lắm rồi, không phải lẽ thật.

 

CHÁNH VĂN:

 

Dè dặt chớ hướng ra ngoài, chạy theo cảnh, nhận cảnh làm tâm là nhận giặc làm con. V́ có tham, sân, si nên lập giới, định, tuệ. Vốn không có phiền năo th́ đâu có Bồ-đề. Cho nên Tổ sư nói: “Phật nói tất cả pháp v́ trừ tất cả tâm, ta không tất cả tâm đâu dùng tất cả pháp.”

 

GIẢNG:

 

Ngài dạy chúng ta đừng chạy ra ngoài t́m cầu, nhận cảnh làm tâm là nhận giặc làm con. Nếu thấy cảnh rồi cho cảnh này đẹp, cảnh kia tốt v.v… để khen chê, là tâm đang duyên theo cảnh, đó là nhận giặc làm con.

Tại sao Phật nói giới, định, tuệ? V́ chúng sanh có tham sân si nên Phật nói giới định tuệ. Nếu chúng sanh hết tham sân si th́ cần giữ giới, cần thiền định trí tuệ nữa không? Hết tham sân si th́ khỏi ǵ cả. Người nào tham sân si nhiều giữ giới phải nhiều, người nào tham sân si ít giữ giới ít, người nào hết tham sân si th́ khỏi giữ giới. Giới định tuệ là để kềm tâm, bây giờ tâm lặng rồi c̣n ǵ nữa mà kềm, th́ giới định tuệ cũng không dùng. Cho nên ở đây Ngài dẫn lời vốn không có phiền năo th́ đâu có Bồ-đề. Phiền năo là mê lầm khổ sở, c̣n Bồ-đề là giác ngộ thanh tịnh. Có giác ngộ thanh tịnh v́ có mê lầm đau khổ, nếu hết mê lầm đau khổ th́ cũng không nói đến giác ngộ thanh tịnh làm ǵ.

Lục Tổ nói: Phật nói tất cả pháp v́ trừ tất cả tâm, ta không tất cả tâm đâu dùng tất cả pháp. Mới nghe dường như Tổ không cần tới giáo lư, như vậy có ngă mạn không? Không. V́ như bác sĩ tới khám bệnh, những người bệnh thấy mừng v́ họ cần xem bệnh xin thuốc. C̣n người không bệnh, khi bác sĩ tới, nói “tôi không cần”. Nói không cần chẳng qua v́ không bệnh chớ không phải xem thường bác sĩ, v́ vậy không có lỗi. Bác sĩ có giá trị đối với người bệnh. Cũng vậy, pháp của Phật có giá trị đối với người c̣n phiền năo. Nếu hết phiền năo th́ pháp của Phật cũng để dành đó, chớ đâu dùng làm ǵ. Người nào nhiều tâm vọng tưởng, Phật lấy pháp để trị, Tổ không tất cả tâm đâu dùng tất cả pháp, điều này rơ ràng như vậy, chớ Tổ không có ngă mạn.

Chúng ta bây giờ c̣n tâm lăng xăng nhiều quá nên phải học pháp nhiều, chừng nào tâm lặng hết th́ khỏi học, khỏi ngồi thiền luôn. Nếu không được thế th́ thôi chịu khó ngồi thiền, học pháp lâu ngày sẽ thấm. Bởi v́ giáo lư là phương tiện trị tâm bệnh cho chúng sanh. Người ta chế thuốc là v́ người bệnh chớ không v́ người mạnh. Chúng ta c̣n bệnh buộc ḷng phải uống thuốc. Lúc nào hết bệnh th́ thuốc cũng bằng thừa. Chỉ có giáo lư Phật mới dám nói một cách quả quyết rằng giáo lư giống như ngón tay chỉ mặt trăng. Khi chưa thấy mặt trăng th́ cần ngón tay, nương đó để thấy mặt trăng. Khi thấy mặt trăng rồi th́ ngón tay thừa. Như muốn qua bên bờ kia chúng ta dùng chiếc bè đưa qua sông. Tới bờ kia rồi th́ chiếc bè trôi đâu mặc nó, không quan trọng nữa. Nên hiểu pháp Phật là phương tiện, chớ không phải chân lư, không bao giờ bỏ được.

Người học đạo thấy được gốc rồi, sự tu không khó khăn, chỉ cần bền chí. Bền chí gánh đất, nhổ cỏ hay bền chí làm ǵ? Bền chí thường tỉnh đừng mê, đừng quên. Thường tỉnh đừng chạy theo các vọng niệm, đó là chúng ta thành công.

 

CHÁNH VĂN:

 

Trên bản nguyên thanh tịnh Phật lại không để một vật. Ví như hư không, dù lấy trân bảo vô lượng để trang nghiêm, trọn không thể được. Phật tánh đồng hư không, dù lấy công đức trí tuệ vô lượng để trang nghiêm, trọn không thể được. Chỉ mê bản tánh bèn không thấy vậy.

 

GIẢNG:

 

Bản nguyên thanh tịnh của chính ḿnh là Phật, nên không để một thứ ǵ trên đó hết. Nói trang nghiêm tịnh độ hay trang nghiêm tự tâm là trang nghiêm tâm nào? Nếu trang nghiêm th́ trang nghiêm tâm sanh diệt thôi, chớ tâm bản nguyên không có ǵ để trang nghiêm, v́ nó không thiếu, không dư làm sao trang nghiêm? Chỉ trên tự tâm biết rơ, không thêm ǵ hết th́ đúng, nếu c̣n để một vật ǵ là c̣n mê. Cho nên ở đây nói chỉ mê bản tánh bèn không thấy vậy.

Chỗ này có tu mới thấy vui. Khi nào chúng ta ngồi thiền tỉnh táo lặng lẽ, tâm không vướng bên này không mắc bên kia, gương mặt tươi tỉnh, tự ḿnh cũng thấy vui. C̣n vướng c̣n mắc th́ có buồn vui lẫn lộn. Người sống không vướng mắc sẽ tự vui, bởi v́ tâm thanh tịnh bản nhiên vốn an lạc tự tại, không kẹt chi cả. Cho nên càng đi sâu, chúng ta càng thấy cụ thể ḿnh sẵn có tâm thanh tịnh, vậy mà cứ đi t́m hoài, t́m đáo để rốt cuộc nhận ra nó ngay dưới gót chân ḿnh, chớ không đâu xa. Hiểu thế, chúng ta mới thấy tại sao Lục Tổ không chịu cho ngồi thiền nhiều. V́ với Ngài không có một niệm, không có một tâm, đi đứng ngồi nằm cũng vậy, cho nên ngồi thiền chi cho cực.

Chúng ta bây giờ th́ sao? Chạy ngược, chạy xuôi quá nên phải ngồi. Ngồi ngó xuống cho đỡ một chút, ít nhất cũng giảm đi năm mươi phần trăm lộn xộn. Chừng nào thuần thục rồi th́ đi đứng nằm ngồi đều là đạo, không có cách biệt. Tuy nhiên, nh́n lại đức Phật Thích-ca đă thành Phật rồi, Ngài cũng vẫn ngồi thiền như thường. Thọ trai xong Phật đi kinh hành, xế chiều tọa thiền. Các thầy Tỳ-kheo hỏi: “Đức Thế Tôn dạy chúng con ngồi thiền để định tâm, c̣n Ngài tâm đă thường định tại sao cũng ngồi thiền?” Thế Tôn đáp: “Ta ngồi thiền để điều hoà thân thể và răn nhắc đệ tử sau này không lười trễ tọa thiền.” Ngài ngồi quen, ngồi cho vui cho khỏe và cũng để răn dạy các thầy Tỳ-kheo, chớ không t́m kiếm ǵ nữa.

 Chúng ta hiểu cho tới nơi, thấy thật tường tận th́ sự tu hành sẽ đơn giản vô cùng. Sống đơn giản rồi ḿnh thấy những bày biện lăng xăng của cuộc sống có chóa mắt không, mệt đầu không? Bởi vậy nhiều khi tôi lắc đầu hoài, tu Phật kiểu này th́ không biết đời kiếp nào về cơi Phật. Như có ông Sư nói: “Ai muốn tụng kinh cho cha mẹ về Cực Lạc th́ đặt tụng ba ngày ba đêm giá hai cây, ai sợ cha mẹ xuống địa ngục, muốn làm lễ phá địa ngục th́ năm cây.” Vậy mà người ta ưa lắm, thành ra tôi cũng lắc đầu.

 

CHÁNH VĂN:

 

Nói rằng “Pháp môn tâm địa” là muôn pháp đều y tâm này dựng lập, gặp cảnh tức có, không cảnh tức không, không thể trên tánh tịnh lại khởi biết cảnh.

 

GIẢNG:

 

Nói rằng pháp môn của chư Phật chỉ dạy là “pháp môn tâm địa” nên gọi là tâm địa quán. Chính chỗ này ngài Vô Ngôn Thông tới Tổ Bá Trượng. Một hôm Tổ Bá Trượng dạy “tâm địa nhược không, tuệ nhật tự chiếu”, nghĩa là đất tâm nếu không th́ mặt trời trí tuệ tự sáng. Nghe câu đó Ngài liền ngộ, sau sang Việt Nam truyền đạo. Tại sao nói pháp môn tâm địa? V́ tất cả pháp từ tâm sanh khởi, không có pháp nào ngoài tâm, v́ vậy gọi là pháp môn tâm địa. Nếu chúng ta trở về được tâm địa, các pháp không c̣n sanh diệt nữa th́ mặt trời trí tuệ tự sáng không nghi. V́ vậy tu là cốt trở về chỗ cứu kính ấy.

Bởi vậy không thể trên tánh tịnh mà khởi biết cảnh, nghĩa là cảnh đến th́ đến, cảnh đi th́ đi. Cảnh đến tạm có, cảnh đi tạm không, chớ không phải tánh ḿnh có hay không.

 

CHÁNH VĂN:

 

Nói định tuệ là quán dụng th́ rơ ràng vắng lặng tỉnh táo, thấy nghe hiểu biết đều phải.

 

GIẢNG:

 

Nói định tuệ là quán dụng. Trong khi chúng ta dụng công tu quán th́ rơ ràng vắng lặng tỉnh táo, quán tất cả pháp tánh là không, không thấy có pháp thật, ḿnh vẫn thấy nghe hiểu biết. Cho nên trong cái thấy nghe hiểu biết vẫn biết các pháp tự tánh là không, không có ǵ sai.  

 

CHÁNH VĂN:

 

Trên cảnh khởi hiểu, tạm v́ người trung hạ căn nói th́ được. Nếu muốn thân chứng đều không thể khởi thấy hiểu như thế, toàn là cảnh pháp, có chỗ lặn mất th́ lặn mất ắt có nơi. Chỉ đối tất cả pháp không khởi thấy có không, tức là thấy pháp.

 

GIẢNG:

 

Ở đây Ngài nói rơ: Trên cảnh khởi hiểu, tạm v́ người trung hạ căn nói th́ được. Ví dụ đối với cái bàn, quán nó duyên hợp hư giả, hiểu như vậy không có ǵ sai, nhưng đó là chỉ cho người trung căn và hạ căn.

Nếu muốn thân chứng, đều không thể khởi thấy hiểu như thế, toàn là cảnh pháp, có chỗ lặn mất th́ lặn mất ắt có nơi. Thân chứng là chứng đến tận nơi. Nếu cái thấy hiểu mất th́ phải có chỗ để cho nó mất.

Chỉ đối tất cả pháp không khởi thấy có không, tức là thấy pháp, quán các pháp như huyễn, không thật th́ cũng có cái “có không” đối đăi. V́ vậy nên biết rơ rằng các pháp không phải có, không phải không, đừng cố chấp bên nào, như vậy mới là chỗ chân thật.

Thế nào là người trung căn, người thượng căn? Ví như chúng ta thấy cành hoa, phân biệt đẹp xấu rồi ưa ghét, đó là đang loạn tưởng đắm nhiễm. Bây giờ nếu quán cành hoa đó duyên hợp, không thật, phân tích ra từng cánh t́m cái hoa không có. Như vậy tu quán để trừ chấp hoa thật, hoa đẹp v.v… từ từ tâm yên. Người quán thế ấy thuộc hạng trung căn. Nếu người thượng căn thấy cành hoa là cành hoa, không phân biệt đẹp xấu, thấy người là người, không phân biệt trắng đen, không cần khởi quán. V́ vừa khởi quán là trật rồi. Đối cảnh đẹp xấu không động tâm, đó là thật. C̣n khởi quán để đừng dính mắc, đó là gỡ, là tu. Như vậy người tu trên phương tiện thuộc hàng trung căn, người nh́n thẳng tất cả các pháp bằng tâm chân thật, không khởi quán thuộc về thượng căn.

Chúng ta bây giờ thấy hoa có quán hư giả hay thấy hoa trầm trồ đẹp xấu? Nếu thấy hoa trầm trồ đẹp xấu, đó là tâm của ai? Của phàm phu. C̣n nếu thấy hoa biết là duyên hợp hư giả, không thật đó là trí quán của hàng trung căn. V́ để phá chấp phàm phu cho nên dạy quán. C̣n nếu người thấy hoa là hoa, không cần dạy quán ǵ nữa. Dạy là thêm bệnh, tức thịt lành khoét thành thương tích. Hiểu rơ chỗ này mới thấy ư nghĩa đạo lư thâm trầm, không hiểu chúng ta tu dễ bị lầm lẫn.

 

CHÁNH VĂN:

 

Từ Đại sư Đạt-ma đến Trung Quốc chỉ nói một tâm, chỉ truyền một pháp. Lấy Phật truyền Phật chẳng nói Phật khác, lấy pháp truyền pháp chẳng nói pháp khác. Pháp tức là pháp không thể nói, Phật tức là Phật không thể thủ, mới là tâm bản nguyên thanh tịnh vậy.

 

GIẢNG:

 

Tổ Đạt-ma sang Trung Quốc truyền đạo, chỉ lấy một tâm chỉ truyền một pháp. Tại sao nói một tâm? Tại sao nói một pháp? V́ Tổ chỉ cho chúng ta nhận ra bản tâm, đó là một tâm. Phương tiện chỉ tâm cho ḿnh nhận ra, đó là một pháp. Chỉ một tâm chỉ một pháp, v́ tâm đó là thể của muôn pháp nên cũng là một pháp, chớ không khác. Nên nói truyền một tâm một pháp, không nói ǵ khác.

Khi tới vua Lương Vơ Đế, Vua hỏi: “Trẫm làm tất cả việc như cất chùa nuôi tăng v.v… như vậy có công đức không?” Tổ đáp: “Không.” Nếu bây giờ chúng ta gặp Vua hỏi th́ đáp thế nào, có ai dám nói như Tổ không? Chắc là không, mà c̣n tán thán bệ hạ làm như vậy phước đức vô lượng vô biên, v́ sợ mất ḷng Vua. Tổ nói thẳng “không công đức”, đó là tạt một gáo nước lạnh vô mặt Vua, không sợ mất ḷng ǵ cả, đó là v́ Tổ muốn truyền một pháp thôi, ngoài ra không muốn ǵ khác. Khi Vua hỏi: “Thánh đế đệ nhất nghĩa thế nào?” Ngài đáp: “Rỗng thênh không Thánh.” Thế là làm phật ư vua Lương hoàn toàn, nên không thể truyền đạo được ở đây. Đối với Tổ c̣n Thánh phàm là hai, nên Ngài nói chỗ tột “rỗng thênh không Thánh”, không có cái thứ hai. Biết cơ duyên truyền đạo tại đây không được, Tổ đi nơi khác.

Như vậy để hiểu người xưa truyền đạo rất trung thành với pháp của ḿnh được, chỉ thẳng pháp đó, không nói pháp khác. Ngày nay chúng ta phương tiện nhiều quá, riết rồi xin xăm bói quẻ cũng phương tiện luôn. Tại sao? V́ có tiền, rốt cuộc không c̣n đạo nữa.

Pháp tức là pháp không thể nói, Phật tức là Phật không thể thủ, mới là tâm bản nguyên thanh tịnh vậy. Tâm bản nguyên là pháp không thể nói, Phật không thể thủ.

 

CHÁNH VĂN:

 

Chỉ một việc này thật, có hai cái khác th́ chẳng phải chân.

 

GIẢNG:

 

Chỉ một là thật, c̣n hai không phải chân. Kinh Pháp Hoa nói chỉ một Phật thừa, hai chẳng phải chân. Như vậy tâm chân thật ấy không hai.

 

CHÁNH VĂN:

 

Bát-nhă là tuệ, tuệ này tức là bản tâm vô tướng. Phàm phu không đến đạo, chỉ buông lung sáu t́nh là đi trong sáu đạo. Người học đạo một niệm chấp sanh tử liền rơi vào ma đạo; một niệm khởi các kiến (các thứ thấy biết khác) liền rơi vào ngoại đạo; thấy có sanh tiến đến diệt liền rơi vào Thanh văn đạo; chẳng thấy có sanh, chỉ thấy có diệt, liền rơi vào Duyên giác đạo; không khởi cái thấy có hai, chẳng chán chẳng ưa, tất cả các pháp chỉ là một tâm, nhiên hậu mới là Phật thừa. 

 

GIẢNG:

 

Thấy có hai th́ c̣n mắc kẹt hai bên, người học đạo c̣n chấp sanh tử th́ rơi vào ma đạo. Người học đạo buông lung sáu t́nh th́ đi trong sáu đạo. Sáu t́nh là sáu căn. Buông lung sáu căn chạy theo sáu trần th́ đi trong sáu đường sanh tử. Nếu học đạo mà một niệm chấp sanh tử thật liền rơi vào đường ma. Một niệm khởi các kiến rơi vào ngoại đạo, kiến chấp thế này thế kia. Thấy có sanh tiến tới diệt là rơi vào Thanh văn, nghĩa là thấy cái này sanh lần lần diệt, nó vô thường. Chẳng thấy có sanh chỉ thấy có diệt là rơi vào Duyên giác đạo, tức là thấy các pháp do duyên hợp, sanh không thật sanh, chỉ đủ duyên nó tụ, hết duyên nó tan, đó là Duyên giác đạo.        

Không khởi cái thấy có hai, chẳng chán chẳng ưa, tất cả các pháp chỉ là một tâm, nhiên hậu mới là Phật thừa. Chỉ tất cả pháp là một tâm, đó mới là Phật thừa. Học đạo chỉ biết đến chỗ cứu kính là một tâm, không có ǵ khác th́ thật đơn giản. C̣n học phân biệt Thanh văn bao nhiêu hạng, Bồ-tát bao nhiêu hạng, cực quá. Ở đây nói thẳng chỉ đi tới chỗ cứu kính là Phật thôi. Muốn cứu kính là Phật th́ không hai, không ưa, không ghét. Đó là chỗ chân thật, cứu kính.

Chúng ta thấy lời chỉ dạy của Tổ Hoàng Bá rất thâm thiết, rất sâu kín. Thấy tường tận như vậy th́ trên đường tu không khó.

 

CHÁNH VĂN:

 

Phàm phu đều theo cảnh sanh tâm, tâm bèn ưa chán. Nếu muốn không cảnh phải quên tâm ấy. Tâm quên tức là cảnh không, cảnh không tức là tâm diệt. Nếu không quên tâm mà chỉ trừ cảnh th́ cảnh không thể trừ, càng thêm lăng xăng. Cho nên muôn pháp chỉ là tâm, tâm cũng không thể được, lại cầu cái ǵ? Người học Bát-nhă không thấy một pháp có thể được, dứt ư nơi tam thừa, chỉ một chân thật không thể chứng được. Bảo là ta hay chứng hay đắc đều là người tăng thượng mạn. Trên hội Pháp Hoa phủi áo ra đi, đều là bọn người này. Phật nói: “Ta đối với Bồ-đề thật không sở đắc”, thầm khế hội mà thôi.

 

GIẢNG:

 

Phàm phu đều theo cảnh sanh tâm, sanh tâm bèn ưa chán. Nếu muốn không cảnh th́ phải quên tâm ấy, nghĩa là quên tâm đuổi theo cảnh, tâm quên tức cảnh không. Nếu quên tâm không dấy chạy theo cảnh th́ cảnh tự không, cảnh tự không th́ tâm cũng diệt. Nếu không quên tâm mà chỉ trừ cảnh, cảnh không thể trừ, càng thêm lăng xăng. Bệnh người tu bây giờ là vậy, không muốn quên tâm mà muốn dẹp cảnh. Muốn vô hang núi tu một ḿnh để đừng thấy ai hết, đó là quên tâm hay dẹp cảnh? Chắc ǵ ngồi trong hang núi mà không suy nghĩ. Nhiều khi ngồi hang núi lại muốn chạy ra ngoài, cho nên cái đó không phải gốc, gốc là phải quên tâm, quên tâm tự nhiên cảnh diệt. Như vậy mới là người biết tu.

Cho nên muôn pháp chỉ là tâm, muôn pháp sanh v́ tâm dấy niệm chạy theo. Tâm chạy theo cảnh không có thật. Pháp không thật, tâm không thật th́ cầu cái ǵ? Thế nên người học Bát-nhă không thấy một pháp có thể được, v́ không một pháp thật.

Dứt ư nơi tam thừa, chỉ một chân thật không thể chứng được, cái chân thật đó sẵn có, không nói chứng nói đắc.

Bảo là ta hay chứng hay đắc đều là người tăng thượng mạn, bây giờ lắm người tu hay khoe, tôi chứng cái này đắc cái kia. Tổ dạy thật rơ không có cái để chứng, không có cái để đắc. Tại sao? V́ cái sẵn của ḿnh th́ làm sao nói chứng, nói đắc được. Cho nên đến chỗ chân thật này Phật dạy: “Ta đối với Bồ-đề thật không sở đắc.” Ngài đối với Bồ-đề thật không sở đắc mà người ta nói Ngài đắc Bồ-đề. Đọc kinh nhiều khi chúng ta thấy mâu thuẫn, như kinh Bát-nhă nói “dĩ vô sở đắc cố” nghĩa là không có sở đắc. Từ Bồ-đề-tát-đỏa y Bát-nhă ba-la-mật-đa… chư Phật y Bát-nhă ba-la-mật-đa… đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nghĩa là đắc hết. Đoạn trước th́ không sở đắc, đoạn sau lại đắc. Như vậy là sao? Vô sở đắc v́ tất cả pháp đều hư dối, do biết tất cả pháp hư dối nên chúng ta đầy đủ Tam minh, Lục thông, Tứ vô sở úy, đó là đắc; không đắc mà đắc. C̣n nếu thấy tất cả pháp thật, th́ không đạt được ǵ hết. Hiểu như vậy mới thấy kinh nói dường như mâu thuẫn mà không mâu thuẫn. Phật không được Bồ-đề mà thật t́nh Ngài đă thành Chánh đẳng Chánh giác.

 

CHÁNH VĂN:

 

Phàm nhân khi sắp mạng chung chỉ quán năm uẩn đều không, bốn đại vô ngă, chân tâm không tướng, chẳng đi chẳng đến, khi sanh tánh cũng chẳng đến, khi tử tánh cũng chẳng đi, yên lặng tṛn bặt, tâm cảnh nhất như. Chỉ hay quán như thế liền đó chóng liễu ngộ, chẳng bị ba đời ràng buộc bèn là người xuất thế.

 

GIẢNG:

 

Người tu thiền khi sắp lâm chung phải làm sao? Ngài dạy chỉ quán năm uẩn đều không, bốn đại vô ngă như trong kinh Bát-nhă.

Chân tâm không tướng, chẳng đi chẳng đến, khi sanh tánh cũng chẳng đến, khi tử tánh cũng chẳng đi, yên lặng tṛn bặt, tâm cảnh nhất như. Nói rằng quán năm uẩn đều không, bốn đại vô ngă điều này nhiều người quán được. Nhưng tới chân tâm không tướng, chẳng đi chẳng đến làm sao biết? Đă không biết v́ sao nói chân tâm không tướng, chẳng đi chẳng đến, khi sanh tánh cũng chẳng đến, khi tử tánh cũng chẳng đi? Không biết ḿnh có chân tâm mà bảo quán chân tâm làm sao quán? Đó là một vấn đề.

Ai cũng nói có chân tâm, mà nó hiện lúc nào ra sao lại không biết. Khi đọc kinh sách tưởng như ḿnh hiểu, thực ra chỉ hiểu trên danh từ thôi, chớ thực chất chưa nắm được. Quí vị muốn thấy chân tâm th́ phải dùng trí tuệ sẵn có muôn đời của ḿnh mà nhận. Thường mọi người luôn lấy ư thức sanh diệt làm tâm ḿnh. Như vậy tất cả nghĩ phải nghĩ quấy, nghĩ hơn nghĩ thua, nghĩ tốt nghĩ xấu v.v… đều cho là tâm ḿnh. Người nào nghĩ khéo, nghĩ trúng th́ khen tâm họ sáng, ai nghĩ trật nghĩ sai th́ nói tâm họ mù mịt, đần độn quá.

Trăm người như một đều nhận suy nghĩ phân biệt đối đăi làm tâm ḿnh, không biết đó là tâm động, tâm sanh diệt. Nó đâu có nghĩ hoài một việc mà thay đổi luôn luôn. Nó là động, là sanh diệt mà chúng ta nhận là tâm ḿnh, nhận thân tứ đại sanh diệt làm thân ḿnh th́ đang sống với cái ǵ? Sống với cái tạm bợ, hư dối sanh diệt. Đă lấy tạm bợ hư dối sanh diệt là ḿnh, th́ cái này hoại bám cái khác, cái khác hoại bám cái khác nữa, liên tục cho nên tiếp tục trong ṿng sanh tử không cùng tận. Đó là nỗi khổ của chúng sanh, cứ như vậy triền miên sanh tử kiếp kiếp đời đời, không dừng được. Cho nên đức Phật hết sức thương xót.

Ngày nay chúng ta tu muốn thoát ly sanh tử, mà cứ bám vào thân tâm sanh diệt ấy, làm sao thoát ly được. Như người muốn qua sông lớn mà nương chiếc xuồng lủng, chiếc ghe bể th́ sao? Th́ chết ch́m. Muốn qua sông lớn ít ra cũng có thuyền chắc hay tàu lớn, cái không bền chắc mà dùng vượt sông biển th́ không thế nào được. Tu hành cũng vậy, chúng ta phải biết cái ǵ là chân tâm, cái ǵ là vọng tâm hư dối. Nắm vững để chúng ta không bị kẹt trong tướng sanh diệt, mà nhận lấy cái bất sanh bất diệt, nhà Phật gọi là Niết-bàn. Chân tâm là nhân của Niết-bàn sẵn có nơi mỗi người, mà không ai chịu nhận. Thật đáng tiếc.

Lục Tổ hỏi ngài Huệ Minh: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái ǵ là bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?” Đó là Ngài đă chỉ chân tâm cho Thượng tọa Minh rồi. Chúng ta cứ nói tâm chân, tâm vọng mà hỏi tâm là ǵ cũng không biết, cứ cho suy nghĩ hai bên là tâm. Sự thật ngài Khuê Phong định nghĩa rơ ràng “Tâm là cái biết”. Cái biết nào thuộc về hư dối sanh diệt gọi là biết vọng. Cái biết không sanh không diệt là biết chân. Cái biết nghĩ phải nghĩ quấy, nghĩ hơn nghĩ thua là cái biết sanh diệt. Không dùng cái biết sanh diệt, ḿnh vẫn biết đó là chân.

V́ chúng ta không gan dạ, không dám nh́n thẳng để nhận ra cái thật, cứ chạy theo những dấy nghĩ cho là tâm ḿnh nên quên mất cái thường biết lặng lẽ. Như vậy có tủi không? Chúng ta quả tang là chàng bất hiếu cùng tử, ông cha sung sướng giàu có mà bỏ chạy tha hương, tới chừng thức tỉnh mới t́m trở về. Đâu phải cha đuổi mà chính ḿnh bỏ nhà đi hoang. Cũng thế, chân tâm hiện giờ ai cũng có, mà không chịu nhận. V́ vậy chúng ta ngồi thiền để dừng nghĩ phải, nghĩ quấy, dừng vọng tâm. Vọng tâm dừng lúc đó chân tâm hiện ra. Biết tất cả đó là tâm, mà không động.

Các vị Tổ hồi xưa nói “đêm đêm ôm Phật ngủ”, ôm ông Phật ngủ mà không nhớ Phật, lại gác tay gác chân đè Phật, “ngày ngày cùng Phật đi”, mà không thèm ngó ngàng tới Phật, toàn là ngó theo chúng sanh. Thấy cây dù xanh lo nh́n cây dù xanh, thấy chậu hoa đỏ lo nh́n chậu hoa đỏ, cứ phân biệt theo cảnh bên ngoài, không nhớ ḿnh có ông Phật đang đi theo đây. Bởi vậy đi đứng nằm ngồi không rời chân tâm, mà chúng ta lại không bao giờ nhận nó, cứ nhận cảnh vật bên ngoài, trách ǵ không luân hồi muôn kiếp. Bây giờ muốn dừng luân hồi phải nhớ ḿnh có tâm chân thật. Đó  là cái không nghĩ suy tính toán, lặng lẽ thường biết hiện tiền. Diễn tả nó làm sao? Nó không là ǵ hết, v́ không có h́nh dáng. Có h́nh dáng là tướng vô thường sanh diệt. Nó không phải vô thường sanh diệt nên không h́nh dáng mà hằng tri hằng giác.

Mỗi ngày chúng ta ngồi thiền là để sống lại với tâm thật của ḿnh, không t́m cầu bên ngoài. Nhưng khổ nỗi nhiều người ngồi thiền mong thấy hào quang, mà không biết chính tâm lăng xăng loạn tưởng dừng, luôn luôn tỉnh sáng, đó là tâm chân thật hiện tiền. Cho nên nói ôm tâm chờ ngộ là sai. Có ǵ đâu phải chờ, chỉ cho bọn giặc lặng xuống, đừng rối loạn lăng xăng nữa th́ cái thật hiện ra. Thiền sư lúc sống với đạo thường như ngu như ngây, khờ khạo. Khờ khạo với lanh lợi phân biệt, nhưng biết thấu tột cả vũ trụ nhân sinh, thấy tường tận cội gốc của nó. C̣n chúng ta ngày nay lanh lợi quá, chỉ biết chuyện hơn thua phải quấy thôi, nên tu hoài vẫn không hết vô minh phiền năo. 

Chúng sanh quá khờ dại, những chuyện không có quyền can thiệp, không có quyền xử sự mà cứ muốn biết, c̣n cái thật đang sống với ḿnh lại bỏ qua, đáng thương không? V́ vậy chư Phật Bồ-tát thị hiện ra đời là v́ chúng sanh, muốn độ chúng thoát ly sanh tử. Thoát ly sanh tử không phải thân này, không phải tâm hơn thua phải quấy. Thoát ly sanh tử là nhận ra cái chân thật mà ḿnh bỏ quên nên cứ trầm luân măi. Phật thương nhắc đi nhắc lại không biết bao nhiêu kinh điển, mà nào có mấy người hưởng ứng? Như tôi nói pháp mười năm nữa cũng vậy thôi. Nói qua rồi quí vị quên, chỉ nhớ chuyện bên Tây bên Tàu, chớ không nhớ ḿnh có ông Phật chân thật ngay đây. Tu như vậy tới gần chết quưnh lên không biết ḿnh ra sao? Tại v́ cứ bám vào thân sanh diệt, tâm sanh diệt cho là ḿnh, tới khi nó sắp hoại mất th́ sợ sệt hoảng hốt. C̣n biết ḿnh sẵn tâm chân thật rồi th́ thân tạm bợ này hoại diệt có sao đâu, việc ǵ phải khổ.

Cho nên các Thiền sư cười trước khi chết, v́ thấy thân là đồ bỏ không đáng giá chi, tạm mượn nó sống tu. Bây giờ hết duyên th́ đi, các ngài xem nhẹ sự sống chết như thế. Chúng sanh ngược lại, cho thân là thật nên một lần mất nó là một lần đau khổ vô cùng. Chẳng những đau khổ v́ mất nó, mà đau khổ không biết sẽ đi đâu. Tổ Qui Sơn nói: “Đường trước mờ mờ chưa biết về đâu?” V́ vậy chúng ta học đạo cốt để tu, đừng phụ bạc ông chủ ḿnh nữa. Người nào đừng để tâm chạy ngược chạy xuôi, dừng nghỉ hết lăng xăng, tỉnh táo vui vẻ đó là người sống với chân tâm. Được như vậy người đó khi nhắm mắt đi với cái không sanh diệt tức là nhập Niết-bàn. Ngược lại cứ sống với phải quấy hơn thua thương ghét, th́ đi với tâm sanh diệt tạo nghiệp, dẫn trong sáu nẻo luân hồi.

Bây giờ quí vị biết quán chân tâm là sao chưa? Quán chân tâm là biết rơ tất cả niệm khởi thuộc tướng sanh diệt, cái hằng giác hằng tri không dấy động là ḿnh. Cứ nhớ bao nhiêu đó th́ sống với ông chủ, ra đi tự tại, thảnh thơi biết mấy. Tổ bảo khi sắp mạng chung chỉ quán năm uẩn không thật, bốn đại vô ngă. Cái hằng tri giác không sanh không diệt nên khi sanh tánh nó không đến, khi tử tánh nó không đi, yên lặng tṛn bặt, tâm cảnh nhất như.

Người nào quán được như vậy th́ liền chóng liễu ngộ, chẳng bị ba đời ràng buộc, bèn là người xuất thế. Bao nhiêu kinh điển đều chỉ một đoạn này, người thấy được đường tu th́ rất gần. Nếu người c̣n đa mang tâm sanh diệt, luyến tiếc tướng tứ đại th́ đi theo chiều sanh diệt. C̣n người biết những thứ đó hư giả, chỉ nhớ tâm hiện tiền hằng tri giác bất sanh bất diệt của ḿnh, đó là người xuất thế tức giải thoát vậy.

 

CHÁNH VĂN:

 

Dù người không được ít phần thú hướng, nếu thấy tướng lành, chư Phật đến đón và các thứ hiện trước cũng không khởi tâm đi theo; nếu thấy tướng dữ và các thứ hiện trước cũng không sanh tâm kinh sợ; chỉ tự quên tâm đồng với pháp giới liền được tự tại, đây tức là điều thiết yếu vậy.

 

GIẢNG:

 

Chỗ này rất khó. Ai nhắm mắt gần chết, thấy Phật đến đón mà không mừng. Hầu như người tu nào cũng mơ ước được Phật đón. Nhưng ở đây dạy nếu thấy tướng lành chư Phật đến đón và các thứ hiện trước cũng không khởi tâm đi theo. Phật rước cũng không đi. Tại sao vậy? V́ muốn ra khỏi sanh tử nên không đi theo các tướng trạng bên ngoài, dù đó là tướng Phật. Nếu theo Phật cũng c̣n sanh trong hoa sen. Muốn đi thẳng tới chỗ vô sanh, th́ không theo ai kể cả Phật, huống nữa là Thánh Thần hay những người thân yêu.

Các thứ hiện trước cũng không khởi tâm đi theo, các thứ hiện trước là thân tộc bà con, anh em cha mẹ đón cũng không đi. Điều này khó số một. Đa số quí vị thấy bà con thân tộc là mừng rỡ, nói ǵ đến đón ḿnh. Cho nên nếu không khéo tu, lúc sắp mất đi theo những h́nh ảnh này là tiếp tục thọ thân sau, có khi ma quỷ giả h́nh, dẫn người chết đi vào cảnh giới của chúng, chịu khổ không thể lường.

Đến khó số hai. Nếu thấy tướng dữ và các thứ hiện trước cũng không sanh tâm kinh sợ. Thấy những tướng dữ tức như thấy cọp rượt, cá sấu đuổi v.v…  cũng không sợ. Tóm lại thấy tướng lành không theo, thấy tướng dữ không sợ.

Chỉ tự quên tâm đồng với pháp giới liền được tự tại, đây tức là thiết yếu vậy. Quên tâm là quên tâm sanh diệt, tâm thương, tâm ghét. Nếu c̣n tâm ấy th́ thấy thân nhân tới đón mừng nên đi theo, tâm sợ th́ thấy quỉ sứ dọa nạt, chúng chỉ đâu liền hoảng sợ chạy theo đường đó. Thấy đồng pháp giới tức trùm khắp, bất sanh bất diệt liền được tự tại. Đây là thiết yếu, tức điểm then chốt của sự tu hành. Đó là những điều người tu phải biết, mới không sợ khi nhắm mắt bị rơi vào đường tà. Như vậy cả hai thứ, vui theo tướng lành th́ sanh cơi lành, sợ tướng dữ chạy trốn th́ bị sanh chỗ dữ, đều đi trong con đường sanh tử. Chỉ nhớ tâm thênh thang không h́nh không tướng, không sanh không diệt, không sợ hăi, luôn tỉnh táo sáng suốt th́ giải thoát an vui.

 

CHÁNH VĂN:

 

Nói Hoá thành đó, Nhị thừa và Thập địa, Đẳng giác, Diệu giác, đều là giáo quyền lập để tiếp dẫn, thảy là Hoá thành.

 

GIẢNG:

 

Đây dẫn kinh Pháp Hoa, nói Hoá thành là chỉ cho Nhị thừa, Thập địa, Đẳng giác, Diệu giác, đi từng bậc từng bậc đều là giáo quyền lập. Giáo quyền lập là giáo lư tạm lập để tiếp dẫn người, có thứ bậc cho dễ đi, dễ tiến vậy thôi. Như Bộ Giáo Dục muốn thúc đẩy học sinh học cho giỏi nên mỗi năm tổ chức thi lên cấp. Từ cấp Tiểu học lên Trung học, Đại học rồi Tiến sĩ ǵ ǵ đó, ấy là thật lập hay quyền lập? Quyền lập như thế để đo sự hiểu biết của chúng ta qua những năm học, lập ra thứ bậc để thúc đẩy nhắc nhở sự tiến bộ trong học vấn, mục đích v́ muốn chúng ta biết sâu hiểu rộng, làm lợi ích cho mọi người. Đó là mục đích phương tiện lập có thứ bậc.

Cũng vậy đạo Phật muốn dạy chúng sanh tu hành để được giác ngộ thành Phật. Giác ngộ thành Phật là thế nào? Là trở lại sống thực với tâm bất sanh bất diệt hằng tri hằng giác của ḿnh, gọi là chân tâm hay Phật tánh. Sống được với chân tâm là bước vào cảnh giới chư Phật. Nhưng nói sống với chân tâm Phật tánh, người ta nghe cao xa quá, nên Phật dạy tu hạnh này được quả bậc Thanh văn, tu hạnh này được quả bậc Duyên giác, rồi giác được phần nào là Bồ-tát Sơ địa, Bồ-tát Nhị địa v.v… tới cuối cùng cũng trở lại chân tâm Phật tánh. Như vậy giáo lư đó là phương tiện quyền lập, c̣n chỗ chân thật không hai. Hiểu như vậy chúng ta mới thấy trong kinh Pháp Hoa nói Hoá thành là phương tiện quyền lập, nói Bảo sở là chỉ chân tâm Phật tánh. Chỗ đó không đối đăi nên nói không Phật, không chúng sanh, không c̣n t́nh lượng, không c̣n kiến lập. Nói Bảo sở là chỗ quí báu, tức chỉ thẳng chân tâm Phật tánh.

 

CHÁNH VĂN:

 

Nói Bảo sở đó là bảo chân tâm, bản Phật, tự tánh, cái bảo này không thuộc về t́nh lượng, không thể kiến lập, không Phật, không chúng sanh, không năng không sở, chỗ nào có thành? Nếu hỏi: đây đă là Hoá thành, chỗ nào là Bảo sở? Bảo sở không thể chỉ, chỉ tức có chỗ nơi, không phải là chân Bảo sở. Cho nên nói “ở gần” mà thôi. Không thể định lượng nơi đó, chỉ chính đây khế hội là phải.

 

GIẢNG:

 

Hỏi Bảo sở chỗ nào Phật nói “ở gần”, các Thiền sư nói ở dưới gót chân ông. Chữ Hoá thành trong kinh Pháp Hoa là chỉ cho tu hành có thứ bậc từ thấp lên cao, c̣n Bảo sở là chỉ thẳng cho chúng ta biết cái thật nằm ngay nơi mỗi người, không ở đâu xa. Chúng ta tu là để trở về cái thật của ḿnh, đây là con đường gần nhất. Nếu đi thứ bậc th́ hơi xa, hơi quanh co. Bởi vậy chỗ thật này chỉ khéo khế hội là được.

 

CHÁNH VĂN:

 

Nói xiển đề đó, ḷng tin không đủ vậy. Tất cả chúng sanh trong sáu đạo cho đến Nhị thừa không tin có Phật quả, đều gọi là đoạn thiện căn xiển đề. Bồ-tát đó, tin sâu có Phật pháp không thấy có đại thừa, tiểu thừa. Phật cùng chúng sanh đồng một pháp tánh gọi là thiện căn xiển đề.

 

GIẢNG:

 

Chữ “xiển đề” là tiếng Phạn, nghĩa là người không đủ ḷng tin. Không đủ ḷng tin thế nào? Như những chúng sanh đi trong lục đạo luân hồi không đủ ḷng tin ḿnh có tánh Phật, cho tới hàng Nhị thừa không tin có Phật quả. Các ngài tu chứng Diệt tận định là nhập Niết-bàn, không nói lên Phật quả, cho nên những hạng này gọi là đoạn thiện căn xiển đề, tức do không tin làm mất căn lành.  C̣n Bồ-tát tin sâu Phật pháp, không thấy có Tiểu thừa, Đại thừa riêng, thấy tất cả chúng sanh đồng có tánh Phật, đồng một pháp tánh gọi đó là thiện căn xiển đề, nghĩa là không tin mà không tin do có căn lành.

 

CHÁNH VĂN:

 

Đại để, nhân nghe giáo mà ngộ gọi là Thanh văn, quán nhân duyên mà ngộ gọi là Duyên giác. Nếu không hướng trong tâm ḿnh mà ngộ, tuy đến thành Phật cũng gọi là Phật Thanh văn. Người học đạo phần nhiều đối trên giáo pháp mà ngộ, không ở trên tâm pháp mà ngộ, tuy trải nhiều kiếp tu hành trọn không phải là bổn Phật. Nếu không nơi tâm mà ngộ, chỉ đối trên giáo pháp mà ngộ tức là khinh tâm trọng giáo, bèn thành theo khối (theo h́nh tướng) mà quên bản tâm. Cho nên chỉ khế hội bản tâm, chẳng cần cầu pháp, tâm tức là pháp vậy.

 

GIẢNG:

 

Chúng ta tu có hai cách. Một là y nơi pháp của Phật dạy, nghe quán chiếu rồi tu, gọi đó là Thanh văn. Thấy các pháp duyên sanh quán chiếu mà tu, gọi đó là Duyên giác. Nhưng nếu chỉ nương theo pháp của Phật dạy tu mà không nhận ra tâm ḿnh, gọi đó là quên tâm cầu Phật, hay quên tâm pháp mà chạy theo giáo pháp. Tu như vậy không thấy được ông Phật gốc của ḿnh. Nếu không nơi tâm ngộ, chỉ đối trên giáo pháp ngộ tức là “khinh tâm trọng giáo”. Người khinh tâm trọng giáo là chạy theo h́nh tướng, quên mất bản tâm.

Cho nên chỉ khế hội bản tâm, chẳng cần cầu pháp, tâm tức là pháp vậy. Ai nhận được bản tâm, người đó trở lại gốc ngay nơi ḿnh, không chạy ra ngoài. Đa số chúng ta ngày nay tu theo pháp, ít nhận tâm, v́ vậy có lỗi khinh tâm trọng pháp. Mà pháp của Phật nói cốt chỉ cái ǵ? Chỉ tâm. Bây giờ ḿnh trọng pháp quên tâm tức là chạy theo ngọn mà quên gốc.

Bao nhiêu kinh điển đức Phật dạy đều chỉ cho chúng ta nhận ra bản tâm là tánh giác hằng hữu của ḿnh, từ đó tu mới thành Phật. Chúng ta không chịu nhận, chỉ chạy theo kinh điển học hết bộ này tới bộ nọ, khen bộ này hay bộ kia đặc biệt v.v… mà không biết tất cả bộ đều chỉ tâm của ḿnh. Không nhận tâm lại đi nhận pháp, như vậy là khinh tâm trọng pháp. Trong kinh Phật dụ pháp như ngón tay chỉ mặt trăng. Mặt trăng là ǵ? Là chân tâm. V́ muốn chúng sanh nhận ra chân tâm nên Phật dạy giáo pháp, chúng sanh nương pháp để nhận. Bây giờ ḿnh lại kẹt pháp không nhận ra tâm giống như người chỉ mặt trăng hướng tây, chúng ta không chịu ngó hướng tây để thấy mặt trăng, lại nhận đầu ngón tay, hài ḷng với đầu ngón tay, cho đó là mặt trăng.

Người tu ngày nay giống hệt như vậy, thích tụng kinh, tụng bộ này qua bộ kia, như vậy là tu rồi đó. Phật dạy chúng ta tu để trở về tâm, không chịu trở về tâm cứ lấy kinh đọc hoài, không khác người muốn thấy mặt trăng mà chỉ quí ngón tay, không nh́n đúng mặt trăng. Tu như vậy chừng nào thành Phật? Nói thẳng mếch ḷng, mà không nói th́ tội nghiệp. Gốc ở chỗ đó mà không chịu nh́n, chỉ bám ngọn ngành, phương tiện làm sao tu hành đến nơi đến chốn được. 

Phật dạy cho ḿnh nhận ra bản tâm để không c̣n chấp thân này là thật ngă, tâm chạy theo bóng dáng sáu trần là thật tâm. Nhờ không chấp thân, chấp tâm mới trở về với thể thật sẵn có. Bây giờ cứ đọc hoài, nhưng hỏi kinh dạy ǵ th́ không biết. Chỉ biết tụng kinh có phước vậy thôi, chớ không biết ḿnh là cùng tử đă bỏ cha đi, bây giờ c̣n lang thang chưa nhận được cha già. Ông cha là chỉ tánh giác hằng hữu của ḿnh. Quên tánh giác chạy theo sáu trần là cùng tử nên khổ sở nghèo nàn. Khi hối hận trở về t́m cha, về tới nhà rồi cũng không dám nhận cha nữa. Cũng thế, chúng ta tu pháp ǵ nhỏ nhỏ lần lên, chớ không dám đi thẳng. Đó là diễn đạt người mê quên ḿnh theo cảnh vật. Nếu trở về th́ chính cha đang sẵn chờ, nhưng gă cùng tử lại không dám nhận. Như chúng ta có Phật tánh sẵn mà lại than mất Phật. Có cái chân thật không chịu nhớ, rồi than sao sống khổ quá, chịu không nổi. Nhiều khi tâm suy nghĩ lanh lợi quá, hết nghĩ cái này tới nghĩ cái kia, tới giờ ngủ cũng cứ nghĩ hoài, ngủ không được than khổ quá. Tại sao khổ như vậy? Tại v́ chạy theo nó quen rồi, bây giờ muốn dừng nghĩ không được, ngồi thiền bữa nào cũng nghĩ bậy nghĩ bạ. Tại sao nghĩ? V́ chứa chấp, nếu buông hết th́ ngồi lại chỉ c̣n một tâm thanh tịnh sáng suốt, khoẻ biết chừng nào. Sửa soạn ngủ th́ buông hết mọi việc, ngủ cho an ổn. Tất cả nỗi khổ là v́ chúng ta đuổi theo vọng tưởng sanh diệt, bám vào bóng dáng sáu trần. Bây giờ buông hết trở về bản tâm tức là Niết-bàn bất sanh bất diệt, không t́m chỗ nào hết.

 

CHÁNH VĂN:

 

Phàm nhân phần nhiều bị cảnh ngại tâm, sự ngại lư, thường muốn trốn cảnh để an tâm , đuổi sự để c̣n lư, không biết chính là tâm ngại cảnh, lư ngại sự. Chỉ khiến tâm không, cảnh tự không, chỉ khiến lư lặng, sự tự lặng, chớ dụng tâm lộn ngược. Phàm nhân phần nhiều không chịu không tâm, sợ rơi vào không, chẳng biết tâm ḿnh vốn không.

 

GIẢNG:

 

Chỗ này có một số người đang mắc kẹt, cứ cho rằng cảnh ngại tâm. Ở chùa đông người, kẻ hơn người thua kẻ phải người quấy, phiền nhiễu quá nên kiếm hang hốc chui vô tu một ḿnh cho yên. V́ quí vị ấy nghĩ cảnh ngại tâm, nên t́m chỗ không có cảnh, tu sẽ hết ngại. Nào ngờ vô trong hang hốc lại có chướng ngại của hang hốc. Bây giờ hết gạo làm sao đây? Xách dù xuống núi, xin một ít gạo về, xin một lần đủ chưa? Chưa, lại xin nữa. Có gạo th́ phải có nồi, có củi… đủ thứ hết. Chừng đó gặp cảnh không? Trên núi thiếu nước, không lẽ ḿnh xách từ hũ từ hũ uống, thôi mua cái lu lớn chứa khá một chút. Lu lớn th́ nhiều người khiêng, rủ bà con phụ đưa lên, từ đó lần lần họ tới thăm nom. Nhờ Phật tử tới có tiền mua gạo, thôi cũng tiếp. Bỏ cảnh chùa nhiều người, lên núi ở một ḿnh, té ra càng nhiều hơn. Ở chùa chia ra mười người, ḿnh mất th́ giờ chỉ một. C̣n vô núi ḿnh lănh trọn cả mười, chừng đó phiền hơn nữa. Từ chấp cảnh tịnh biến thành trở ngại, ban đầu thấy dường như hay sau thành quá dở. Đó là chỗ lầm lẫn lớn.

Đến phần sự và lư. Nhiều người tu sợ sự ngại lư nên đuổi sự giữ lư. Vậy lư là ǵ, sự là ǵ? Thế gian thường thường ai nói chuyện nhiều, ḿnh bảo người đó lư sự quá. Ví dụ tôi nói đồng hồ này đẹp xấu, vuông tṛn… đó là nói về sự, về h́nh tướng. C̣n lư của đồng hồ là ǵ? Có hai trường hợp, lư thường và lư đạo. Lư thường là đồng hồ không quí ở h́nh vuông hay tṛn, mà quí ở chỗ nó chạy đúng giờ, nhờ đồng hồ chúng ta biết giờ. Lư đạo là đồng hồ giả tướng, do nhân duyên hợp tạm có, lư thật của nó là không. Cho nên Không chính là lư đạo.

Muốn t́m lư không, từ đâu mà t́m? Ngay nơi tướng đồng hồ thấy được lư không của nó, như vậy tướng đồng hồ có ngại ǵ lư đồng hồ? Tướng cái nhà có ngại ǵ lư cái nhà, tướng người ngại ǵ lư người. Ngay nơi sự ḿnh thấu lư th́ ở đâu cũng không ngại. C̣n bỏ sự để t́m lư làm sao t́m được, như lư nhân duyên mà bỏ sự tướng làm sao biết nhân duyên. Phải ngay nơi sự nhận ra lư, đó là người khéo tu, c̣n sợ chạy trốn là không khéo. Người tu thường có hai bệnh, thứ nhất là sợ cảnh làm nhiễu loạn tâm, thứ hai sợ sự làm chướng ngại lư, nên bỏ sự t́m lư. Như vậy đều không thực tế, đều lầm cả.

Chỉ khiến tâm không, cảnh tự không, chỉ khiến lư lặng, sự tự lặng, chớ dụng tâm lộn ngược. Chỉ cần tâm không chạy theo cảnh th́ ở đâu cũng là cảnh tốt, không có ǵ chướng ngại, chớ chẳng phải trốn vô hang sâu mới tốt. Thời này người thích làm Phật sự th́ ở thành thị, người muốn tu rục ưa chui vô hang ở một ḿnh. Cả hai đều là bệnh. Chúng ta biết tu là tạo duyên cho ḿnh nghiền ngẫm, thấu triệt lư đạo, thấu triệt lẽ chân thật của Phật dạy, đó là gốc. Tâm không dính với cảnh th́ cảnh làm ǵ ngại tâm. Nếu tâm như như th́ lư sự đâu chướng ngại nhau. Người bỏ cái này cầu cái kia là dụng tâm lộn ngược.

Phàm nhân phần nhiều không chịu không tâm, sợ rơi vào không chẳng biết tâm ḿnh vốn không. Đây là bệnh của người tu. Nhiều người ngồi thiền tới lúc tâm bặt hết lăng xăng, đâm hoảng không biết tâm ḿnh đâu mất rồi. Tâm chân thật vốn không có lăng xăng, khi lăng xăng lặng th́ tâm thật hiện tiền. Chúng ta thấy lăng xăng lặng, sao lại nói không tâm? Ngồi yên thấy rơ tâm lăng xăng đang bặt, tai vẫn nghe, mắt vẫn thấy, tại sao nói không tâm? Người hoảng lên nói mất tâm rồi, là v́ không biết được lẽ thật. Cho nên nói chẳng biết tâm ḿnh vốn không.

 

CHÁNH VĂN:

 

Người ngu trừ sự không trừ tâm, người trí trừ tâm không trừ sự.

 

GIẢNG:

 

Người ngu trừ sự không trừ tâm, người trí trừ tâm không trừ sự. Nhiều người nói nghe thấy thương, như bảo tôi tu rồi không đồng hồ, không cần giường tốt, không cần đồ mới, thành ra ai cho đồ mới th́ bỏ không mặc. Đó là chấp h́nh tướng, là trừ sự không trừ tâm. Đây thuộc người ngu không phải người trí. Người trí trừ tâm không trừ sự. Đừng để tâm ḿnh nhiễm tốt xấu, không mong mỏi quí tiện, cái ǵ cũng được hết. Ai cho th́ nhận, cần xài cứ xài, không nói quí tiện, đó là trừ tâm không trừ sự. Đây mới gọi là người trí.

Người biết tu rồi th́ tùy duyên, cái ǵ đến th́ nhận, tâm không mong cầu, không sợ không chê. Ai cho cái xấu không chê, cho cái tốt cũng không sợ, tâm an nhiên b́nh thường, như vậy mới đúng. C̣n sợ cái này cầu cái kia là mắc kẹt, v́ vậy Tổ quở người ngu trừ sự không trừ tâm. Người trí mặc áo tốt tâm không hănh diện, không khoe với thiên hạ, nên không có lỗi. Nếu mặc áo rách để người ta thấy ḿnh tu khổ hạnh, tu giỏi, đó là lỗi.

Ở đời người ta thường nh́n tướng mà không hiểu tâm. Người tu phải hiểu tâm ḿnh, sự tướng bên ngoài không quan trọng. Đừng để tâm đ̣i hỏi cái tốt, cũng không có tâm sợ sệt cái tốt. Đừng để tâm khoe cái xấu, cũng đừng có tâm sợ cái xấu. được lành mặc lành, được rách mặc rách, không để ư ǵ hết. Vô tâm như vậy sống thế nào cũng không tội. Nếu hữu tâm dụng ư th́ có tội.

 

CHÁNH VĂN:

 

Bồ-tát tâm như hư không, tất cả đều xả, làm việc phước đức đều không tham trước.

 

GIẢNG:

 

Tâm Bồ-tát như hư không rỗng rang v́ tất cả đều xả, hơn thua phải quấy khen chê… xả hết. Làm việc phước đức đều không khoe, không chấp, đó là không tham trước.

 

CHÁNH VĂN:

 

Nhưng xả có ba bậc: trong ngoài thân tâm tất cả đều xả, ví như hư không, không có chỗ thủ trước, nhiên hậu tùy phương tiện làm lợi ích chúng sanh, năng sở đều quên, ấy là đại xả.

 

GIẢNG:

 

Xả có ba bậc: đại xả, trung xả và tiểu xả. Người làm tất cả việc tốt mà tâm như hư không, không chấp trước, năng sở đều quên đó là đại xả. Trong kinh thường gọi bố thí tam luân không tịch, người thí, vật thí, kẻ thọ thí đều không chấp, được vậy gọi là đại xả.

 

CHÁNH VĂN:

 

Nếu một bên hành đạo bủa đức, một bên lại xả không có tâm mong cầu, ấy là trung xả.

 

GIẢNG:

 

Trường hợp này là một bên hành đạo bủa đức, tức làm lợi ích cho mọi người, một bên xả hết, không có tâm mong cầu. Đó là trung xả.

 

CHÁNH VĂN:

 

Nếu rộng tu các việc thiện có chỗ mong cầu, nghe pháp biết không, nên mới không trước, ấy là tiểu xả.

 

GIẢNG:

 

Người rộng tu các việc thiện, mong được phước đời sau, đó là mong cầu. Nhưng nghe pháp biết không nên như thế, mới không tham trước. Nghe pháp biết tất cả pháp tánh là không, không chấp trước. Nghĩa là ban đầu có mong cầu, sau tỉnh mới bỏ, đó là tiểu xả.

Đối với chúng ta, trong ba thứ tiểu xả c̣n khó huống là đại xả. Nên người học đạo tu hành phải biết thật kỹ, trên đường tu chúng ta đến đâu, làm ǵ cho hợp đạo lư. Đừng để tu mà đi trên đường không đúng chánh pháp.

 

CHÁNH VĂN:

 

Đại xả như cây đuốc sáng để ở trước, lại không có mê ngộ. Trung xả như cây đuốc sáng để một bên, hoặc sáng hoặc tối. Tiểu xả như cây đuốc sáng để phía sau, không thấy hầm hố. Cho nên, Bồ-tát tâm như hư không tất cả đều xả; quá khứ tâm không thể được là quá khứ xả, hiện tại tâm không thể được là hiện tại xả, vị lai tâm không thể được là vị lai xả. Nên nói “ba thời đều xả”.

 

GIẢNG:

 

Cây đuốc sáng để ở trước nên không có phía nào tối, đó là Đại xả. Cây đuốc để một bên th́ sáng được bên này, bên kia tối, đó là Trung xả. Cây đuốc để đàng sau, ḿnh đi tới không thấy đường có thể trật chân. V́ c̣n đắm trước danh văn lợi dưỡng, tuy sau thức tỉnh, nhưng cũng muộn. Nên nói cây đuốc đốt để phía sau, có thể sụp hầm hố, đó là Tiểu xả. 

Cho nên, Bồ-tát tâm như hư không tất cả đều xả; quá khứ tâm không thể được là quá khứ xả, hiện tại tâm không thể được là hiện tại xả, vị lai tâm không thể được là vị lai xả. Nên nói “ba thời đều xả”. Quá khứ, hiện tại, vị lai tâm không thể được th́ c̣n chấp ǵ nữa, rỗng rang sáng suốt nên “ba thời đều xả”. Được vậy là đại xả.

 

CHÁNH VĂN:

 

Từ đức Như Lai trao pháp cho Tổ Ca-diếp đến nay, lấy tâm ấn tâm, tâm tâm không khác. Ấn (con dấu) in trong hư không th́ in không thành dấu. Ấn in nơi vật tức ấn không thành pháp. Cho nên lấy tâm ấn tâm, tâm tâm không khác. Năng ấn và sở ấn đều khó khế hội nên người được ít. Song, tâm tức vô tâm, được tức không được.

 

GIẢNG:

 

Chỗ này nói thẳng về các Tổ Thiền tông. Từ đức Phật trao pháp cho Tổ Ca-diếp là lấy tâm ấn tâm. Ấn như con dấu, nếu con dấu ấn trong hư không th́ không thành dấu. Ấn tâm là sao? Tâm của người đệ tử thế nào, vị thầy thấy đúng như thế, đó là thừa nhận, là ấn tâm. Như vậy cái ấn ấy không phải in vào cây cối, mà in hẳn trong tâm. Ví dụ trong sinh hoạt, chúng ta hay nói “tôi đang suy tính việc này mà chưa ra, giờ muốn bàn với huynh đệ giúp đỡ”. Khi đó có người đưa ra cách giải quyết đúng ư ḿnh, chúng ta vui vẻ nói “đúng ư tôi rồi”, đó cũng là ấn tâm, nhưng ấn tâm sanh diệt, không phải ấn tâm chân thật.

Tổ Huệ Khả sau khi được Tổ Bồ-đề-đạt-ma dạy biết lối vào, Ngài tự tu cho tới một hôm tŕnh với Tổ Đạt-ma: “Bạch Ḥa thượng, con dứt hết các duyên.” Tổ Đạt-ma sợ Ngài lầm chỗ không tâm nên nói “coi chừng rơi vào không”. Ngài liền nói “rơ ràng thường biết làm sao không được”. Tổ bảo “chỗ đó chư Phật như thế, Ta như thế, ông cũng như thế”, đó là ấn tâm. Ấn chứng như vậy là dùng tâm ấn tâm, ấn mà không có năng ấn, sở ấn. Ngài nói: Cho nên lấy tâm ấn tâm, tâm tâm không khác. Tâm thầy và tâm tṛ không khác nhau.

Năng ấn và sở ấn đều khó khế hội nên người được ít. V́ năng ấn và sở ấn cũng không có, không thể được, chỉ hai bên in hệt nhau vậy thôi. Không phải thầy là năng ấn tṛ là sở ấn, v́ nếu có năng cũng như có dấu ấn, có sở như có tờ giấy trắng để in xuống, chỗ này không năng sở ǵ hết. Đệ tử tŕnh bày đúng như cái thấy của thầy. Thừa nhận như vậy là truyền tâm pháp ấn.

 

CHÁNH VĂN:

 

Phật có ba thân: pháp thân nói pháp tự tánh rỗng suốt, báo thân nói pháp tất cả thanh tịnh, hóa thân nói pháp lục độ vạn hạnh. Pháp thân nói pháp không thể dùng ngôn ngữ âm thanh h́nh tướng văn tự mà cầu, không có nói, không có chứng, tự tánh rỗng suốt mà thôi. Cho nên nói: “không pháp có thể nói, ấy gọi là nói pháp”.

 

GIẢNG:

 

Kinh Kim Cang nói “không pháp có thể nói, ấy gọi là nói pháp” là chỉ cho pháp thân.

 

CHÁNH VĂN:

 

Báo thân, hóa thân đều tùy cơ cảm mà hiện, có nói pháp cũng tùy sự hợp cơ để v́ nhiếp hóa đều không phải là chân pháp.

 

GIẢNG:

 

Báo thân, hóa thân là phương tiện tùy cơ, không phải là chân pháp.

 

CHÁNH VĂN:

 

Cho nên nói: “Báo, Hoá không phải chân Phật, cũng không phải nói pháp.”  

 

GIẢNG:

 

Như vậy báo thân, hóa thân nói pháp không phải là chân Phật, v́ không thể nói thẳng được pháp thân.

 

CHÁNH VĂN:

 

Nói “đồng là một tinh minh phân làm sáu ḥa hợp”. Một tinh minh là một tâm. Sáu ḥa hợp là sáu căn. Sáu căn này mỗi cái cùng trần hợp. Mắt cùng sắc hợp, tai cùng tiếng hợp, mũi cùng mùi hợp, lưỡi cùng vị hợp, thân cùng xúc hợp, ư cùng pháp hợp. Khoảng giữa sanh sáu thức là mười tám giới. Nếu rơ mười tám giới không thật có, trói sáu ḥa hợp làm một tinh minh. Một tinh minh là tâm vậy. Người học đạo đều biết cái này. Chỉ không thể khỏi cái hiểu “một tinh minh và sáu ḥa hợp”, bèn bị pháp trói không thể khế hội bản tâm. Như Lai ra đời muốn nói nhất thừa chân pháp, ắt chúng sanh không tin sanh ra hủy báng ch́m trong biển khổ, nếu hoàn toàn không nói th́ mắc lỗi san tham, chẳng v́ chúng sanh chỉ dạy diệu đạo. Ngài bèn lập phương tiện nói có ba thừa, thừa có đại tiểu, được có cạn sâu đều không phải là bản pháp. Cho nên nói “chỉ có đạo nhất thừa, có hai chẳng phải chân”. Nhưng, vẫn chưa có thể hiển bày một tâm pháp, cho nên triệu Ca-diếp đồng trong pháp ṭa riêng trao một tâm pháp rời nói năng, một nhánh pháp này khiến riêng thực hành. Nếu người hay khế ngộ liền đến Phật địa.     

 

GIẢNG:

 

Nói một tinh minh sanh sáu ḥa hợp, đó là dẫn trong kinh Lăng Nghiêm. Phật dạy, chúng ta có tâm trong sáng, hiện ra ở mắt gọi là cái thấy ở mắt, hiện ra ở tai gọi là cái thấy ở tai v.v… Cái chân thật đều hiển lộ qua các căn. Cho nên ở đây bảo trói sáu căn trở về với một tinh minh, tức gom sáu căn về một tinh minh. Chỗ này nếu nói một tinh minh sanh sáu ḥa hợp th́ bị pháp trói không thể khế hội bản tâm. V́ vậy chúng ta phải trói sáu ḥa hợp thành một tinh minh. Chỗ này hết sức quan trọng, trên ngôn ngữ nghe thường nhưng trên sự tu lại tối quan trọng, trói lục ḥa hợp thành nhất tinh minh. Đó là ḿnh trói pháp, không để pháp trói ḿnh.

Làm sao trói sáu ḥa hợp thành một tinh minh? Khi mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm v.v… mỗi cái đều theo trần cảnh, vừa thấy liền khởi thức phân biệt, thành ra sáu căn, sáu trần, sáu thức hợp lại. Bây giờ trói sáu căn trở về một tinh minh là thấy nghe… sáu cái đều hoạt động, nhưng không cho dính cái ǵ hết. Chỉ sống với một tinh minh là thấy nghe đủ cả mà liễu liễu thường tri. Không để thức phân biệt cái này dính cái kia, như vậy là trói lại. Nếu trói sáu căn trở về một tinh minh là đến chỗ chân thật. Tinh minh th́ đâu phải vô tri giác. Tổ Huệ Khả nói “tâm con dứt hết các duyên”, là không dính các pháp bên ngoài tức Ngài trói sáu căn, không cho dính với sáu trần. Từ trói sáu căn không dính với sáu trần bị Tổ Đạt-ma nói “coi chừng rơi vào không”, Ngài thưa “ con rơ ràng thường biết, làm sao không được” tức là nhận một tinh minh rơ ràng thường biết, chớ đâu phải không.

Chúng ta ngày nay thích trói sáu căn hay thích thả sáu căn. Như ở đây nghe đàng kia có hoa thơm th́ chịu ngồi đây hay đi t́m hoa. Hoặc đang ngồi đây mà nghe đàng kia có tiếng nhạc hay, lúc đó ngồi yên hay chạy lại coi nhạc ǵ vậy. Rơ ràng chúng ta thả sáu căn để cho sáu trần xỏ mũi dẫn đi. Nếu ngồi đây nghe mùi hoa thơm, nghe tiếng nhạc hay vẫn rơ ràng thường biết, không thèm dính không thèm chạy, đó là trói sáu căn trở về nhất tinh minh, hay trói sáu ḥa hợp trở về nhất tinh minh. Nó hay chạy theo, bây giờ cột lại không cho chạy, đó là trói. Chúng ta tu là trói lục ḥa hợp để trở về nhất tinh minh. Một tinh minh tức là một tâm. Nếu chúng ta nói một tinh minh sanh ra lục ḥa hợp, đó là chạy theo pháp, bị pháp trói rồi.

Tất cả kinh điển đều là do chư Phật lập phương tiện nói có ba thừa. Thừa lại có đại thừa tiểu thừa, được có cạn sâu đều là chẳng phải là bản pháp. Bản pháp là trói lục ḥa hợp trở về nhất tinh minh.

Cho nên dẫn kinh Pháp Hoa nói “chỉ có đạo nhất thừa, có hai chẳng phải chân”. Chân là chỉ có cái chân thật, c̣n thấy hai là đối đăi không phải chân. Trong bài “Tín Tâm Minh” Tổ Tăng Xán kết thúc “tín tâm bất nhị, bất nhị tín tâm”, nếu tin tâm th́ không hai, có hai là chưa tin tâm. Ở đây nói c̣n hai th́ không phải chân. Chúng ta thấy kinh Phật với lời Tổ không khác, khít khao, rơ ràng nhưng v́ chúng ta không hiểu nên chấp câu chấp lời, cho rằng Tổ dạy khác, Phật dạy khác, thật sự không phải như vậy.

 

CHÁNH VĂN:

 

Hỏi: Thế nào là đạo? Tu hành thế nào?

Đáp: Đạo là vật ǵ mà ông muốn tu hành?

Hỏi: Các nơi tông sư truyền nhau tham thiền học đạo là thế nào?

Đáp: Lời tiếp dẫn kẻ độn căn, chưa có thể y cứ.

Hỏi: Đây là lời tiếp dẫn kẻ độn căn, chưa biết tiếp dẫn người thượng căn lại nói pháp ǵ?

Đáp: Nếu là người thượng căn, tại sao lại đến người khác mà t́m, tự ḿnh c̣n không thể được huống là riêng có pháp xứng t́nh. Không thấy trong kinh nói: “pháp pháp h́nh trạng ǵ”?

 

GIẢNG:

 

Câu hỏi thứ nhất: Thế nào là đạo? Tu hành thế nào? Thông thường ai cũng hay hỏi câu này. Đáp: Đạo là vật ǵ mà ông muốn tu hành? Ở đây cần phải hiểu chữ đạo cho thật tường tận. Nhiều người cho rằng đạo là phương pháp là con đường. Nhưng sự thực, chữ đạo trong nhà Thiền là chỉ cho tâm chân thật của chính ḿnh. Thấy được, nhận được tâm chân thật gọi là thấy đạo hay đạt đạo. Tâm chân thật vốn của ḿnh, đâu phải vật ǵ bên ngoài mà muốn tu hành. Tu là tu những thứ tạm bợ, giả dối. Nên Tổ trả lời “Đạo là vật ǵ mà ông muốn tu hành”. Như vậy chữ đạo ở đây chỉ cho tâm thể chân thật của chúng ta, nó sẵn có, chỉ đừng bị vọng duyên, ngoại cảnh lôi cuốn th́ đạo hiện tiền. Tu hành chẳng qua dẹp duyên là đủ.

Hỏi: Các nơi tông sư truyền nhau tham thiền học đạo là thế nào? Đáp: Lời tiếp dẫn kẻ độn căn, chưa có thể y cứ. Lâu nay chúng ta nói học đạo, nói thiền là nói với người nào? Nói với người độn căn. Độn căn là người không sáng. V́ vậy chúng ta đừng lấy đó làm chỗ y cứ.

Hỏi: Đây là lời tiếp dẫn kẻ độn căn, chưa biết tiếp dẫn người thượng căn lại nói pháp ǵ?” Những câu nói tham thiền học đạo là tiếp dẫn kẻ độn căn, người thượng căn phải dạy làm sao?

Đáp: Nếu là người thượng căn, tại sao lại đến người khác mà t́m, tự ḿnh c̣n không thể được huống là riêng có pháp xứng t́nh. Nếu người thượng căn th́ không cần đến người khác t́m. Tại sao? Bởi v́ thượng căn th́ nhận ngay nơi tánh ḿnh, tâm ḿnh là chỗ y cứ, là chỗ chân thật. Đă có chỗ y cứ c̣n đi t́m đâu nữa. Chính ḿnh nhận ra c̣n không có sở đắc, huống nữa có pháp để ḿnh được. Đối với người thượng căn, thượng trí tu là trở lại với tâm tánh sẵn có của ḿnh, đă là sẵn có th́ c̣n t́m đâu nữa. Không t́m th́ không có được. Sở dĩ nói được là do t́m, t́m cái bên ngoài chớ không phải cái của ḿnh, v́ vậy nói tự ḿnh c̣n không có thể được huống là riêng có pháp xứng t́nh. Xứng t́nh là hợp với mong muốn của ḿnh. Không thấy trong kinh nói: “pháp pháp h́nh trạng ǵ”? Tổ dẫn kinh để xác chứng ư này.

 

CHÁNH VĂN:

 

Hỏi: Nếu như vậy hoàn toàn không cần t́m kiếm?

Đáp: Nếu cùng mài th́ sức tâm tỉnh giác.

Hỏi: Như thế th́ lẫn thành đoạn tuyệt, không thể là không?

Đáp: Ai dạy kia không? Kia là cái ǵ ông nghĩ t́m kia?

Hỏi: Đă không cho t́m, cớ sao lại nói: “chớ đoạn kia”?

Đáp: Nếu không t́m liền thôi, ai dạy ông đoạn? Ông thấy hư không ở trước mắt, làm thế nào để đoạn nó?

 

GIẢNG:

 

Hỏi: Nếu như vậy hoàn toàn không cần t́m kiếm? Đáp: Nếu cùng mài th́ sức tâm tỉnh giác. Từ này nghe thật khó hiểu. Nếu cùng mài th́ sức tâm tỉnh giác nghĩa là sao? Chỗ đó không phải t́m kiếm bên ngoài, nhưng biết mài biết giũa th́ tâm tỉnh giác càng sáng. Vậy cái ǵ mài, cái ǵ giũa? Thật ra chúng ta không có ǵ để dụng công, nhưng trên thực tế vẫn hằng dụng công. Nghe như mâu thuẫn. Tại sao? Bởi v́ nếu có dụng công, tất nhiên người dụng công và cái bị dụng công khác. C̣n ở đây ḿnh tự tỉnh, tự giác. Tất cả vọng tưởng phiền năo dấy khởi, ḿnh buông đi không theo, lúc đó dường như thấy có buông bỏ phiền năo, mà thật ra phiền năo không thật, cái thấy phiền năo cũng không thật. Như vậy cả hai đều không thật. Do chúng ta tự tỉnh thấy nó không thật nên buông bỏ, chớ không phải thấy thật rồi cố mài giũa cho nó sạch.

Trong giai đoạn tu phải dụng công như thế, không thể nói tâm ḿnh sẵn thanh tịnh là ta sống thanh tịnh được. Rơ ràng bây giờ nó không chịu thanh tịnh, luôn nghĩ bậy nghĩ bạ đây. Nếu chúng ta để y nguyên như thế, th́ nó nghĩ hoài làm sao dẹp được, nên phương tiện dùng sức tỉnh giác mài giũa nó. Khi nó lặng th́ cái tỉnh giác cũng lặng theo. V́ vậy nói “nếu cùng mài th́ sức tâm tỉnh giác”.     

Hỏi: Như thế th́ lẫn thành đoạn tuyệt, không thể là không? Câu hỏi này rất có ư. Chúng ta mài giũa tới khi cả hai ṃn hết, th́ thành đoạn tuyệt, chẳng lẽ tu tới không ngơ?

Đáp: Ai dạy kia không? Kia là cái ǵ ông nghĩ t́m kia?

Ai dạy kia không, nghĩa là dạy tới chỗ cuối cùng là không. Kia là cái ǵ ông nghĩ t́m kia? Đó là cái thật của chính ḿnh, chúng ta không thấy, không nhận là do vọng tưởng điên đảo mờ ám che đậy, buộc ḷng phải mài giũa. Mài giũa nó tiêu ṃn dần, cái thật hiện ra, đâu nói là không được.

Hỏi: Đă không cho t́m, cớ sao lại nói “chớ đoạn kia”? Đáp: Nếu không t́m liền thôi, ai dạy ông đoạn? Ông thấy hư không ở trước mắt, làm thế nào để đoạn nó?

Ở đây hỏi đă không cho t́m, cớ sao lại nói “chớ đoạn kia”, tức là chớ đoạn nó. Đáp nếu không t́m liền thôi, ai dạy ông đoạn? Ngừng tâm đuổi t́m là được, chớ nói ǵ đoạn. V́ thể tâm chân thật không tướng trạng nên dùng h́nh thức hư không để ví dụ. Hư không không có h́nh tướng làm sao đoạn, thể tâm cũng thế, làm sao đoạn được.

 

CHÁNH VĂN:

 

Hỏi: Pháp này có thể đồng với hư không chăng?

Đáp: Hư không sớm chiều đến, ông nói có đồng có khác với ta chăng? Chỉ tạm nói như thế, ông bèn nhắm vào nó mà sanh hiểu.

Hỏi: Lư ưng cùng người sanh hiểu chăng?

Đáp: Tôi không từng chướng ông, cốt cái hiểu thuộc về t́nh, t́nh sanh th́ trí cách.

Hỏi: Ở trong đó chớ sanh t́nh phải chăng?

Đáp: Nếu không sanh t́nh ai nói là phải?

 

GIẢNG:

 

Hỏi: Pháp này có thể đồng với hư không chăng?

Đáp: Hư không sớm chiều đến, ông nói có đồng có khác với ta chăng? Chỉ tạm nói như thế, ông bèn nhắm vào nó mà sanh hiểu.

Trong hư không buổi sáng mặt trời lên th́ thấy sáng, buổi chiều mặt trời lặn th́ thấy tối, sáng tối là cảnh bên ngoài. Hư không không sáng tối, như vậy đồng khác với ta chăng? Hư không là vô tri, tánh giác là thường tri. Cái vô tri với cái thường tri mà hỏi đồng hỏi khác là sao? Đây chẳng qua tạm dùng hư không để thí dụ, ông bèn nhằm vào nó sanh hiểu, tưởng chỗ chân thật giống như hư không. Như vậy không đúng.

Hỏi: Lư ưng cùng người sanh hiểu chăng? Như vậy cho người sanh hiểu chăng?

Đáp: Tôi không từng chướng ông, cốt cái hiểu thuộc về t́nh, t́nh sanh th́ trí cách.

Câu này đáp rất rơ ràng. Hỏi “như vậy cho sanh hiểu không”, Ngài đáp tôi không từng chướng, không ngăn, không che ông, ông tự muốn hiểu th́ cứ hiểu, nhưng cái hiểu thuộc về t́nh. Cho nên khi các Thiền sư hỏi “hội không” thường đáp “chẳng hội”. Chẳng hội mà được, c̣n nói hội th́ ăn đ̣n. Chẳng hội là chẳng hiểu, bị v́ hiểu tức là t́nh, mà t́nh sanh th́ trí cách, không c̣n trí chân thật hiện tiền.

Chúng ta sống thường dùng t́nh nhiều hơn trí. Cái ǵ cũng đặt thức t́nh t́m hiểu, càng t́m hiểu th́ trí chân thật càng lặn mất. Tu được định trí chân thật mới hiện ra. Đă định th́ t́nh c̣n không? T́nh hết. T́nh hết trí mới hiện. T́m hiểu thuộc về t́nh, càng hiểu t́nh càng sâu nên nói t́nh sanh th́ trí cách.

Hỏi: Ở trong đó chớ sanh t́nh phải chăng? Đáp: Nếu không sanh t́nh ai nói là phải? Hỏi có phải không sanh t́nh chăng? Nếu c̣n thấy phải thấy quấy là c̣n t́nh. Nếu không sanh t́nh th́ đừng nói phải quấy. Đây là chỗ đặc biệt.

 

CHÁNH VĂN:

 

Hỏi: Vừa nhằm chỗ Ḥa thượng nói ra, là tại sao lại rơi vào nói năng?

Đáp: Ông tự là người không hiểu lời nói, có cái ǵ là rơi vào?

Hỏi:  Từ trên đến đây nói nhiều như thế đều là lời phản lại, hoàn toàn chưa từng chỉ bày thật pháp cho người?

Đáp: Thật pháp không điên đảo, nay chỗ hỏi của ông tự sanh điên đảo, t́m thật pháp chỗ nào?

Hỏi: Đă là chỗ hỏi tự sanh điên đảo th́ chỗ đáp của Ḥa thượng thế nào?

Đáp: Ông hăy tự lấy gương soi mặt ḿnh, chớ xem xét người khác. Chỉ giống như con chó ngu thấy có tiếng động là sủa, không phân biệt gió thổi hay cây cỏ động.

 

GIẢNG:

 

Hỏi: Vừa nhằm chỗ Ḥa thượng nói ra, là tại sao lại rơi vào nói năng? Ḥa thượng vừa mới nói, người nghe lập lại, tại sao lại rơi vào chỗ nói năng?

Đáp: Ông tự là người không hiểu lời nói, có cái ǵ là rơi vào? Ông không hiểu lời nói, chớ có ǵ rơi vào, chẳng qua là thấy với chưa thấy thôi, không có ǵ rơi vào hết.

Hỏi:  Từ trên đến đây nói nhiều như thế đều là lời phản lại, hoàn toàn chưa từng chỉ bày thật pháp cho người? Đáp: Thật pháp không điên đảo, nay chỗ hỏi của ông tự sanh điên đảo, t́m thật pháp chỗ nào? Thật pháp là không điên đảo mà ông hỏi quanh hỏi co, hỏi phải hỏi quấy, đó là tự điên đảo rồi, làm sao thấy thật pháp.

Hỏi: Đă là chỗ hỏi tự sanh điên đảo th́ chỗ đáp của Ḥa thượng thế nào? Hỏi điên đảo th́ chẳng lẽ Hoà thượng đáp cũng điên đảo luôn sao.

Đáp: Ông hăy tự lấy gương soi mặt ḿnh, chớ xem xét người khác. Chỉ giống như con chó ngu thấy có tiếng động là sủa, không phân biệt gió thổi hay cây cỏ động. Ở đây Ngài dạy, ông hăy tự lấy gương soi mặt ḿnh, đừng chạy theo lời nói, mạch văn của người. Nếu chạy theo người ta th́ giống như con chó ngu thấy tiếng động là sủa, không biết gió hay cây.

 

CHÁNH VĂN:

 

Về Thiền tông tôi đây từ các bậc tiền bối trao truyền đến nay, không từng dạy người cầu hiểu cầu biết, chỉ nói “học đạo” là lời để tiếp dẫn. Nhưng, đạo cũng không thể học, c̣n nghĩ học hiểu trở thành mê đạo. Đạo không có chỗ nơi gọi tâm Đại thừa. Tâm này không ở trong, ngoài, chặng giữa, thật không có chỗ nơi, hay nhất là không được khởi hiểu biết. 

 

GIẢNG:

 

Đứng về mặt Thiền tông, các bậc tiền bối trao truyền từ trước đến giờ, không từng dạy người cầu hiểu cầu biết, chỉ dạy người nhận ra, thấy liền thấy, không thấy th́ thôi, chớ không cho cầu hiểu biết. Học đạo là lời nói để tiếp dẫn người sau thôi. Nhưng đạo cũng không thể học. C̣n nghĩ học hiểu trở thành mê đạo. Tại sao? Lẽ ra học hiểu th́ thông đạo, tại sao mê đạo? V́ càng học, càng hiểu càng trở thành trí suy luận, so sánh, đối chiếu. Mà so sánh đối chiếu th́ xa đạo rồi.

Đạo không có chỗ nơi gọi tâm Đại thừa. V́ đạo không có chỗ nơi nên đạo chỉ cho tâm Đại thừa, tâm thênh thang rộng lớn của ḿnh.

Tâm này không ở trong, ngoài, chặng giữa, thật không có chỗ nơi, hay nhất là không được khởi hiểu biết. Tâm này không có chỗ nơi và đặc biệt muốn thấy, muốn gần nó là đừng khởi hiểu biết. Vừa khởi hiểu biết liền cách xa.

Ngài nói đi nói lại, rốt cuộc cũng chỉ cho chúng ta thấy nơi mọi người có tâm thể chân thật, không cho suy luận hiểu biết để ḿnh nhận ra tâm ấy. Bởi v́ phải lặng dừng tất cả suy luận tâm ấy mới hiện. V́ vậy chúng ta tu muốn tâm chân thật hiển hiện phải dừng tất cả niệm lăng xăng, đối đăi, phân biệt.

 

CHÁNH VĂN:

 

Chỉ nói với ông chỗ t́nh lượng hiện nay, t́nh lượng nếu hết th́ tâm không chỗ nơi. Đạo thiên chân này vốn không danh tự. Bởi v́ thế gian không biết, mê ở trong t́nh. Cho nên chư Phật ra đời nói để phá việc này, sợ e các ông không rơ, quyền lập tên “Đạo”. Không thể nhận tên sanh hiểu, nên nói “được cá quên nôm”. Thân tâm tự nhiên đạt đạo, biết tâm, đạt nguồn cội hiệu là Sa-môn.

 

GIẢNG:

 

Chỉ nói với ông chỗ t́nh lượng hiện nay, t́nh lượng nếu hết th́ tâm không chỗ nơi. T́nh lượng tức là tâm suy luận hiểu biết. Nếu hết tâm suy luận hiểu biết th́ tâm chân thật trùm khắp. Tâm suy lượng hiểu biết luôn đặt trên danh tướng. Khi chúng ta phân biệt tên đó, chữ đó, nghĩa đó… là danh. Phân biệt h́nh này, tướng kia đẹp xấu… là tướng. Tất cả t́nh lượng phân biệt đều nằm trên danh tướng. Nếu danh tướng t́nh lượng lặng th́ tâm thênh thang bủa khắp, đó là đạo.

Cho nên ở đây dùng chữ “đạo thiên chân” này vốn không danh tự. Tại sao nói đạo thiên chân? Thiên chân có hai cách hiểu. Thứ nhất, thiên chân là cái chân nghiêng một bên. Thường thường nói thiên chân là chỗ đạt được của Nhị thừa, chỉ mới có một bên, chưa viên măn. Thứ hai, thiên chân ở đây là cái chân thật sẵn có. Đạo sẵn có chân thật này vốn không danh tự. Nên đạo thiên chân tức là đạo sẵn có chân thật. Người thế gian không hiểu nên mê trong t́nh.

Cho nên chư Phật ra đời th́ nói để phá việc này, sợ e các ông không rơ quyền lập tên đạo. Chúng ta sẵn có đạo chân thật, không tên tuổi, không danh tự, người thế gian không biết mê lầm trong t́nh chấp. Cho nên chư Phật ra đời để phá chấp này, quyền lập tên “đạo”. Không thể nhận tên sanh hiểu, nên nói “được cá quên nôm”. Chúng ta tu phải nhận ra chỗ chân thật, không nên sanh thêm hiểu biết phân biệt nào, v́ vậy nói “được cá quên nôm”. Như người cầm nôm đi nôm, cốt được cá chớ không phải được nôm. Cho nên khi được cá th́ quên nôm. Chúng ta cũng vậy, nhận ra đạo th́ quên hết danh tự, dù danh tự đạo cũng không c̣n. Nếu c̣n bám vào danh tự là c̣n giữ nôm mà không giữ cá.

Thân tâm tự nhiên đạt đạo, biết tâm đạt nguồn cội hiệu là Sa-môn. Sa-môn là ǵ? “Thức tâm đạt bản nguyên danh vi Sa-môn.” Hiểu được tâm, đạt được nguồn cội gọi là Sa-môn. Người tu mà không hiểu tâm, không thấu suốt được nguồn cội th́ chưa xứng là người tu. V́ vậy Tổ dẫn kinh Tứ Thập Nhị Chương nhắc câu này.

 

CHÁNH VĂN:

 

Quả Sa-môn là dứt duyên lự mà thành, không phải từ học mà được.

 

GIẢNG:

 

Quả của Sa-môn có nhiều bậc. Thí dụ như Tứ quả Sa-môn là Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán. Riêng quả Sa-môn ở đây là quả đạt đạo tuyệt cao, không phải do tâm phân biệt so sánh đối đăi mà thành. Cho nên nói không phải học mà được.

 

CHÁNH VĂN:

 

Ông nay đem tâm cầu tâm, bên cạnh nhà người chỉ toan học lấy, có khi nào được.

 

GIẢNG:

 

Nếu đem tâm cầu tâm, có khi nào được. Muốn được tâm chân thật tự ḿnh phải buông hết mọi thứ phân biệt vọng lự, th́ tâm chân thật hiện tiền. Bên cạnh nhà người chỉ toan học lấy là đến nhà các bậc thầy cầu mong chỉ dạy, như thế trọn chẳng thể được.

 

CHÁNH VĂN:

 

Người xưa tâm lanh lợi vừa nghe một câu bèn dứt học, cho nên nói là “tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân”.

 

GIẢNG:

 

Người xưa nghe một câu bèn dứt học, gọi là tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân. Ngài Huyền Giác nói câu này để nhắc chúng ta đến chỗ chân thật rồi không c̣n học là tuyệt học, vô vi là không c̣n mọi động tác, mọi suy luận. được như thế gọi là nhàn đạo nhân, đạo nhân thảnh thơi không c̣n bận bịu việc ǵ.

 

CHÁNH VĂN:

 

Người thời nay chỉ muốn được biết nhiều hiểu rộng, rộng cầu văn nghĩa, bảo là tu hành, không biết biết nhiều hiểu rộng trở thành bít lấp.

 

GIẢNG:

 

Tại sao biết nhiều, hiểu rộng lại trở thành bít lấp? Bởi v́ chúng ta học nhiều, nhớ nhiều th́ càng che cái chân thật của chính ḿnh, cho nên gọi là bít lấp. Nếu tâm trống rỗng không c̣n ǵ che đậy, tâm chân thật sẽ hiện ra.

 

CHÁNH VĂN:

 

Chỉ cần biết nhiều sánh với trẻ con ăn tô ăn sữa, trọn không biết tiêu cùng chẳng tiêu.

 

GIẢNG:

 

Người muốn biết thật nhiều, thuộc ḷng tam tạng kinh điển, giống như mấy đứa bé thích ăn bơ, ăn sữa. Nó không biết ăn nhiều không tiêu sẽ thành bệnh. Chúng ta cũng vậy, cứ ngỡ rằng học nhiều, hiểu rộng là hay, không ngờ chính học nhiều hiểu rộng lại trở thành bít lấp.

 

CHÁNH VĂN:

 

Người học đạo tam thừa đều giống như thế, chung gọi là ăn không tiêu. Nên nói “hiểu biết không tiêu đều là thuốc độc”. Hoàn toàn nhằm trong sanh diệt mà lấy, trong chân như trọn không có việc này. Nên nói “trong kho vua của ta không có đạo như thế”. Từ trước có tất cả chỗ hiểu biết cần phải dẹp sạch, khiến không, lại không phân biệt tức là Không Như Lai Tạng.

 

GIẢNG:

 

Người học đạo tam thừa đều giống như thế, chung gọi là ăn không tiêu, học nhiều quá tiêu hóa không nổi gọi là ăn không tiêu. Nên nói “hiểu biết không tiêu đều là thuốc độc”, tất cả hiểu biết nhiều mà không tiêu hóa nổi th́ trở thành thuốc độc.

Hoàn toàn nhằm trong sanh diệt mà lấy, trong chân như trọn không có việc này, học hiểu t́m kiếm phân biệt… tất cả những thứ ấy đều nằm trong sanh diệt, không phải thể chân như.

Nên nói “trong kho vua của ta không có đạo như thế”, trong kho vua không có đạo như thế, không có học lăng xăng như vậy.

Từ trước có tất cả chỗ hiểu biết cần phải dẹp sạch, khiến không, lại không phân biệt tức là Không Như Lai Tạng. Sao gọi là Như Lai Tạng? Sao gọi là Không Như Lai Tạng? Khi không c̣n dính chấp, không c̣n khởi phân biệt gọi là Không Như Lai Tạng. Như Lai là Phật, Tạng là kho. Như Lai Tạng là kho của Phật. Kho của Phật chứa ǵ? Kho của Phật trống rỗng thênh thang, cho nên gọi là Không Như Lai Tạng.

C̣n kho chúng ta chứa ǵ? Chứa đủ thứ bá nạp, tốt xấu hay dở không thiếu thứ ǵ. Bởi vậy nên gọi là tạng hay tàng thức. Tàng thức đối với Duy Thức học gọi là thức thứ tám, chứa tất cả chủng tử thiện ác, đó là những thứ phân biệt nên gọi là thức. Khi ta dẹp hết tất cả chủng tử thiện ác rồi gọi đó là Không Như Lai Tạng.

 

CHÁNH VĂN:

 

Như Lai Tạng lại không một mảy bụi có thể có, tức là vị Pháp vương phá hữu xuất hiện ở thế gian, cũng nói rằng: “Ta ở chỗ Phật Nhiên Đăng không có một chút pháp có thể được.”

 

GIẢNG:

 

Như Lai Tạng không một mảy bụi có thể có, nghĩa là không c̣n một mảy bụi mới gọi là Như Lai Tạng. Nếu không c̣n một mảy bụi th́ gọi là vị Pháp vương phá hữu xuất hiện ở thế gian. Pháp vương phá hữu là ǵ? Là ông vua pháp dẹp hết những cái có ở thế gian. Cũng nói rằng “Ta ở chỗ Phật Nhiên Đăng không có một chút pháp có thể được”, đây dẫn kinh Kim Cang để nói đức Phật là vị Pháp Vương Phá Hữu xuất hiện ở thế gian.

 

CHÁNH VĂN:

 

Lời nói này chỉ là không. T́nh lượng hiểu biết của ông cần được tiêu dung, trong ngoài t́nh hết, trọn không y chấp là người vô sự.

 

GIẢNG:

 

Những lời dẫn từ trước đến đây, cốt chỉ cho chúng ta thấy là không, không một pháp, như vậy tất cả t́nh lượng, hiểu biết cần phải tiêu dung. Tiêu dung là dọn dẹp tiêu hoá hết, không c̣n ǵ lợn cợn nữa. Trong ngoài t́nh hết, ở trong ở ngoài đều không c̣n t́nh chấp. Trọn không y chấp là người vô sự, tức không có ǵ để dính mắc nữa là người vô sự. Người vô sự là người thế nào? Chắp tay ra sau đi tới đi lui thong thả, ngó trời ngó mây là người vô sự chăng? Ngó trời ngó mây mà trong đầu lăng xăng, có phải vô sự chưa? Thân th́ thấy như vô sự mà thực tâm chưa vô sự. Vô sự là tất cả t́nh chấp không c̣n, trong ngoài đều dứt sạch, chính chỗ đối cảnh vô tâm mới là người vô sự.

 

CHÁNH VĂN:

 

Cương yếu giáo lư tam thừa chỉ là thứ thuốc hợp cơ, tùy nghi nói ra, tạm thời lập bày, mỗi mỗi không đồng, chỉ cần rơ biết th́ không bị mê hoặc là hay bậc nhất. Không được bên một cơ, một giáo chấp văn nhận hiểu. Tại sao như thế? Thật không có pháp nhất định Như Lai có thể nói.

 

GIẢNG:

 

Ở đây Ngài muốn nói cho chúng ta hiểu, sở dĩ Phật giảng dạy có chia ra tam thừa Phật giáo, hoặc ngũ thừa Phật giáo là v́ đối bệnh cho thuốc, chớ chưa phải chỗ cứu kính. Bởi hợp cơ cho nên tùy nghi nói ra, tạm thời lập bày, mỗi mỗi không đồng nên pháp này khác pháp kia. Chỉ cần rơ biết th́ không mê hoặc, chúng ta cần biết những pháp ấy Phật phương tiện tùy cơ mà thuyết. Biết rành rẽ như vậy, không lầm lẫn là hay bậc nhất.

Gần đây tôi có một cái nh́n, như hàng Thanh văn lấy pháp Bát chánh đạo làm căn bản, Duyên giác lấy Mười hai nhân duyên làm căn bản. Trong Bát chánh đạo thứ nhất là Chánh kiến, kế đến là Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, tới Chánh định th́ dừng. C̣n Đại thừa lấy Lục độ làm căn bản. Lục độ gồm Bố thí, Tŕ giới, Tinh tấn, Nhẫn nhục, Thiền định, Trí tuệ. Như vậy hai bên khác nhau chỗ nào?

Theo Thanh văn, bước đầu là Chánh kiến, nhận định đúng với Chánh pháp, đúng với lư Tứ đế. Muốn thế phải có trí tuệ mới Chánh kiến được. Trí tuệ ở đâu ra? Phật dạy “các ngươi hăy thắp đuốc lên mà đi, thắp lên với chánh pháp”. Trí tuệ đó từ học mà được. Các hàng Thanh văn nhờ nghe, nhờ học kinh Phật mà có nhận định đúng, thành ra trí đó là trí hữu học. Từ trí hữu học đi lần lần lên thấy đúng, nghĩ đúng, nói đúng, làm đúng, sống đúng, tu hành đúng tới chánh định th́ dừng. Tại sao? Bởi v́ Thanh văn tu muốn cầu Niết-bàn, cứu kính Niết-bàn của Thanh văn là Diệt tận định, cho nên dừng lại ở định.

Bồ-tát bắt đầu từ Bố thí, kế đến là Tŕ giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ. Với tinh thần Đại thừa, trước hết dùng ḷng Từ bi, do dùng Từ bi nên bố thí. Bố thí dẹp cái ǵ? Dẹp tham. Kế đến Tŕ giới là bảo vệ cho chúng ta tránh những lỗi lầm. Nhẫn nhục để trừ sân. Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ diệt hết si. Như vậy trí tuệ của Lục độ từ đâu ra? Từ Thiền định mà được, nên trí tuệ đó là trí tuệ vô sư. Bồ-tát ban đầu đi từ tâm từ bi, lần lần tới diệt tham, sân, si, cuối cùng trí tuệ chân thật hiện. Phân biệt sự khác nhau trên pháp tu của hai bên Thanh văn và Bồ-tát, chúng ta mới thấy hai giáo lư sai biệt nhau ở mục đích cứu kính.

Người tu Bồ-tát đạo khi được trí tuệ rồi, biết trí tuệ ấy đâu phải riêng ḿnh có, ai cũng sẵn v́ nó là trí vô sư. Do đó mọi người đều có khả năng thành Phật, v́ vậy các ngài không nhập Niết-bàn mà chấp nhận đi trong sanh tử để độ chúng sanh. C̣n các vị Thanh văn tu học từ Tứ đế được Diệt tận định, nên muốn ra khỏi sanh tử nhập Niết-bàn. Một bên hết duyên nhập Niết-bàn. Một bên nhận ra trí tuệ vô sư, lăn lóc vào đời độ chúng sanh. Đó là chỗ khác biệt giữa Tiểu thừa và Đại thừa.

Hiểu vậy mới thấy giáo lư của Phật có từng chặng, nên nói giáo lư Tam thừa chỉ là phương pháp khế cơ thôi. Ở đây chỉ thẳng cho chúng ta biết tới chỗ cuối cùng không c̣n tất cả những suy nghĩ luận bàn. Nên nói “thật không có pháp nhất định Như Lai có thể nói”, chẳng qua chỉ là phương tiện.

 

CHÁNH VĂN:

 

Tông môn của tôi đây chẳng bàn việc này, chỉ biết dứt tâm liền thôi, không cần suy trước tính sau.

 

GIẢNG:

 

Tổ bảo tông môn của Ngài chỉ cần dứt tâm, không cần suy trước tính sau. Chỗ này đơn giản mà khó. Ví dụ như người bị bệnh ái nặng, Phật dạy họ quán thân bất tịnh. Quán đến khi nào gớm nó th́ bớt ái, như vậy dễ trừ. C̣n ở đây không nói bệnh ǵ hết, miễn niệm dấy lên liền bỏ. Chúng ta bỏ hoài mà không thấy hết nên nói khó. Càng đơn giản càng khó. Cũng thế, chân lư rất đơn giản cho nên khó t́m. Cái ǵ màu sắc hoa ḥe tô điểm bên ngoài, dễ t́m nên người ta thích, nhưng nó không phải chân lư. Chân lư là lẽ thật, rất đơn giản. Hiểu vậy chúng ta thấy lối tu chỉ biết dứt tâm liền thôi là quá đơn giản, v́ thế nên khó. Đó là con đường tắt. Khó mà bền chí tu cũng sẽ thành tựu. C̣n dễ là con đường quanh, đi không khéo ḷng ṿng măi không biết bao giờ mới về đến nhà. Như người leo núi, đi thẳng lên khó, c̣n đi ṿng ṿng dễ hơn. Việc tu của chúng ta cũng giống như vậy. Hiểu rồi mới bền chí, mới quyết tâm tu. Nếu không hiểu th́ tu lâu thấy mệt mỏi sanh ra chán ngán. Người khéo tu biết buông bỏ những ǵ dính mắc, che lấp th́ tự sáng thôi.

 

CHÁNH VĂN:

 

Hỏi: Từ trước đến nay đều nói “tức tâm là Phật”, chưa biết tức tâm nào là Phật? 

Đáp: Ông có bao nhiêu thứ tâm?

Hỏi: Tức tâm phàm là Phật hay tức tâm Thánh là Phật?

Đáp: Ông chỗ nào có tâm phàm thánh?

Hỏi: Nay trong tam thừa nói có phàm thánh, Hoà thượng đâu được nói không?

Đáp: Trong tam thừa rơ ràng nói với ông “tâm phàm thánh là vọng”, nay ông không hiểu trở lại chấp là có, đem không làm thật, đâu không phải là vọng, vọng nên mê tâm. Ông chỉ trừ dẹp t́nh phàm cảnh thánh, ngoài tâm không có Phật khác, Tổ sư từ Ấn Độ đến, chỉ thẳng mọi người toàn thể là Phật. Nay ông không biết chấp phàm chấp thánh, nhằm ngoài chạy t́m, trở lại mê tâm ḿnh, v́ thế nên đến ông nói “tức tâm là Phật”. Một niệm t́nh sanh liền sa vào cơi khác, từ vô thủy đến giờ không khác ngày nay. Không có pháp khác nên gọi thành Đẳng Chánh Giác.

 

GIẢNG:

 

Hỏi: Từ trước đến nay đều nói “tức tâm là Phật”, chưa biết tức tâm nào là Phật?

Đáp: Ông có bao nhiêu thứ tâm? Hỏi tâm nào là Phật, Ngài hỏi lại ông có bao nhiêu thứ tâm? 

Hỏi: Tức tâm phàm là Phật hay tức tâm Thánh là Phật?

Đáp: Ông chỗ nào có tâm phàm thánh?

Hỏi: Nay trong tam thừa nói có phàm thánh, Hoà thượng đâu được nói không? Tam thừa nói rơ ràng có phàm thánh, nếu người tu Thiền từ Sơ thiền tới Tứ thiền thuộc về Phàm phu thiền. Từ Tứ thiền trở lên bước qua Thánh quả, có phàm có thánh. C̣n Bồ-tát từ thập tín, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng thuộc về Hiền, từ sơ địa cho tới thập địa… thuộc về Thánh. Rơ ràng từ giáo lư Nhị thừa tới giáo lư Đại thừa đều nói có phàm thánh. Tại sao Ngài nói không phàm thánh.

Đáp: Trong tam thừa rơ ràng nói với ông “tâm phàm thánh là vọng”, trong tam thừa giáo lư cũng nói tâm phân biệt phàm, tâm phân biệt thánh là tâm vọng. Nay ông không hiểu trở lại chấp là có, đem không làm thật, đâu không phải là vọng, vọng nên mê tâm. V́ ông c̣n chấp hai bên phàm thánh, đó là vọng nên c̣n mê tâm. Ông chỉ trừ dẹp t́nh phàm cảnh thánh, ngoài tâm không có Phật khác, bây giờ hai bên phàm thánh đều dẹp hết. Nói dẹp phải quấy hơn thua th́ dễ, chớ dẹp phàm thánh hơi khó. Dẹp được phải quấy hơn thua cũng là hạng khá, huống nữa là dẹp t́nh phàm cảnh thánh. Nếu dẹp được t́nh phàm cảnh thánh th́ không c̣n Phật nào khác nữa, đó là Phật rồi. Cho nên nói ngoài tâm chân thật không có Phật khác.

Tổ sư từ Ấn Độ đến, chỉ thẳng mọi người toàn thể là Phật. Nay ông không biết chấp phàm chấp thánh, nhằm ngoài chạy t́m, trở lại mê tâm ḿnh, v́ thế nên đến ông nói “tức tâm là Phật”. Ở đây dẫn lời của Tổ Đạt-ma chỉ dạy. Ngài chỉ thẳng mọi người toàn thể là Phật. Nay ông không biết chấp phàm chấp thánh, nhằm ngoài chạy t́m tức chạy ra ngoài t́m phàm t́m thánh, trở lại mê tâm ḿnh tức quên tâm, v́ thế buộc ḷng phải nói với ông “tức tâm là Phật”. Nói thế để nhớ tâm ḿnh là Phật, không thể bỏ nó t́m Phật bên ngoài được.

Một niệm t́nh sanh liền sa vào cơi khác, từ vô thủy đến giờ không khác ngày nay, thể chân thật hay tâm Phật của ḿnh từ xưa đến giờ không đổi thay tí nào hết. Nếu người có niệm phân biệt suy tính liền rơi vào cơi khác.

Không có pháp khác nên gọi thành Đẳng Chánh Giác. Đẳng là ngang nhau, được Chánh giác bằng nhau chớ không có cao thấp riêng khác.

 

CHÁNH VĂN:

 

Hỏi: Hoà Thượng nói “tức” là đạo lư ǵ?

Đáp: T́m đạo lư ǵ? Vừa có đạo lư bèn tức tâm khác.

Hỏi: Trên nói “từ vô thủy đến giờ không khác ngày nay”, lư này thế nào?

Đáp: Chỉ v́ t́m nên ông tự khác người, ông nếu không t́m th́ chỗ nào có khác?

Hỏi: Đă là không khác sao lại phải nói “tức”?

Đáp: Ông nếu không nhận phàm thánh th́ ai đến ông nói “tức”? Tức như không tức, tâm cũng chẳng tâm, nên trong ấy tâm tức đều quên, người nào lại nghĩ, nhằm chỗ nào t́m?

 

GIẢNG:

 

Hỏi: Hoà Thượng nói “tức” là đạo lư ǵ?

Đáp: T́m đạo lư ǵ? Vừa có đạo lư bèn tức tâm khác. Vừa thấy có đạo lư là tâm khác, chớ không c̣n tức tâm là Phật nữa.

Hỏi: Trên nói “từ vô thủy đến giờ không khác ngày nay”, lư này thế nào?

Đáp: Chỉ v́ t́m nên ông tự khác người, ông nếu không t́m th́ chỗ nào có khác? V́ chúng ta chạy t́m nên thành khác. Nếu không t́m kiếm th́ có ǵ khác.

Hỏi: Đă là không khác sao lại phải nói “tức”?

Đáp: Ông nếu không nhận phàm thánh th́ ai đến ông nói “tức”? Tại ông nói tâm này là phàm, tâm kia là thánh, nên nói tức phàm là thánh.

Tức như không tức, tâm cũng chẳng tâm, nên trong ấy tâm tức đều quên, người nào lại nghĩ, nhằm chỗ nào t́m? Tới chỗ cuối cùng chữ tức cũng phải buông, chữ tâm cũng phải bỏ, cả hai đều hết. Như vậy không cần t́m kiếm ở đâu.

 

CHÁNH VĂN:

 

Hỏi: Vọng hay chướng tâm ḿnh, chưa biết nay nên lấy cái ǵ dẹp vọng?

Đáp: Khởi vọng dẹp vọng cũng thành vọng. Vọng vốn không gốc, chỉ nhân phân biệt mà có, ông chỉ nên đối hai chỗ phàm thánh t́nh chấp hết, tự nhiên không vọng. Nếu v́ dẹp nó trọn không được có một mảy y chấp, gọi là “ta bỏ hai cánh tay ắt sẽ được Phật”.

Hỏi: Đă không y chấp th́ truyền trao thế nào?

Đáp: Lấy tâm truyền tâm.

Hỏi: Nếu tâm truyền nhau tại sao nói tâm cũng không?

Đáp: Không được một pháp gọi là truyền tâm, nếu rơ tâm này tức là không tâm không pháp.

 

GIẢNG:

 

Hỏi: Vọng hay chướng tâm ḿnh, chưa biết nay nên lấy cái ǵ dẹp vọng?

Đáp: Khởi vọng dẹp vọng cũng thành vọng. Vọng vốn không gốc, chỉ nhân phân biệt mà có, ông chỉ nên đối hai chỗ phàm thánh t́nh chấp hết, tự nhiên không vọng. Nếu v́ dẹp nó trọn không được có một mảy y chấp, gọi là “ta bỏ hai cánh tay ắt sẽ được Phật”. Nói khởi vọng dẹp vọng cũng thành vọng. Vừa thấy vọng chúng ta khởi dẹp nó, như vậy cái khởi dẹp cũng là vọng. Nhưng nếu vọng khởi ḿnh không dấy niệm bỏ, làm sao nó hết, cho nên giai đoạn đầu phải phương tiện dùng cái này bỏ cái kia.

Nhưng khi chúng ta tu sâu rồi, vọng vừa dấy ḿnh nh́n nó mất. Quí vị đừng cố đè, đừng cố dẹp, chỉ thấy nó buông thôi, đừng theo là được. Tại sao đừng đè đừng dẹp? Bởi v́ nó có thật đâu mà đè, có thật đâu mà dẹp, chẳng qua biết nó hư dối không theo là được rồi. Vọng vốn không gốc, không thật, chỉ nhân phân biệt mà có. Cho nên Tổ dạy ông chỉ nên đối hai chỗ phàm thánh t́nh chấp hết, tự nhiên không vọng. Tất cả hai bên: phải quấy, hơn thua, tốt xấu, đúng sai, phàm thánh… đều không dính bên nào th́ vọng tự hết. Ngược lại, nếu kẹt một bên, bên này hoặc bên nọ th́ vọng không bao giờ hết. 

Nếu v́ dẹp nó trọn không được có một mảy y chấp, gọi là “ta bỏ hai cánh tay ắt sẽ được Phật”. Tổ dẫn h́nh ảnh Bồ-tát chặt hai cánh tay để cúng dường, đây là để nói ư bỏ hai bên. Hai bên không c̣n dính, không c̣n kẹt, không c̣n chấp, đó là Phật. Có người bảo khởi nghĩ là vọng, dừng nghĩ là chân, cho nên bỏ vọng cầu chân. Bỏ vọng cầu chân th́ c̣n hai bên hay một bên? Cũng là hai bên. Nói vọng nói chân là phương tiện, chớ không phải thật. Chỉ vọng lặng hết tự nó là chân, cái chân cũng không c̣n chân, v́ đối với vọng nên gọi chân. Vọng hết th́ c̣n gọi là ǵ? Nó là tâm thể chân thật hiện tiền, không nói vọng, nói chân ǵ hết.

Cúng dường hai cánh tay là bỏ chấp hai bên. Kinh Đại thừa có những h́nh ảnh người ta dễ hiểu lầm. Nói Bồ-tát bố thí hai cánh tay, ta tưởng đâu bỏ hai cánh tay được Phật thọ kư. Thích quá hôm nào ta cũng chặt tay để được Phật thọ kư. Nhưng ḿnh chặt tay rồi th́ thành người cụt tay, chớ không ai thọ kư cho đâu.  

Hỏi: Đă không y chấp th́ truyền trao thế nào?

Đáp: Lấy tâm truyền tâm.

Hỏi: Nếu tâm truyền nhau tại sao nói tâm cũng không?

Đáp: Không được một pháp gọi là truyền tâm, nếu rơ tâm này tức là không tâm không pháp.

Truyền tâm là người không c̣n dính chấp nào, tâm thể hiện tiền, nghe người kia tŕnh bày chỗ không c̣n dính mắc của họ, hai bên thông cảm nhau gọi là lấy tâm truyền tâm. Tổ Đạt-ma truyền pháp cho Tổ Huệ Khả. Tổ Huệ Khả nói “ngày nay con dứt hết các duyên”, nghĩa là không c̣n chút dính mắc nào. Tổ Đạt-ma sợ dứt hết các duyên lại chấp không, nên nói “coi chừng rơi vào không”. Tổ Huệ Khả nói “rơ ràng thường biết, làm sao không được”. Dứt hết các duyên mà tâm vẫn rơ ràng thường biết, làm sao không. Tổ Đạt-ma nói “ông như thế, ta như thế, chư Phật cũng như thế”, đó là truyền tâm. Như vậy có truyền ǵ không? Thường nói truyền trao là đem gậy, đem bát, đem y trao cho gọi là truyền. C̣n ở đây ông thấy như vậy đúng với cái thấy của ta, ta thấy đúng với cái thấy của Phật. Đó là thừa nhận chỗ hợp nhau, gọi là truyền, chớ không phải đem cái ǵ ra truyền cho người. 

 

CHÁNH VĂN:

 

Hỏi: Nếu không tâm không pháp, thế nào là truyền?

Đáp: Ông nghe nói truyền tâm bèn cho là có khả đắc. Sở dĩ Tổ sư nói: “Khi nhận được tâm tánh nên nói không nghĩ bàn, rơ ràng không sở đắc, khi được không nói biết.” Việc này nếu đem dạy, ông đâu kham lănh hội.

Hỏi: Như hư không ở trước mắt, thật không phải cảnh, sao không chỉ cảnh để thấy được tâm?

Đáp: Tâm ǵ mà dạy ông nhằm trên cảnh thấy? Giả sử ông thấy được chỉ là cái tâm chiếu cảnh. Như người dùng gương soi mặt, cho dù thấy được mày mắt rơ ràng, nhưng thật ra chỉ là bóng dáng, đâu quan hệ ǵ việc của ông?

Hỏi: Nếu không nhân chiếu khi nào được thấy?

Đáp: Nếu vậy liên hệ đến nhân thường phải nhờ vật, có khi nào được liễu ngộ. Ông không thấy người đến ông nói: “buông tay tợ người không một vật, luống công dối nói mấy ngàn điều”.

Hỏi: Nếu người hiểu rồi chiếu cũng không vật sao?

Đáp: Nếu là không vật th́ cần ǵ phải chiếu, ông nếu mở mắt th́ nói hết ngủ.

 

GIẢNG:

 

Hỏi: Nếu không tâm không pháp, thế nào là truyền?

Đáp: Ông nghe nói truyền tâm bèn cho là có khả đắc. Sở dĩ Tổ sư nói: “Khi nhận được tâm tánh nên nói không nghĩ bàn, rơ ràng không sở đắc, khi được không nói biết.” Việc này nếu đem dạy ông, đâu kham lănh hội.

Nói truyền tâm là sao? Ngài dẫn Tổ sư nói khi nhận được tâm tánh nên nói không nghĩ bàn, nhận được chỗ không c̣n nghĩ bàn, rơ ràng không sở đắc, khi được không nói biết. Khi được cũng không nói tôi biết nó, v́ nó rơ ràng hằng biết, đâu thể nói biết được nó. Nếu biết nó th́ nó là vật bị biết. Việc này nếu đem dạy ông, đâu kham lănh hội. Tôi có dạy ông cũng không lănh hội được.

Hỏi: Như hư không ở trước mắt, thật không phải cảnh, sao không chỉ cảnh để thấy được tâm?

Đáp: Tâm ǵ mà dạy ông nhằm trên cảnh thấy? Giả sử ông thấy được chỉ là cái tâm chiếu cảnh. Như người dùng gương soi mặt, cho dù thấy được mày mắt rơ ràng, nhưng thật ra chỉ là bóng dáng, đâu quan hệ ǵ việc của ông?

Người hỏi nói rằng như hư không ở trước mắt, thật không phải cảnh, sao không chỉ cảnh để thấy được tâm. Như hư không ở trước mắt, ta có thể nh́n biết, sao không lấy đó mà chỉ? Ngài nói tâm ǵ mà dạy ông nhằm trên cảnh thấy? Tâm đó không phải ngoài cảnh mà có, nó có ngay nơi ông. Giả sử ḿnh thấy được nó, chỉ là thấy tâm chiếu cảnh, chớ không phải thấy tâm thật. Như lấy gương soi mặt, mặt mày trong gương chúng ta thấy được là cái bóng, chớ không phải mặt mày thật. Mặt mày thật không thể thấy, như con mắt không thể thấy con mắt. V́ vậy những ǵ chúng ta t́m thấy chỉ là bóng dáng thôi, không phải cái chân thật.

Hỏi: Nếu không nhân chiếu khi nào được thấy?

Đáp: Nếu vậy liên hệ đến nhân thường phải nhờ vật, có khi nào được liễu ngộ. Ông không thấy người đến ông nói: “buông tay tợ người không một vật, luống công dối nói mấy ngàn điều”. Ở đây hỏi nếu nói không nhân chiếu khi nào được thấy? Ngài đáp nếu vậy liên hệ đến nhân thường phải nhờ vật, nhân tức là nhân chiếu. Muốn chiếu th́ phải có vật mới chiếu được, như vậy chừng nào liễu ngộ. Đây dẫn lời các Tổ nói ông thấy người đến ông nói: “buông tay tợ người không một vật, luống công dối nói mấy ngàn điều”, dù nói mấy ngàn điều chỉ là chuyện luống công, chớ gốc là buông tay không dính một vật. Đó là chủ yếu, c̣n nói đông nói tây chỉ phương tiện thôi.

Hỏi: Nếu người hiểu rồi chiếu cũng không vật sao?

Đáp: Nếu là không vật th́ cần ǵ phải chiếu, ông nếu mở mắt th́ nói hết ngủ.

Đơn giản vô cùng. Hỏi “nếu người hiểu rồi chiếu soi cũng không vật sao”, Ngài đáp “nếu là không vật th́ cần ǵ phải chiếu”. V́ chiếu là soi lại, mà cái ấy không có, lấy ǵ soi. Bây giờ chỉ nói nếu ông hết mê tức là giác, giống như người mở mắt th́ không ngủ. Thức ngủ khác nhau ở chỗ mở mắt với nhắm mắt thôi, sáng tối khác nhau ở chỗ tỉnh hay mê thôi.

 

CHÁNH VĂN:

 

Ngài thượng đường bảo:

Biết nhiều trăm thứ, chẳng bằng không cầu, tột bậc nhất vậy. Đạo nhân là người vô sự, thật không có những tâm nhiều ấy, cũng không có đạo lư ǵ có thể nói. Vô sự giải tán đi.

 

GIẢNG:

 

Ngài bảo “biết nhiều trăm thứ chẳng bằng không cầu, tột bậc nhất vậy”, chỗ không cầu là tột bậc nhất, c̣n biết nhiều trăm thứ không phải là hay.

Đạo nhân là người vô sự, thật không có những tâm nhiều ấy, cùng sự không có đạo lư ǵ có thể nói, nói đạo nhân là chỉ cho những người vô sự, vô sự th́ không có tâm lăng xăng lộn xộn, chỗ tột cùng sự không c̣n đạo lư ǵ để nói nữa. Cuối cùng Ngài nói một câu dễ dàng nhất: Vô sự giải tán đi, không c̣n chuyện ǵ nữa th́ giải tán đi, học nhiều làm chi.

 

CHÁNH VĂN:

 

Hỏi: Thế nào là thế đế?

Đáp: Nói nhánh nhóc ấy làm ǵ? Xưa nay thanh tịnh đâu nhờ nói năng vấn đáp, chỉ không tất cả tâm liền gọi là trí vô lậu. Ông mỗi ngày đi đứng ngồi nằm tất cả nói năng, chớ đắm pháp hữu vi, nói ra nháy mắt thảy đồng vô lậu. Như nay nhằm đời mạt pháp, phần nhiều người học Thiền học đạo đều đắm tất cả thanh sắc, sao không cùng ta mỗi tâm đồng hư không đi, như cây khô ḥn đá đi, như tro tàn lửa tắt đi, mới có một ít phần tương ưng. Nếu không như thế, hôm nào sẽ bị Diêm Vương dẫn ông đi.

 

GIẢNG:

 

Thế đế cũng gọi là thế tục đế. Đệ nhất nghĩa đế cũng gọi là Thánh đế. Thế đế là đối với đệ nhất nghĩa đế mà lập. Chữ đế là lẽ thật. Hỏi thế đế là nói về thế tục, những vấn đề rất thường t́nh. Cho nên ở đây Ngài đáp: Nói nhánh nhóc ấy làm ǵ? Tổ giải thích: xưa nay thanh tịnh đâu nhờ nói năng vấn đáp, chỉ không tất cả tâm liền gọi là trí vô lậu, đơn giản làm sao. Chúng ta cứ t́m hiểu ngôn ngữ, văn tự mà không buông tất cả tâm cho thanh tịnh. Nếu tâm không thanh tịnh dù hỏi tới đâu cũng chỉ là ngôn ngữ thôi. V́ vậy Ngài nói chỉ không tất cả tâm liền gọi là trí vô lậu. Chúng ta không tất cả tâm dấy khởi lăng xăng, gọi là trí vô lậu.

Ông mỗi ngày đi đứng ngồi nằm tất cả nói năng, chớ đắm pháp hữu vi, nói ra nháy mắt thảy đồng vô lậu. Đi đứng ngồi nằm nói năng v.v… là tướng hữu vi, đừng mắc kẹt nó. Nếu không mắc kẹt th́ mọi hành động đều là vô lậu. Ngược lại nếu mắc kẹt trong pháp hữu vi th́ rơi vào hữu lậu.

Như nay nhằm đời mạt pháp, phần nhiều người học thiền học đạo đều đắm tất cả thanh sắc, sao không cùng ta mỗi tâm đồng hư không đi, như cây khô ḥn đá đi, như tro tàn lửa tắt đi, mới có một ít phần tương ưng. Ngài dạy chúng ta học đạo không phải học ngôn ngữ, h́nh thức mà phải tập mỗi tâm đồng hư không. Mỗi tâm đồng hư không là sao? Tâm tâm không dính với cảnh, tâm tâm không dính với hơn thua phải quấy v.v… là tâm đồng với hư không.

Như cây khô ḥn đá đi, tại sao bảo ḿnh phải như cây khô như ḥn đá? Nhịn đói để chết cứng như cây khô, ḥn đá phải không? Nói cây khô, ḥn đá để chỉ tâm không dính, không kẹt, không ǵ làm lay động được tâm.

Như tro tàn lửa tắt đi, mới có một ít phần tương ưng. Làm sao tâm như lửa tắt, như tro tàn? Nghe một lời nói trái tai nổi nóng lên là lửa tắt hay lửa cháy? Lửa cháy chớ không tắt. Nghe nói nặng, nói nhẹ mà tâm vẫn lạnh không bực, không nóng nảy là lửa tắt. Lửa tắt th́ tro lạnh, tro tàn. Nghe nói danh lợi ḿnh thích, có lửa không? Sân là lửa mà tham cũng là lửa. Cho nên chúng ta phải khéo tu, làm sao tâm như lửa tắt tro tàn, mới đi tới chỗ tương ưng cùng Phật pháp hay tương ưng cùng chân tâm Phật tánh.

Nếu không như thế, hôm nào sẽ bị Diêm Vương dẫn ông đi. Đó là câu nói cảnh cáo. Cảnh cáo ai? Ai không để lửa tắt tro tàn. Nếu người như lửa tắt, tro tàn th́ Diêm Vương biết đâu mà dẫn.

 

CHÁNH VĂN:

 

Ông chỉ ĺa hẳn các pháp hữu vô, tâm như vầng mặt trời trong hư không, ánh sáng tự nhiên không chiếu mà chiếu, không phải là việc của sức phản tỉnh. Khi đến đây th́ không chỗ nương tựa, tức là làm hạnh của chư Phật, bèn là “nên không có chỗ trụ mà sanh tâm kia”. Đây là pháp thân thanh tịnh của ông, gọi là A-nậu Bồ-đề. Nếu không lănh hội được ư này, dù ông học được biết nhiều, siêng năng khổ nhọc tu hành, áo cỏ ăn cây, không biết tâm ḿnh đều gọi là hạnh tà, quyết định sẽ làm quyến thuộc của thiên ma, tu hành như thế sẽ có ích lợi ǵ?

 

GIẢNG:

 

Ở trên Ngài dạy như lửa tắt tro tàn. Đến đây Ngài dạy phải biết ĺa các pháp hữu vi tức là ĺa hai bên như có không, phải quấy, hơn thua v.v… Khi nào chúng ta không nghĩ hai bên, lúc đó tâm động hay tịnh? Tâm tịnh. Thường thường chúng ta không nghĩ thiện th́ nghĩ ác, không nghĩ phải th́ nghĩ quấy, luôn luôn nghĩ trong đối đăi. Mà đối đăi là tướng sanh diệt, sanh diệt là động. Cho nên chúng ta ĺa hết các tâm, các pháp hữu và vô.

Nếu tất cả hai bên đều ĺa th́ tâm ḿnh như vầng mặt trời trong hư không, ánh sáng tự nhiên không chiếu mà chiếu, không phải là việc của sức phản tỉnh. Câu này rất thiết yếu, ai có tu mới thấy nó quan trọng. Khi ngồi tu, tâm không dấy niệm, nhiều người cảm thấy vô tri quá, lúc ấy lại khởi nghĩ muốn sáng đạo, có hào quang mới thích. Đó là sai lầm. V́ vậy Ngài dạy nếu không dính kẹt hai bên, tâm như vầng mặt trời trong hư không, ánh sáng tự nhiên không chiếu mà chiếu. Hai chữ không chiếu mà chiếu nói được ư quan trọng này. Không chiếu mà chiếu là sao? Thường thường lúc tâm yên, nó không phản quan, không soi lại, nên nói không chiếu, nhưng nó vẫn sáng, dấy niệm liền biết nên nói chiếu. Đó là không chiếu mà chiếu. Chỗ này rất thiết yếu. Bởi v́ khi tu chúng ta nghe nói niệm dấy đừng theo, rồi nh́n niệm hoài. Nh́n niệm như vậy là chiếu hay không chiếu? Chiếu. V́ vậy niệm dấy lên liền đè xuống. Người nào ngồi nh́n niệm như vậy, một giờ đầu sẽ nặng trĩu, không khéo thành đau đầu. Cho nên trong khi tu, chiếu mà không chiếu, chỉ bàng bạc nhẹ nhàng như mặt trời trong hư không thôi. Tâm không khởi niệm chiếu nhưng rất sáng, niệm lên vẫn thấy chớ không phải không thấy.

Tuy nhiên, nói không nh́n chớ không phải thả lỏng, chỗ này rất khó. Nhiều người nghe nói không nh́n liền thả lỏng, mặc t́nh nó làm ǵ th́ làm, như vậy tu làm chi? Không nh́n mà không thả lỏng nghĩa là tâm lúc nào cũng biết, do biết nên niệm lên không chạy theo. Nếu niệm không lên th́ cứ như vậy biết thôi, chớ không phải chăm chăm nh́n. Nhiều người chăm chăm nh́n nên nghe tim đập, nghe nghẹn thở, đó là bệnh. V́ vậy ai ngồi thiền mà tim đập quá th́ biết dụng công nhiều, chăm chỉ quá. Cho nên chỗ này phải nhớ thật kỹ.

Không phải là việc của sức phản tỉnh, vậy mà cứ quay lại soi hoài. Tuy không phải quay lại mà vừa dấy niệm liền thấy. Như ánh sáng mặt trời bủa khắp, không cố t́nh soi rọi chỗ nào, mà sáng tất cả mọi nơi. Khi đến đây th́ không chỗ nương tựa tức là làm hạnh của chư Phật. Tu tới chỗ này không c̣n chỗ nương tựa nữa, tức đang tu theo hạnh chư Phật. Tổ dẫn kinh Kim Cang làm chứng “nên không có chỗ trụ mà sanh tâm kia”, Lục Tổ và ngài Trần Thái Tông cũng thấy chỗ này.

Như vậy chúng ta thấy lời dạy trong kinh và chỗ thấy của chư Tổ rất trùng hợp, sự tu không mất gốc. Chúng ta tu mà không nắm vững, nên sanh bệnh này tật nọ, rồi đổ thừa tu thiền sanh bệnh. Khi không có niệm đối đăi dấy lên, lúc đó tâm ḿnh sáng, biết một cách bàng bạc, giống như ánh sáng mặt trời trong hư không trùm khắp. Cái bàng bạc trùm khắp đó không chiếu một chỗ nào, mà không lúc nào không chiếu. Bởi nó sáng biết nên cái ǵ dấy động liền biết. Nếu tâm của chúng ta được như vậy là tu hạnh của chư Phật, không c̣n dính kẹt. Cho nên kinh nói “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”.

 Đây là pháp thân thanh tịnh của ông, gọi là A-nậu Bồ-đề. Chúng ta thử ngồi lại tu, mới thấy ḿnh có sẵn pháp thân. Chỉ ba phút, năm phút tâm không dấy niệm đối đăi duyên theo cảnh, lúc đó vẫn thường tri giác nên gọi là pháp thân. Pháp thân tuy có sẵn, nhưng vừa có niệm đối đăi dấy lên là nó phủ che. V́ vậy lặng niệm lại th́ pháp thân hiện ra, chớ không đâu hết.

Pháp thân ở đâu mà ngộ? Nó không có chỗ nơi. Cho nên các Tổ nói “ngộ rồi đồng không ngộ”. Không có cái thứ hai. Pháp thân không hai, nó sẵn từ trong. Cái có sẵn đó là cái của chính ḿnh hay nói chính xác hơn th́ không có chữ “của” nữa. Thêm một chữ là trật. Cái chính ḿnh mà chúng ta quên, chạy theo đối đăi hai bên thành ra khuất lấp. Bây giờ dừng đối đăi hai bên th́ cái đó hiện rơ ra. Khi nó hiện ra, chúng ta biết rơ để sống, đó là sống trở lại pháp thân. C̣n thấy ngờ, không biết phải ḿnh không, rồi chạy theo niệm, đó là bỏ quên nó. Cho nên Tổ dẫn kinh nói “người cầu Vô thượng chánh đẳng chánh giác làm sao an trụ tâm”, Phật trả lời “không trụ sắc sanh tâm, không trụ thanh hương vị xúc pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”. Kỳ tâm là tâm vô thượng Bồ-đề, không dính sắc thanh hương vị xúc, đó là tâm vô thượng Bồ-đề.

Chúng ta có Phật mà không chịu sống với Phật lại đi sống với ma, đó là lỗi lớn. Sống với ma rồi sợ ma, chạy đi t́m Phật. Không gặp Phật thật chạy t́m Phật giả lạy, như vậy cứ quanh quanh quẩn quẩn. Thật đáng thương! V́ vậy ở đây chư Tổ chỉ thẳng lối tu trực chỉ, không t́m kiếm ở đâu hết, đừng để tâm dính kẹt hai bên. Tâm không dính kẹt hai bên mà hằng tri hằng giác là Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Tâm chân thật không phải xa, xa là v́ chúng ta không chịu nhận. Hồi xưa không có ai chỉ dạy nên không biết, bây giờ có người chỉ dạy rồi chúng ta phải khéo nhận, khéo biết.    

Nếu không lănh hội được ư này, dù ông học được biết nhiều, siêng năng khổ nhọc tu hành, áo cỏ ăn cây, không biết tâm ḿnh đều gọi là hạnh tà, quyết định sẽ làm quyến thuộc của thiên ma, tu hành như thế sẽ có ích lợi ǵ?

Ngài trách nếu người không lănh hội được ư trên, dù học làu làu Tam tạng kinh điển, siêng năng khổ nhọc tu hành, lấy cỏ kết thành áo, ăn lá cây mà không biết tâm ḿnh, đều gọi là hạnh tà. Học giỏi, hiểu nhiều, tu khổ hạnh mà không biết tâm ḿnh, đều gọi là hạnh tà. Chỗ này chúng ta phải lưu ư. Ḿnh có tâm ham học, ham tu là rất tốt, người thế gian rất kính nể. Nhưng đối nơi chỗ cứu kính, nếu không nhận ra bản tâm th́ tất cả các việc trên đều là hạnh tà. Nếu là hạnh tà quyết định sẽ làm quyến thuộc Thiên ma. Tu hành để cầu giải thoát sanh tử, mà như vậy th́ có lợi ích ǵ.  

 

CHÁNH VĂN:

 

Chí Công nói: “Phật vốn tâm ḿnh làm, đâu được trong văn tự cầu.”

 

GIẢNG:

 

Phật là từ tâm ḿnh mà thành, chớ không phải trong chữ nghĩa. Nếu lấy chữ nghĩa làm sở đắc, đó là sai lầm.

 

CHÁNH VĂN:

 

Dù ông học được tam hiền tứ quả, thập địa măn tâm, cũng chỉ là ngồi trong phàm thánh, không thấy đạo.

 

GIẢNG:

 

Được tam hiền tứ quả, là bậc nào? Nếu Bồ-tát th́ thập tín, thập trụ, thập hạnh là tam hiền. Tứ quả là Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán. Được những quả vị này cho tới thập địa măn tâm cũng c̣n ngồi trong đối đăi phàm thánh, chớ chưa phải chỗ chân thật. Đă là phàm thánh đối đăi th́ không thấy được đạo. Không thấy được đạo tức không nhận ra Phật tánh hay pháp thân của chính ḿnh.

 

CHÁNH VĂN:

 

Các hạnh vô thường là pháp sanh diệt, thế lực hết th́ tên lại rơi xuống, chiêu cảm quả đời sau không như ư. Đâu bằng môn thật tướng vô vi, một phen vượt lên thẳng đến địa vị Như Lai. V́ ông không thể như người kia nên cần đến hóa môn của cổ nhân, học hiểu cho rộng.

 

GIẢNG:

 

Ở đây Ngài nói thật rơ ràng, nếu c̣n nằm trong phàm thánh th́ chưa thấy đạo. V́ tam hiền, thập thánh là đối với phàm, cho nên c̣n hai bên đối đăi, c̣n đối đăi là không thấy đạo. Thấy đạo tức thấy được pháp thân. Tất cả hạnh là tướng sanh diệt nên vô thường. Vô thường sanh diệt có ngày phải hết. Nếu hết th́ rơi trở lại, như mũi tên bắn lên thật cao, nhưng khi hết sức đẩy nó rớt xuống. Chỉ thấy được cái thật của ḿnh mới không lên, không xuống. Cốt lơi của người học đạo là thấu suốt được thật tướng vô vi. Có thế mới một phen vượt lên thẳng địa vị Như Lai.

V́ ông không thể như người kia nên cần đến hóa môn của cổ nhân, học hiểu cho rộng. Người kia là người nào? Người kia là người lên thẳng địa vị Như Lai. Do không thể như người kia nên cần đến hóa môn của cổ nhân, học hiểu cho rộng. Hóa môn là cửa giáo hoá, có học nhiều hiểu rộng mới truyền đạo được. Nếu đủ khả năng đi thẳng lên địa vị Phật th́ không phải quanh co.

 

CHÁNH VĂN:

 

Chí Công nói: “Không gặp minh sư xuất thế, uổng uống pháp dược đại thừa.”

 

GIẢNG:

 

Nếu chúng ta ra đời không gặp minh sư chỉ dạy th́ uổng uống pháp dược đại thừa, v́ không thể hiện được tâm chân thật.

 

CHÁNH VĂN:

 

Ông hiện nay trong tất cả thời đi đứng ngồi nằm chỉ học vô tâm, lâu ngày sẽ thật đắc.

 

GIẢNG:

 

Trong tất cả thời, từ sớm đến chiều đi đứng nằm ngồi, chỉ cần vô tâm. Vô tâm là vô tâm nào? Người ta dễ lầm chữ vô tâm lắm, tưởng vô tâm như gỗ như đá. Ở đây vô tâm là vô cái tâm sanh diệt, trong bốn oai nghi đều không dấy niệm sanh diệt, gọi là vô tâm. Nếu không có niệm sanh diệt, lâu ngày sẽ thật đắc được pháp vô sanh.

 

CHÁNH VĂN:

 

V́ ông lực lượng kém không thể đốn siêu, cần được ba năm, năm năm hoặc mười năm phải được chỗ vào, tự nhiên hội giải.

 

GIẢNG:

 

Nếu khả năng chúng ta kém không thể tiến thẳng được th́ cần cù tu hành ba năm, năm năm, mười năm cũng được chỗ vào.

 

CHÁNH VĂN:

 

Nếu ông không thể như thế, thiết tha đem tâm học thiền học đạo, Phật pháp có ǵ liên hệ?

 

GIẢNG:

 

Nếu không được như vậy, dù đem tâm thiết tha học thiền học đạo cũng không có ǵ liên hệ với Phật pháp.

 

CHÁNH VĂN:

 

Cho nên nói: “Như lai nói ra đều v́ giáo hóa người, như nắm lá vàng bảo là vàng để vỗ trẻ con khóc, quyết định không thật.”

 

GIẢNG:

 

Chúng ta không đi thẳng ngay chỗ chân thật, mà cứ bám vào giáo lư, bám vào kinh điển, nên Ngài dẫn trong kinh nói: “Như lai nói ra đều v́ giáo hóa người, như nắm lá vàng bảo là vàng để vỗ trẻ con khóc, quyết định không thật.” Giáo pháp của Phật là giáo pháp chân thật hay giáo pháp để an ủi người? Chỗ này chỗ hơi khó nói. Lâu nay chúng ta tán thán lời Phật dạy là chân thật, cứu kính, không ǵ làm lay chuyển được. Nhưng ở đây Phật nói, giáo lư của Ngài như nắm lá vàng nói là vàng để vỗ con nít khóc thôi, chớ không phải vàng thật. Cho nên nói tới chỗ cuối cùng th́ tất cả lời Phật nói là phương tiện, chớ không phải cứu kính. Cứu kính th́ phải vượt qua lời nói.

Như bây giờ chúng ta đọc Bát-nhă chiếu kiến ngũ uẩn giai không, đó là lời bên ngoài, thành hay không do tự ḿnh làm. Nếu lấy lời bên ngoài làm vàng ngọc, rồi đọc hoài có thành không? Như vậy mới thấy Phật Tổ dạy chúng ta phải làm, chớ không phải nói. Song lâu nay đa số người kẹt lời nói, nên học đạo hành đạo bằng cách đọc tụng lại lời của Phật, cho đó là trung thành với Phật.

Phật dạy giáo lư để khuyên chúng ta tu. Nếu đạt được lư th́ phải quên lời, cũng như qua sông phải bỏ bè. Giáo lư là ngón tay chỉ mặt trăng, thấy mặt trăng rồi phải bỏ ngón tay. Giáo lư là phương tiện mà lâu nay chúng ta lại lấy làm cứu kính. Suốt một đời tu cứ đọc hoài lời Phật. Một ngày tụng ba biến, bảy biến kinh Kim Cang hay nửa bộ Pháp Hoa… như vậy cho là tu kỹ. Đọc tụng mà không hành đúng lời Phật dạy, đó chỉ là mắc kẹt trên phương tiện, không thấu triệt được chỗ cứu kính.

 

CHÁNH VĂN:

 

Nếu có thật đắc th́ không phải người khách trong Tông môn của ta, vả lại cùng bản thể của ông có ǵ liên hệ?

 

GIẢNG:

 

Nếu người bám vào giáo điển cho là thật đắc th́ không phải ở trong tông môn nhà Thiền, cũng không liên hệ ǵ tới bản thể của ḿnh. V́ Phật tánh là bản thể, cái bên ngoài làm sao gọi là bản thể của ḿnh được. V́ vậy không thể nói trong tông môn của ta, cũng không phải bản thể của ông.

 

CHÁNH VĂN:

 

Cho nên kinh nói: “Thật không có chút pháp có thể được gọi là A-nậu Bồ-đề.”

 

GIẢNG:

 

Kinh Kim Cang nói “thật không có chút pháp có thể được gọi là A-nậu Bồ-đề”. A-nậu Bồ-đề là vô thượng chánh đẳng chánh giác. Không có pháp nào gọi là vô thượng chánh đẳng chánh giác hết. V́ vô thượng chánh đẳng chánh giác là tâm. Đă là tâm ḿnh th́ không phải pháp bên ngoài.

 

CHÁNH VĂN:

 

Nếu như hội được ư này mới biết Phật đạo ma đạo đều lầm.

 

GIẢNG:

 

Nếu người thấu suốt được nghĩa này th́ Phật đạo ma đạo đều lầm. Sao vậy? Ma đạo lầm th́ phải, Phật đạo v́ sao lầm? V́ Phật đạo ma đạo là cũng là hai bên, mà hai bên th́ không phải thể chân thật. Nếu có lối ở ngoài, dù phải quấy ǵ cũng là lối ở ngoài, không phải cái thật của ḿnh. V́ vậy nên nói đều lầm.

 

CHÁNH VĂN:

 

Chỗ xưa nay thanh tịnh trong sáng, không tướng vuông tṛn, lớn nhỏ, dài ngắn v.v… Vô lậu vô vi không mê không ngộ, rơ ràng thấy không một vật, không người cũng không Phật, “hạt bọt trong biển đại thiên sa giới, tất cả Thánh hiền như điện chớp”.

 

GIẢNG:

 

Ở đây nói lên chỗ chân thật của ḿnh xưa nay thanh tịnh, trong sáng, không tất cả tướng vuông tṛn, lớn nhỏ, dài ngắn, vô lậu vô vi, không sanh không diệt, không hai bên mê ngộ. Thấy không một vật là đến chỗ cứu kính, rơ ràng không có một vật. Không người cũng không Phật nữa. Ở đây dẫn bài “Chứng đạo ca” của ngài Huyền Giác hạt bọt trong biển đại thiên sa giới, tất cả Thánh hiền như điện chớp, những h́nh ảnh ấy đều tạm bợ hư ảo, không có ǵ thật.

 

CHÁNH VĂN:

 

Tất cả không bằng tâm chân thật pháp thân, từ xưa đến nay cùng Phật, Tổ đồng một loại, chỗ nào thiếu kém một mảy lông? Đă hội được ư như thế cần phải cố gắng trọn một đời này thôi, hơi thở ra không bảo đảm trở vào!

 

GIẢNG:

 

Tất cả mọi thứ đều không bằng tâm chân thật tức pháp thân của ḿnh. Tâm chân thật đó từ xưa đến nay cùng Phật, Tổ không khác, không thiếu kém một mảy lông. Chư Phật có tâm chân thật, chúng ta cũng có tâm chân thật, tâm Phật tâm chúng ta không khác. Chúng ta biết được như vậy rồi phải cố gắng buông xả, không nên mắc kẹt hai bên.

  Nói buông xả ai nghe cũng dễ quá, buông xả là bỏ hết đi. Nhưng trên thực tế buông xả dễ hay khó? Có cái đang dính mắc, biểu buông cho nhẹ nhàng, nhất là đang gánh một gánh thật nặng, bảo quăng xuống đi, quăng xuống được th́ khỏe, thảnh thơi làm sao. Vậy mà làm không dễ. Thành ra buông bỏ là lẽ thực mà chúng ta không can đảm nên buông không được. Nếu gánh một gánh đất hay một gánh ǵ hôi hám, ai bảo buông đi chúng ta thấy dễ, nhưng nếu gánh một gánh đồ quí mà bảo buông th́ không dám buông. Như vậy chúng ta có thể buông được cái xấu dở, c̣n cái hay tốt th́ không thể buông.

Ở đây Tổ bảo tất cả tâm tốt xấu hay dở đều buông. Bởi v́ tốt xấu hay dở đều là tướng động, tướng sanh diệt. Nếu ḿnh bám vào một tướng nào cũng đều là gốc của sanh diệt. Cho nên buông hết cái sanh diệt th́ cái chân thật rơ ràng thường biết mới hiện ra. Do đó nhà Phật bảo buông tất cả để được tất cả hoặc nói ngược lại được tất cả là mất tất cả. Sao lạ vậy? Bây giờ nói như thế gian làm đâu được đó. Năm năm, mười năm, hai ba chục năm nhà lầu xe hơi đủ hết gọi là được tất cả. Nhưng tới khi thở kh́ ra không hít vô th́ sao? Mất tất cả. Tất cả cái được đều mất, bởi v́ chúng cung cấp cho thân này. Có cái ǵ không v́ thân này đâu, như sắm xe để ḿnh đi, cất nhà để ḿnh ở, cái ǵ cũng để cho thân này. Khi thân này hoại th́ tất cả cái được ấy đều mất hết. Đó là được tất cả mà mất tất cả. C̣n chúng ta buông tất cả cái sanh diệt, tạm bợ phải quấy, hơn thua, để tâm chân thật hiện tiền. Ấy là bỏ tất cả mà được tất cả, bởi v́ trong cái chân thật đă đầy đủ hết rồi. Vậy buông tất cả sẽ được tất cả không sướng hơn sao.

Người tu mới nh́n thấy như thiệt tḥi, khờ dại. Nhưng sự thực trong cái khờ dại ấy có cái vi diệu bên trong, chớ không phải khờ dại như mấy chú khờ khờ ngoài đường. Người tu sống thâm trầm trong nội tâm, chớ không chạy theo h́nh tướng bên ngoài.

Đă hội được ư như thế, cần phải cố gắng trọn một đời này thôi, ngay trong đời phải làm cho tṛn; hơi thở ra không bảo đảm trở vào. Một câu nhắc này buồn làm sao, thở kh́ ra nhắm mắt đi xuôi. Như vậy c̣n mong chờ cái ǵ mà không cố gắng. Cố gắng làm ǵ? Không phải cố gắng cuốc đất hay cất nhà nhiều, mà cố gắng buông tất cả. Đó là chỗ thiết yếu. Buông tất cả sẽ được tất cả, có thiệt tḥi ǵ đâu mà không chịu buông. Những người hay phân biệt hơn thua phải quấy, hay phân biệt tốt xấu v.v… dễ buông hay khó? Khó buông.

Phật dạy trong kinh Kim Cang “nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điện, ưng tác như thị quán”. Thế gian có ǵ thật đâu, không thật th́ buông dễ chớ tại sao lại khó? Chúng ta nói buông nhưng nghe khen cũng thấy thật, nghe mắng cũng thấy thật, nên buông không được. Muốn buông phải có trí tuệ Bát-nhă nh́n các pháp như huyễn như hóa. Thấy như vậy th́ buông không khó khăn, buông được đời tu mới có giá trị. Nếu buông không được th́ hơi thở ra không hít vào uổng đi một đời, tất cả đều mất hết.

 

CHÁNH VĂN:

 

Hỏi: Lục Tổ không hiểu kinh sách sao được truyền y làm Tổ. Thượng tọa Tú là Thủ tọa của năm trăm người, làm thầy giáo thọ, giảng được ba mươi hai bản kinh luận, tại sao không được truyền y?

 

GIẢNG:

 

Câu hỏi này có lẽ một ít chư tăng, chư ni cũng thắc mắc, một ông nhà quê dốt nát mà được truyền y, c̣n một vị thông minh giảng kinh thao thao lại không được, tại sao như vậy?

 

CHÁNH VĂN:

 

Đáp: V́ kia (Tú) có tâm là pháp hữu vi, có tu có chứng cho là phải. Ngũ Tổ trao cho Lục Tổ, Lục Tổ khi ấy chỉ nhằm khế hội, được thầm trao ư thậm thâm của Như Lai. Thế nên truyền y cho Ngài, ông chẳng thấy nói:

 

Pháp bản pháp vô pháp

Vô pháp pháp diệc pháp

Kim phó vô pháp thời

Pháp pháp hà tằng pháp

 

Dịch:

 

Pháp bản pháp là không pháp

Pháp không pháp cũng là pháp

Nay trao cái không pháp này

Mỗi pháp đâu từng là pháp

 

GIẢNG:

 

Pháp bản pháp vô pháp, pháp bản là pháp gốc, pháp chân thật, pháp đó vốn không pháp. Chữ “không pháp” này hay vô cùng. Khi Lục Tổ tŕnh bốn câu kệ cho Ngũ Tổ, trong có câu “bản lai vô nhất vật”, vật là pháp, xưa nay không có một pháp, Lục Tổ thấy đến chỗ này nên Ngũ Tổ mới cho vào thất giảng kinh Kim Cang rồi truyền y bát. Đệ tử của Lục Tổ là Nam Nhạc Hoài Nhượng, khi tới, Tổ hỏi một câu hết sức tầm thường: “Ông đến có mang vật ǵ không?” Nghe tầm thường như vậy mà tám năm sau Ngài mới trả lời nổi “nói một vật tức không trúng”. Tổ hỏi thêm: “Có tu chứng không?” Đáp: “Tu chứng chẳng phải không, nhiễm ô không thể được.” Sau đó được Tổ ấn chứng.

Nói “một vật không trúng” giống như Tổ thấy “bản lai vô nhất vật”. Nói một vật không trúng tức là không có một vật. Không có một vật là không ngơ sao? Cho nên Tổ hỏi gạn lại “có tu chứng không”, trả lời “tu chứng chẳng phải không”, nhưng “nhiễm ô không thể được”. Như vậy để thấy nó không phải là cái không ngơ. Chính chỗ đó nên nói pháp gốc là vô pháp, tức không có pháp ǵ hết. Bởi v́ có một pháp là có một vật, mà có một vật là có tướng sanh diệt. Tâm chân thật vượt ngoài tướng sanh diệt, làm sao có một pháp.

Vô pháp pháp diệc pháp, như trên đă nói bỏ tất cả là được tất cả. Không một pháp mà là tất cả pháp, bởi v́ không có pháp nào ngoài nó. Như vậy pháp gốc không phải pháp, nhưng không có pháp nào ngoài nó.

Kim phó vô pháp thời, nay trao cái không pháp này, nói trao nhưng sự thực có ǵ đâu để trao. Thầy thấu suốt như vậy, tṛ hiểu đúng chỗ của thầy gọi là trao, chớ có ǵ để trao đâu. V́ vậy nói: “pháp pháp hà tằng pháp”, tức pháp pháp đâu từng là pháp. Chỗ chân thật này không thể diễn tả được, chỉ tạm nhắc tới nhắc lui hai trường hợp như sau:

Trường hợp thứ nhất dễ nhớ dễ thấy nhất là một giờ nửa giờ chúng ta ngồi dưới gốc cây một ḿnh, tâm rỗng rang, không dính mắc ǵ hết, lúc đó có một vật nào không? Không có một vật, không dính là không có vật. Lúc ấy có tri giác không? Rỗng rang nhưng tri giác hiện tiền. Chỉ không một vật vướng bận trong ḷng, lúc đó rỗng rang, tri giác rơ ràng. Thế th́ có ai không được một phút hai phút như vậy, đủ biết chúng ta có cái chân thật sẵn đây rồi. Nhưng nếu sực nhớ chuyện này chuyện kia liền quên nó. Đó là nói trường hợp ngồi thảnh thơi ngắm trời ngắm mây, hoặc ngồi dưới cội cây chơi như vậy mà có những phút rất tỉnh.

Trường hợp thứ hai là khi ngồi thiền. Khi ngồi yên tỉnh, chúng ta thấy không có niệm nào hết, lúc đó đâu có pháp ǵ. Không có một pháp nhưng tất cả động tịnh bên ngoài, ḿnh đều biết hết. Không có một vật mà vẫn hằng giác tri th́ Phật Tổ chỉ dạy ḿnh tu đâu phải là chuyện bâng quơ, mà rất thực tế. Có những giờ phút ngồi chơi hoặc ngồi thiền, chúng ta nhận được rơ ràng như vậy nhưng v́ nó bàng bạc, rỗng rang nên dễ quên.

Tôi thường ví dụ như chúng ta đang ngồi chơi ngó trời trong veo, thấy cũng thích thích. Nhưng đàng kia có chiếc máy bay, bấy giờ ḿnh xoay lại nh́n chiếc máy bay mà quên bầu trời trong veo. Chừng nào máy bay bay qua mất rồi, họa chăng ta mới nh́n lại bầu trời trong veo cũ. Như vậy cái nào hấp dẫn hơn? Qua h́nh ảnh ví dụ này chúng ta thấy cụ thể vô cùng. Ngồi nh́n bầu trời trong veo, tâm yên ổn, thời giờ trôi qua ḿnh không quan tâm. Nhưng nhớ chuyện vui buồn th́ chạy theo không c̣n nhớ tới bầu trời trong veo. Một khi vui buồn trỗi dậy, nó dây chuyền hết cái này tới cái kia, gỡ được nút này lại sanh nút khác, không yên. Vậy mà chuyện buồn vui dường như hấp dẫn hơn, c̣n bầu trời lặng lẽ thênh thang th́ dễ quên. Bao giờ chúng ta nh́n bầu trời trong không thấy chán, dù có chim bay hay máy bay bay cũng kệ, chỉ nhớ bầu trời trong veo th́ tiến khá rồi. Tuy cũng có chim bay qua, nhưng ḿnh không quan tâm, như thế khả dĩ không đánh mất cái quí báu có sẵn nơi ḿnh.

 

CHÁNH VĂN:

 

Nếu hội được ư này mới là kẻ xuất gia, mới là tu hành tốt. Nếu không tin tại sao Thượng tọa Minh chạy đến ngọn Đại Dữu t́m Lục Tổ, Lục Tổ hỏi: “Ngươi đến cầu việc ǵ, v́ cầu y v́ cầu pháp?” Thượng tọa Minh nói: “Không v́ y mà đến, chỉ v́ pháp mà đến.” Lục Tổ bảo: “Ông hăy tạm thời thu niệm, thiện ác đều chớ nghĩ tính.” Thượng tọa Minh nhận lời này. Lục Tổ bảo: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, chính khi ấy hiện lại bộ mặt thật của Thượng tọa Minh khi cha mẹ chưa sanh.” Thượng tọa Minh ngay câu nói đó bỗng nhiên thầm khế hội, bèn lễ bái thưa: “Như người uống nước, lạnh nóng tự biết, tôi ở trong hội Ngũ Tổ uổng dùng công phu ba mươi năm, ngày nay mới biết lỗi trước.”

 

GIẢNG:

 

Chỉ một câu nói mà Thượng tọa Minh nhận ra được cái chân thật của ḿnh. Song muốn tŕnh bày chỗ chân thật ấy, Ngài nói như kẻ uống nước lạnh nóng tự biết, không diễn tả cho người khác biết được. Chúng ta có phần chớ không phải vô phần, nhưng v́ không khéo nhận nên có cũng như không.

 

CHÁNH VĂN:

 

Lục Tổ bảo: “Khi đến đây mới biết Tổ sư từ Ấn Độ đến, chỉ thẳng tâm người thấy tánh thành Phật, không ở nói bàn.”

 

GIẢNG:

 

Lục Tổ bảo có nhận được rồi mới biết Tổ sư từ Ấn Độ sang chỉ thẳng tâm người thấy tánh thành Phật, không ở nói bàn. Nghĩa là phải nhận ngay được tâm ḿnh là Phật, không phải suy luận, nói bàn mà biết được.

 

CHÁNH VĂN:

 

Đâu không thấy Tổ A-nan hỏi Tổ Ca-diếp: “Thế Tôn ngoài truyền y Kim Lan, c̣n riêng truyền pháp ǵ?” Ca-diếp gọi: “A-nan.” A-nan đáp: “Dạ.” Ca-diếp bảo: “Cột phướn trước chùa ngă.” Đây là chỗ bộc lộ của Tổ sư vậy. Ngài A-nan ba mươi năm làm thị giả chỉ v́ trí tuệ đa văn bị Phật quở: “Ngươi ngàn ngày học tuệ, không bằng một ngày học đạo. Nếu không học đạo, một giọt nước cũng không tiêu.”

 

GIẢNG:

 

Tổ Ca-diếp khi nghe Tổ A-nan hỏi “Thế Tôn ngoài truyền y Kim Lan, c̣n pháp ǵ khác không”, Tổ Ca-diếp chỉ gọi “A-nan”, A-nan đáp “dạ”, Tổ Ca-diếp bảo “cột phướn trước chùa ngă”. Đó là chỉ cho ngài A-nan pháp mà Phật truyền riêng cho Ngài. Phật truyền pháp ǵ? Truyền cây phướn trước chùa ngă, phải không? Người xưa đă chỉ rơ cho người sau, nếu không khéo chúng ta không sao nhận ra được. Bởi vậy nên đa số cứ suy nghĩ, tại sao cây phướn trước chùa ngă. Suy nghĩ như vậy biết chừng nào ra.

Ngài A-nan theo Phật, nổi tiếng là đa văn, tức trí tuệ học giỏi nhớ nhiều, rốt cuộc bị Phật quở: “Ngươi ngàn ngày học tuệ không bằng một ngày học đạo. Nếu không học đạo một giọt nước cũng không tiêu.” Học tuệ là học ǵ? Học đạo là học ǵ? Tuệ đây là văn tuệ, tư tuệ. C̣n đạo là tánh thật của chính ḿnh. Nói thấy đạo là nhận ra bản tánh chân thật của chính ḿnh. Chúng ta biết quay lại nhận ra tánh chân thật đó là học đạo, c̣n cứ theo chữ nghĩa học thuộc ḷng bài này bài nọ, đó là học tuệ. Ở đây Phật dạy nếu không học đạo, một giọt nước của thí chủ cũng khó tiêu. Cho nên người tu phải học đạo. Bây giờ đa số tu sĩ chịu học ǵ? Chịu học tuệ. Lâu lâu thi lên cấp này cấp nọ, giỏi nữa tới bằng Tiến sĩ, oai quá chừng. Đó là học tuệ, không phải nhân giải thoát. Nhân giải thoát là trở về chính ḿnh.

 

CHÁNH VĂN:

 

Hỏi: Thế nào được không rơi vào giai cấp?

Đáp: Chỉ hằng ngày ăn cơm mà chưa từng nhai một hạt gạo trắng, trọn ngày đi mà chưa từng đạp một cân đất, cùng khi ấy không có tướng nhân, tướng ngă…, trọn ngày không rời tất cả việc mà không bị các cảnh mê hoặc, mới gọi là người tự tại.

 

GIẢNG:

 

Ăn cơm mà chưa từng nhai một hạt gạo trắng, nghĩa là sao? Câu này mang ư nghĩa ăn mà không dính vị ngon vị dở, v́ vậy ăn cả ngày mà không kẹt vị. Trọn ngày đi mà chưa từng đạp một cân đất là sao? Nghĩa là đi mà không dính với cây cối, cỏ hoa, không dính với tất cả những ǵ trên đất. Khi ấy không thấy có ḿnh thật, có người thật v.v…

Trọn ngày không rời tất cả việc mà không bị các cảnh mê hoặc, chúng ta nghe nói ăn mà không nhai nát hạt gạo, đi mà chưa từng đạp cân đất, không có tướng nhân, tướng ngă tưởng là không làm ǵ hết, nhưng ở đây Tổ dạy trọn ngày không rời tất cả việc là việc ǵ cũng làm, nhưng đặc biệt không bị các cảnh mê hoặc. Làm tất cả mà không dính tất cả, dính là bị mê hoặc. Như vậy ḿnh nên làm hay không nên làm? Khi không việc th́ nghỉ, có việc th́ làm, làm tất cả mà đừng bị việc kéo lôi, làm cho ḿnh mắc kẹt trong đó. Mới gọi là người tự tại, ai được vậy mới là tự tại.

Chúng ta có bệnh, khi không làm th́ ai kêu làm nói để tôi tu, không chịu làm ǵ hết. Nghe cũng phải, để cho rảnh tu, chớ bắt làm hoài làm sao tu. Như vậy làm có nghĩa là không tu. Nếu ai cũng sợ làm tu không được th́ chắc tới giờ múc nước lạnh uống cho rồi, làm ǵ có cơm ăn. Cho nên phải hiểu rằng không phải ngồi không mới gọi là tu. Chúng ta làm tất cả việc mà không bị cảnh mê hoặc, lôi kéo mới là người tự tại. Làm th́ cứ làm, mà không bị việc làm cho kẹt là đúng.

 

CHÁNH VĂN:

 

Lại, lúc nào mỗi niệm đều không thấy tất cả tướng, chớ nhận ba thời trước sau, quá khứ không đi, hiện tại không dừng, vị lai không đến, ngồi ngay an ổn mặc t́nh không câu chấp, mới gọi là người giải thoát.

 

GIẢNG:

 

Người giải thoát là không dính tất cả niệm, không kẹt ba thời, không bị tất cả t́nh chấp trói buộc.

 

CHÁNH VĂN:

 

Cố gắng! Cố gắng! Trong môn này ngàn người, muôn người chỉ được ba người, năm người.

 

GIẢNG:

 

Ngài nói trong môn học này, ngàn người muôn người chỉ được năm ba người. Sao khó lắm vậy. Khó hay dễ? Không khó, nó dễ nhưng người ta không chịu dễ, bảo bỏ niệm mà không chịu bỏ cứ giữ hoài. Giữ cái nghĩ lăng xăng lộn xộn đau đầu hay thảnh thơi? Than đau đầu mà kêu bỏ không chịu bỏ. Bảo làm việc nhẹ nhàng lại nói khó, c̣n việc khó khăn th́ cho là dễ, thật vô lư. Khó là v́ chúng ta không can đảm, không dứt khoát, buông là buông, không cho nó tái lại, như vậy lần lần mới hết. Quí vị buông mà tiếc hoài. Tâm dính kẹt sao dễ vướng quá, chỉ nghe thoang thoáng ǵ đó là thấy khó chịu rồi. Ví dụ ḿnh không làm việc ấy, bỗng ai đi ngang nói nho nhỏ, nghe động tới tên ḿnh th́ hơi khó chịu rồi, muốn t́m hiểu xem họ nói cái ǵ? Họ khen hay chê ḿnh? Chưa kêu tận mặt chỉ nói nho nhỏ có tên ḿnh là muốn điều tra rồi, như vậy dính hay không dính? Mới phớt qua thôi, chưa gắn vô mà ḿnh đă dính, huống nữa chỉ mặt chú này hư xấu th́ thôi ba bốn ngày bỏ ăn bỏ ngủ. Đó là v́ chúng ta dễ dính quá, nên gỡ khó. Nếu không thèm dính th́ buông rất dễ, có khó ǵ đâu. Như vậy lỗi buông không được là lỗi tại ai? Tại ḿnh giữ kềm măi nên không mất.

 

CHÁNH VĂN:

 

Nếu không làm việc này, ắt có ngày thọ ương. Cho nên nói: “Cố gắng đời nay phải xong xuôi, c̣n đâu nhiều kiếp mang tai họa.”

 

GIẢNG:

 

Cố gắng đời nay giải quyết cho xong, th́ khỏi nhiều kiếp mang tai họa. Nếu không chịu giải quyết ngay đời này th́ những kiếp sau phải mang họa, bị lôi kéo trở lại sanh nơi này, nơi kia chịu nhiều khổ nhọc.

 

 

 

]

 

 

THIỀN TÔNG VIỆT NAM