| 
       
      
      PHẦN 2 
      
      Bây giờ trở 
      lại cái ví dụ tôi nói hồi nãy. Con mắt không thể thấy, cái thấy của chính 
      (mình) con mắt tôi. Nhưng mà tôi có thể biết, tôi có cái thấy hay không? 
      Biết được không?  
      
      Nếu tôi thấy 
      được quí vị, thấy được tất cả đồ vật chung quanh, tức tôi biết ngay nơi 
      tôi. Tự thầm nhận tôi có con mắt sáng. Trái lại, nếu tôi ngồi đây mà tôi 
      không thấy tất cả, tức tôi không có con mắt sáng.  
      
      Như vậy, khi 
      thấy được tất cả sự vật liền nhận ra mình có con mắt sáng, chớ không phải 
      thấy được con mắt sáng của chính mình. Cũng như vậy, khi chúng ta có những 
      cái diệu dụng của tâm, biết được người, biết được cảnh, nghe được tiếng. 
      v.v... 
      
      Tất cả cái 
      diệu của nó phát ra. Chúng ta nhận biết ngay nơi mình có cái tâm thể, cái 
      tâm thể ấy rỗng rang, chớ không phải thấy được tâm thể. Vì vậy ở dưới mới 
      nói là “Thầm Khế Hội” tức là thầm khế mà thôi chứ không có chỉ bảo ra 
      được. 
      
      Cho nên hiểu 
      được cái đó rồi thì biết được mình có tâm thể. Tâm thể đó nó không có 
      tướng mạo. Bởi không có tướng mạo nên nói: Cái gì là tâm thể, thì không 
      thể chỉ được. Tuy nhiên, không chỉ được mà chẳng phải không có tâm thể. 
      Chớ bảo, vì chỉ không được nên nói không có tâm. Nói như vậy có đúng 
      không? 
      
      Cũng như, vì 
      chỉ gió không được, nên nói: không có gió, được không? Như vậy để biết 
      rằng, không vì chỉ chỗ nơi của gió không được, mà nói không có gió. Không 
      vì chỉ tướng trạng tâm không được, mà nói không có tâm. Vậy người biết rõ 
      tâm thể nó rỗng rang không có tướng mạo. Cũng như biết gió nó trùm khắp mà 
      không có tướng mạo, thì người đó không bao giờ nói: không. Cho nên nói 
      “chẳng có tưởng không”. Thực tế là trước mắt mà người ta không thấy. 
      
      “Nếu dùng ngôn 
      ngữ diễn tả Tâm, cũng chẳng được tâm. Vì ngôn ngữ vốn là tâm, nên diễn tả 
      nó vẫn không được. Không ngôn ngữ cũng vốn là Tâm. Không diễn tả nó vẫn 
      không được.”    
      
      Chỗ này khó 
      hiểu làm sao? Nói rằng: “Dùng ngôn ngữ diễn tả tâm trọn chẳng được.” Tại 
      sao vậy?  
      
      Bây giờ, quí 
      vị nghĩ nếu dùng tất cả ngôn ngữ, chúng ta sẽ diễn tả Tâm bằng cách nào? 
      Khi diễn tả,  chúng ta luôn luôn diễn tả nó theo cái thấy đối đãi. Chẳng 
      hạn hỏi: 
      
      - Tâm nó làm 
      sao? 
      
      - Tâm nó lớn 
      lắm, như thế này, như thế kia, như quả núi hay lớn như cái này, như cái 
      kia. v.v...? 
      
      Tất cả chúng 
      ta thấy cái lớn đó, đều có tướng mạo, Tâm Thể thì không tướng mạo. Vậy khi 
      chúng ta dùng ngôn ngữ để diễn tả, càng diễn tả lại càng không trúng. Cho 
      nên nói: “Dùng ngôn ngữ diễn tả cũng không được, mà chẳng dùng ngôn ngữ 
      diễn tả Tâm, cũng chẳng được Tâm.” Nếu làm thinh hoài cũng không được. vậy 
      cả hai, dù nín, dù nói chưa phải là được Tâm Thể. Đừng nghĩ, nói là thấy 
      tâm, nín là không thấy tâm, hay nín là thấy tâm, nói là không thấy tâm. Vì 
      tâm trùm cả nín và nói. Cho nên nói: ”Vì ngôn ngữ vốn là tâm.” Nếu không 
      là tâm thì làm sao phát ra ngôn ngữ? Nên không diễn tả được,  chẳng lẽ nó 
      lại diễn tả nó. Không ngôn ngữ cũng vốn là tâm “Tâm vốn tự lặng”. Không 
      diễn tả nó cũng chẳng được. Im lặng đâu thể diễn tả được im lặng? 
       
      
      Vì dù nín dù 
      nói gì cũng là Tâm hết, không lý do gì tâm mà diễn tả tâm được. Dụ như 
      ngón tay tôi là cái hay chỉ, mà nói “chỉ cái ngón tay đó” cho tôi coi?
       
      
      Nếu tôi chỉ có 
      một tay này, không có cái tay thứ hai mà bảo chỉ “cái ngón tay chỉ” đó thì 
      tôi chỉ được nó hay không? Tay tôi hay chỉ người này, chỉ người kia, mà 
      bảo chỉ ngay nó, thì tôi không biết lấy cái gì mà chỉ nó. Vì nó là cái chỉ 
      rồi, cho nên nó chỉ có quyền chỉ cái này, cái nọ, nhưng chỉ lại nó, thì 
      không làm sao chỉ nó được hết. Nếu có cái chỉ nó, thì nó không phải là 
      ngón tay chỉ, mà là cái khác nó.  
      
      Thế nên chỗ 
      này rất khó nói. Vì tâm là phát ra ngôn ngữ, diễn tả; im lặng hay nói năng 
      gì cũng gốc từ tâm mà ra. Bây giờ quí vị thấy, như mặt biển, lúc có sóng, 
      khi không sóng, cũng vẫn là biển, phải vậy không? Có sóng cũng là biển, 
      không sóng cũng là biển, chớ không thể nói: Có sóng mà không thấy biển, 
      hoặc là không sóng thì không phải biển. Sóng và không sóng cũng là mặt 
      biển.  
      
      Thế nên, những 
      cái có, không. Không thể diễn tả được biển. Biển là biển thôi, nó trùm 
      khắp hết.  
      
      “Các thứ hội 
      đến đều không khế hội với tự tâm”. Nghĩa là cái nào mà mình hội đến (hội 
      đến tức hiểu đến) đều không khế hội với Tâm. Đây là chỗ thật khó! Tại sao 
      mình hiểu đến, không phải là tâm?  
      
      Cũng như trước 
      đã nói, cái gì mình thấy, đều không phải cái thấy của mình. Vì khi thấy, 
      là mình thấy những cái, ngoài cái thấy. Bây giờ quí vị có thể thấy được 
      tất cả trong chùa này, nhưng quí vị có thể thấy được cái thấy của quí vị 
      không? Chính chỗ này trong Kinh Lăng Nghiêm, đức Phật đã giải thích cho 
      Ngài A Nan: “Cái thấy của mình không thể thấy được nó.” Vì thấy được nó 
      thì nó thành ra một vật ở bên ngoài rồi, chớ nó đâu phải là cái thấy của 
      mình.  
      
      Cũng như cái 
      hiểu. Nếu nói: “Tôi hiểu tâm rồi!” Thì cái hiểu đó cũng không phải là tâm. 
      Bởi vậy có một Thiền khách đến hỏi đạo với một Thiền sư. Thiền khách hỏi: 
      
      - Thế nào là 
      đạo? 
      
      Vị Thiền sư im 
      lặng giây lâu, rồi hỏi: 
      
      - Không hội 
      (hiểu) không? 
      
      - Dạ không 
      hội. 
      
      - Không hội là 
      tốt. 
      
      Không hiểu là 
      tốt. Chính cái không hiểu, cái đó mới nhận được tâm. Nếu hiểu, là hiểu cái 
      gì rồi, chớ không phải hiểu tâm. Quí vị thấy được cái đó không? 
       
      
      Bởi vì chúng 
      ta hiểu là hiểu cái gì? Nói mình hiểu cái này, mình hiểu cái kia. v.v... 
      Thì cái bị mình hiểu: Cái này, cái kia là cái bên ngoài mình rồi. Còn cái 
      hay hiểu, mới chính là mình. Song cái hay hiểu đó: Nó đã hiểu cái khác. 
      Tức nhiên cái khác, không phải là nó. Nếu nói hiểu Tâm thì Tâm thành ra 
      cái bị hiểu. Cũng như tôi nói: cái thấy mà thấy được, là thấy vật khác, 
      chớ không phải thấy được, cái thấy.  
      
      Quí vị thấy có 
      dễ hiểu hay không? Chỗ này là chỗ chỉ tâm yếu. Nghe đến nó đau cái lỗ tai. 
      Bởi vì lâu nay, người ta quen chạy theo hình tướng, nhưng cái tâm yếu đó, 
      nó không có hình tướng và chính cái đó, nó mới thật là của mình. Còn những 
      cái lâu nay, tôi hiểu thế này, thế kia. v.v... Những cái bị hiểu đó, không 
      phải là của mình. quí vị nên nhớ như vậy.  
      
      Cũng như bây 
      giờ quí vị ngồi, quí vị thấy vọng tưởng, thấy mình suy nghĩ cái này, cái 
      kia... thì cái suy nghĩ đó không phải là mình, nó chỉ là một phần nhỏ xíu 
      của dụng, chớ không phải là cái thật của thể.  
      
      Như vậy để 
      thấy, nếu chúng ta cho rằng hiểu được tâm mình, tức chúng ta không hiểu gì 
      hết. Vì tâm là cái không thể hiểu. Không thể hiểu mà hiểu, nói nghe thật 
      là mâu thuẩn. Không thể hiểu mà hiểu. Vì chữ hiểu này, hiểu mà không. Có 
      nghĩa là: 
      
      Tôi không thể 
      thấy được cái thấy của tôi. Nhưng mà tôi nhận được tôi có cái thấy, vì tôi 
      thấy được sự vật. Cũng vậy, tôi không thể hiểu được cái tâm của tôi, nhưng 
      tôi nhận được tôi có cái Tâm. Nhận được như vậy gọi là: “Thầm Khế”. Vì vậy 
      nên Ngài nói: “Các thứ hội đến đều không khế hội với tự tâm. Thượng cổ 
      bảo: Thầm khế mà thôi”. Tức là chỉ tâm nhận, chớ không thấy được nó, không 
      hiểu được nó (nó chỉ tâm thể). Vì không thấy được nó, chữ nó đại danh từ 
      không xác định, không chỉ đích tên được.  
      
      Sở dĩ các Kinh 
      đặt tên cho nó cũng là gượng nói, gượng đặt, gượng kêu vậy thôi. 
      
      Ví dụ: Kinh 
      Lăng Nghiêm gọi là Chơn Tâm, Kinh Pháp Hoa gọi là Tri Kiến Phật, Kinh Hoa 
      Nghiêm gọi là Pháp giới Tánh, Duy thức gọi là Như Lai Tàng, Thiền Tông gọi 
      là Bản Lai Diện Mục... 
      
      Cho nên đọc 
      sách Thiền. Quí vị thường nghe nói: “Không hiểu là tốt” hay là “Cứ giữ cái 
      không hiểu đó”. Tại sao không hiểu mà giữ? Tại sao không hiểu mà tốt? Khi 
      hiểu được chỗ này quí vị mới hiểu qua được trong sách Thiền. 
      
      “Nếu như nơi 
      đây mà chưa đạt đạo thì chỉ không vọng niệm là được.” 
      
      Giờ đây Ngài 
      nói một câu an ủi chúng ta là: Nếu ngay chỗ này mà mình không nhận được. 
      Nghĩa là không nhận ra đưọc cái “Bản Tâm rỗng không, không bờ mé” thì việc 
      đầu tiên có thể làm được là: “Chỉ không vọng niệm là tốt”. Bởi vì nói đến 
      chỗ đó, cốt sao cho người ta hiểu, nhưng nếu chưa hiểu được, chưa nhận 
      được, chỉ cần không vọng niệm là tốt, có việc gì khác đâu? Đó là giai đoạn 
      đầu. 
      
      “Nếu người 
      biết là vọng niệm, tác ý dừng nó là vì (do) thấy có vọng niệm. Người biết 
      có vọng niệm, tác ý liền quán sát khiến thấy chánh lý cũng (do) thấy có 
      vọng niệm. Biết vọng nguyên là đạo mới không vọng. Cho nên người đạt đạo 
      không sỏ đắc. Chỉ không cầu gì khác, biết không mê vọng, gọi là thấy đạo. 
      
      Đây là chỉ 
      thẳng đạo, hay tâm yếu. Nói: “Nếu người biết là vọng niệm, tác ý dừng nó”. 
      
      Thí dụ: Mình 
      đang ngồi thiền, thấy vọng niệm, thấy những cái suy nghĩ của mình nó dừng 
      lại. Nó dừng, là vì thấy nó là vọng niệm. Người đó là người thấy có vọng 
      niệm. Vì thấy nó lặng, tức là có niệm. 
      
      “Người biết có 
      vọng niệm, tác ý liền quán sát khiến thấy chánh lý, cũng thấy có vọng 
      niệm.”  
      
      Thí dụ: Bây 
      giờ vọng niệm nó dấy lên, mình liền (biết) quán sát,liền xét tìm coi, cái 
      vọng này từ đâu mà ra, hay cái vọng này là không thật... Khi mình tìm, 
      mình quán sát nó, tức là lấy chánh lý để quán sát, khiến cho nó lặng. Đó 
      là mình cũng thấy vọng niệm. “Biết vọng nguyên là đạo, mới không vọng”. 
      (Chỗ này thật là trực chỉ) Tại sao biết vọng nguyên là đạo mới không vọng? 
      Hầu hết chúng ta tu, đều thấy vọng là vọng, vọng khác với đạo. Ở đây Ngài 
      chỉ, “vọng tức là đạo”. Chỗ này quí vị nghe thấy khó hiểu, vì chúng ta 
      quen sống trong cái đối đãi, cho nên có lập chơn, lập vọng, cho bên này là 
      vọng, bên kia là chơn. Do thấy có vọng liền biết có chơn. Thành ra chơn 
      vọng là hai cái đối đãi. Nhưng thật sự thì nó không hai. Ví như khi ta 
      nhìn xuống biển thấy sóng nổi dậy. Có người nói: “Đây là sóng”. Rồi chúng 
      ta hỏi: “Cái nào là nước?” (vì có danh từ sóng thì cũng có danh từ nước). 
      Vậy cái đang nổi lên là sóng, còn cái nào là nước? Trong khi sóng nỗi ầm 
      ầm. Quí vị tìm nước, thì nước phải tìm ở đâu? Nếu chúng ta cho cái này là 
      sóng, rồi muốn tìm nước, chắc rằng chúng ta tìm nước suốt đời cũng không 
      ra. 
      
      Chỉ cần ngay 
      nơi sóng đó mà biết: “Sóng tức là nước”, ngay nơi sóng múc lên, khỏi phải 
      tìm đâu xa.  
      
      Vậy cái vọng 
      cũng vậy, nguyên vọng tức là chơn. Giờ tôi xin hỏi lại: Khi chúng ta chưa 
      dấy niệm thì lúc đó nó là cái gì? Kế đấy dấy lên rồi nó lặng xuống. Vậy 
      khi nó dấy lên gọi đó là vọng, khi nó lặng xuống gọi nó là gì? Như vậy, 
      nguyên thể nó là chơn hay vọng? Cũng như khi chưa nổi sóng cũng là nước, 
      nước dấy sóng lên cũng là nước. Ngay cái thể đó là nước. Thành ra cái 
      chơn, cái vọng, đâu có rời nhau, tại mình cứ quen đặt nó thành hai. Nghĩa 
      là vọng khác, chơn khác, dẹp cái này để tìm cái kia, rốt cuộc vọng vẫn 
      hoàn vọng. Vì thấy vọng khác, chơn khác, nên bỏ vọng để tìm chơn. Nhưng 
      khi tìm chơn thì cái chơn ấy cũng ở ngoài chúng ta rồi!!! (Tôi đánh ba 
      chấm than để quí vị nhớ hoài).  
      
      Bây giờ biết 
      vọng tức là chơn (chữ tức ở đây có nghĩa là không tách rời nhau được), 
      vọng có dấy lên, thì nó từ cái chơn mà dấy lên; nếu nó lặng xuống tức trở 
      về cái chơn, chớ đâu có gì lạ! Như vậy ngoài chơn không có vọng, ngoài 
      vọng không có chơn. Ngay nơi đó biết thể của vọng vốn chơn, thì vọng tự 
      hết. Cho nên thường thường người tu thiền chúng ta “Biết vọng không theo” 
      mà không theo thì tự nhiên vọng nó lặng, vọng lặng tức là chơn, là đạo. 
      Nhưng những cái đó chỉ dùng trong buổi đầu. Đến khi thuần thục chúng ta 
      thấy vọng tức là chơn. Lúc đó chơn và vọng đâu có thật. Tại sao vọng tức 
      chơn? Vì thể của vọng là không, dấy lên rồi mất, dâý lên rồi mất có gì 
      phải dẹp? Biết thể của nó là chơn, hay biết thể nó là không, thì tự nhiên 
      nó lặng, đâu nhọc nhằn trừ dẹp nó. Vì vậy ở đây nói: Nếu mình dùng phương 
      tiện, quán sát để cho nó dừng lại, thì cũng là thấy có vọng thật (thấy có 
      vọng, thấy có dừng, tức là thấy vọng thật) mà thấy vọng thật thì thấy chơn 
      có thật chăng? 
      
      Như vậy là 
      thấy đối đãi, mà đối đãi là pháp sanh diệt chưa phải thấy cái thể thật. 
      Cái thể thật đó không có hai, bởi không hai nên vọng tức là chơn, cũng như 
      sóng tức là nước. Chớ không phải rời sóng mà tìm nước. Vậy ngay nơi vọng 
      dấy lên mình biết, thể nó là không tức là chơn rồi, tức là đạo rồi! Bởi vì 
      chúng ta biết vọng nó là chơn.  
      
      Chỗ này cần 
      nói rõ cho quí vị tu bớt sợ. Bởi vì chúng ta biết vọng là cái gốc, dẫn 
      chúng ta theo nghiệp, nên nhiều khi chúng ta coi đó như là cái gì đáng sợ. 
      Vì ngồi tu mà vọng hoài, vọng liên miên, nên đâm hoảng, nghĩ mình tu hành 
      5 năm, 10 năm vẫn còn vọng hoài, thì đâu có kết quả gì.  
      
      Nhưng giờ đây 
      quí vị biết, nó không thật, tức không còn sợ nó nữa. Biết vọng nguyên là 
      chơn thì có gì phải sợ? Biết vọng vốn chơn: Một là không theo. Hai là tự 
      nó lặng xuống chớ có gì lạ đâu? Sở dĩ chúng ta chạy theo nó, vì chúng ta 
      thấy nó có lý, thấy nó hay hay, thấy nó thế này, thấy nó thế kia... giờ 
      đây biết vọng tưởng là cái thể trổng không, không có thật thì tự nhiên nó 
      trở về với đạo, trở về với chơn. 
      
      Quí vị cứ nhìn 
      thẳng khi nào vọng dấy lên, biết thể nó là rỗng không, là chơn thật, thì 
      tự nhiên nó không có gì phải sợ. Chính trong Kinh Pháp Bảo Đàn Lục Tổ đã 
      nói: “Mê thì chạy theo niệm để tạo nghiệp, nếu tỉnh thì mỗi niệm mình đều 
      giác, mỗi niệm mình là Phật chớ không có gì khác.”  
      
      Như vậy không 
      tìm Phật ở đâu xa, không tìm đạo ở đâu xa, chỉ ngay trong vọng đó mà thấy 
      tâm, ngay trong vọng đó mà thấy Phật. Tức là, mỗi vọng dấy lên đều biết, 
      thể nó là không, thì tự nó chơn, tự nó đạo, tự nó Phật chớ không có gì lạ. 
      
      “Cho nên người 
      đạt đạo không sở đắc.” Vì vọng lặng xuống tức là chơn, còn cái gì mà được? 
      Quí vị tìm thử? Nếu có được thì cái đó là cái bên ngoài, có sở sắc tức 
      chẳng phải chính mình. Chẳng hạn mình được cái này, mình được cái kia... 
      thì cái này cái kia là cái bên ngoài. Nếu ngay nơi vọng liền thấy thể nó 
      là chơn thì còn gì nữa mà được? thành ra thấy có được là thấy hai, bỏ cái 
      này, để được cái kia. Trái lại không thấy có hai thì chỗ nào mà nói được? 
      Do đó trong Kinh Kim Cang nói: “Vô Sở Đắc”. Vì vừa có sở đắc (chỗ được) 
      tức nhiên không phải đạo rồi.  
      
      Nhưng đa số 
      người học đạo hiện tại gần như 99% nghe tu đều hỏi: Đắc được cái gì chưa? 
      Cứ dùng chữ Đắc, dùng chữ Được, dùng chữ Thấy... Bao nhiêu thứ để hỏi. Quả 
      thật là người thấy đạo, hiểu được đạo thì không bao giờ trả lời câu hỏi 
      đó. Vì trả lời những câu hỏi đó là trả lời theo cái kẹt. Người ta đã sai, 
      mình lại trả lời theo cái sai của họ, tức mình cũng sai luôn. 
      
      Bởi vậy tôi 
      nhắc lại một lần nữa, nếu mình thấy có cái này xấu, cái kia tốt, nên mới 
      bỏ cái xấu, cầu cái tốt: Bỏ cái xấu được cái tốt, đó gọi là được. nếu xấu 
      tức là tốt thì, không còn bỏ, không còn được. Nó chính là nó rồi, không 
      còn gì nói là được? Cho nên còn nói được tức còn có hai cái đối đãi, mất 
      cái này được cái kia. Nên không có hai, chỗ nào nói được?  
      
      Vọng niệm mà 
      mình không dấy vọng niệm là thật. Vọng vốn nguyên là chơn, thì ngay đó 
      không còn thấy có được mất . Như vậy, đã không được không mất, đó là thấy 
      cái thể chơn thật. Cho nên câu chót của đoạn này Ngài nói:  
      
      “Chỉ không cầu 
      gì khác, biết không mê vọng, gọi đó là thấy đạo.” 
      
      Không cầu gì 
      khác tức là không cầu được, không cầu thành, không cầu cái gì khác, mà chỉ 
      cần biết ngay nơi mình: “Mê vọng có, tỉnh vọng không, không có mê vọng gọi 
      là thấy đạo. Cho nên người thấy đạo, là người ngay nơi tâm mình khi đi, 
      đứng, nằm, ngồi, nói, nín như như chớ đừng cầu cái gì khác! Có cầu đều 
      bệnh! Thế nên câu kết thúc Ngài chỉ cho chúng ta quá rõ: “Chỉ không cầu gì 
      khác, biết không mê vọng, gọi đó là thấy đạo.” Cái biết mà không mong cầu, 
      không mê vọng, thì cái biết đó gọi là thấy đạo. Bởi không mê tức chẳng 
      lầm, không vọng tức không có động, không có vọng niệm dấy lên, người thấy 
      đạo là như vậy (thấy đạo tức là thấy tâm, thấy tâm yếu). Ngài chỉ thẳng 
      tâm yếu là như thế đó, quí vị nghe có thấm chưa?  
      
      Đến đây Ngài 
      nói: “Người thời nay nói thẳng tất cả đều là đạo”. Tức là nghe trong Kinh 
      nói: “Thảy đều là đạo.” (chữ “thảy” đây là tất cả) Ý nghĩa tất cả đêu là 
      đạo, rồi cũng bắt chước như vậy. Nói thảy đều là đạo, nhưng mình đã thấy 
      đạo chưa? 
      
      Ngài nói tiếp: 
      “Cũng ví như kẻ ngồi bên mâm cơm, nói ăn mà bụng vẫn đói, vì chưa từng 
      ăn.” Tức nghe trong Kinh nói: “Tất cả là đạo.” Rồi cũng bắt chước nói: 
      “Thảy đều là đạo.” Nói như mình đã nhập xong, nhưng sự thật vẫn là kẻ ngồi 
      bên mâm cơm nói: “Tôi ăn cái này, tôi ăn cái kia. v.v... Nhưng chưa từng 
      ăn và chưa được miếng cơm nào vào miệng. Nói thì nghe như trúng lắm, mà 
      rốt cuộc không có dính dáng gì. 
      
      “Người đạt đạo 
      thì bặt năng sở.” Năng sở là cái hay biết và cái bị biết, và cái hay hoặc 
      động và cái bị hoặc động. “Chẳng còn riêng có huyền lý.” Nghĩa là không 
      còn thấy lý huyền diệu nào riêng nữa, ngay nơi mình tức thấy đạo. Cho nên 
      nói, Người đạt đạo vốn không có lý luận nhiều. Vì sao? Vì nếu ta cứ nói 
      đạo là hay thế này là hay thế kia...  
      
      Rốt cuộc cái 
      hay đó là cái hay ở bên ngoài, không phải cái hay thật của chính mình. 
      
      “Chỗ tầm 
      thường nhật dụng, như khi thấy sắc là lúc chứng, khi nghe tiếng là lúc 
      chứng. Khi uống nước, ăn cháo là lúc chứng, mỗi mỗi đều bặt năng sở.”  |