| 
       
      
      PHẦN 4 
      
      “Tuy nhiên 
      thiền môn cũng cho dùng chánh tri kiến để trị đó.” Ở trong nhà thiền, cũng 
      có cho dùng chánh tri kiến để trị, tức là dùng cái tỉnh giác để trị cái mê 
      lầm. Nhưng: “Nếu luận người đương thời (người đương thời là người như 
      chúng ta chẳng hạn), tức chẳng phải như thế.” Nghĩa là không nói ngộ rồi 
      mới tu, mà phải nói: “Phật đạo dài lâu, hằng chịu siêng năng khổ nhọc, mới 
      có thể được thành.” Người đương thời như chúng ta thì phải nói như vậy. Ở 
      đây Ngài giải thích theo lý thiền câu: “Phật đạo dài lâu, hằng chịu siêng 
      năng khổ nhọc mới có thể được thành.” Có nghĩa là: “Dài suốt ba đời phàm 
      thánh nhất như, nên nói: Phật đạo dài lâu.” Bởi vì như chúng ta thấy, cái 
      tâm thể này nó không bị hạn cuộc trong thời gian. Sở dĩ có ba thời: Quá 
      khứ, hiện tại, vị lai là chúng ta căn cứ trên thời gian sinh diệt mà nói. 
      Tâm thể thì nó không mắc kẹt trong thời gian, cho nên nói: ”Phật đạo dài 
      lâu.” Nghĩa là nó thấu suốt cả ba thời, không bị chi phối, phàm và thánh 
      đều là nhất như. Vì tâm đó không có đối đãi, không có hai (nên không có 
      chia ra, đây là Phàm, kia là Thánh). Chẳng hạn chúng ta, đối với Phật thì 
      chúng ta là Phàm, Phật là Thánh. Đó là đứng về mặt đối đãi, mê ngộ mà nói. 
      Phật vì ngộ được tâm thể, nên gọi Ngài là Thánh, chúng ta vì quên tâm thể 
      ấy nên gọi là phàm. Nhưng thật ra tâm thể ấy, không có phàm, cũng không có 
      thánh. Nhưng giờ đây chúng ta muốn làm thánh thì sao? Chỉ một việc hết sức 
      đơn giản là nhớ thôi. Vì chúng ta không phải trèo non, lội biển nhọc nhằn, 
      mà chỉ có một việc nhớ, nhớ là thánh, quên là phàm, nhớ là ngộ, quên là 
      mê. Vậy chúng ta nhớ cái gì? Nhớ mình có tâm thể. Còn quên cái gì? Quên 
      tâm thể, chạy ra ngoài. Cho nên chữ mê, ngộ thực ra rất đơn giản. Vì chúng 
      ta thường hay quan trọng nó, nói ngộ là phải ngộ được cái gì? Và mê là mê 
      cái gì? Nó dầy đặc mà mình không hiểu?  
      
      Ở đây, mê chỉ 
      có nghĩa là quên. Như trong Kinh Pháp Hoa nói: “Có người có hòn ngọc quí, 
      ở trong chéo áo mà quên, nên phải lang thang đi xin ăn nơi này, nơi nọ 
      chịu nhiều khổ sở. Đến khi gặp người bạn chỉ cho, liền biết là có hòn ngọc 
      quí cất trong áo, tức là người đó nhận ra mình có hòn ngọc quí, từ đó về 
      sau không còn phải đi xin ăn đói khổ nữa. 
      
      Chúng ta bây 
      giờ cũng vậy. Ai ai cũng có tâm thể đó, nhưng quên đi, nên cứ chạy theo 
      vọng tưởng sinh diệt, duyên theo sáu trần nó cứ cuốn chúng ta đi nơi này 
      nơi kia, gọi đó là luân hồi. Chỉ khi nào chúng ta sực nhớ lại, không chạy 
      theo vọng tưởng, sáu trần, hằng sống với cái tâm thể, thì đó là đạo. Còn 
      quên nó để chạy theo vọng tưởng, duyên theo sáu trần, đó là mê. Nói thì 
      hết sức đơn giản, tưởng chừng trong chốc lát chúng ta giải quyết xong! Tuy 
      nhiên, đến khi thực hành thì quả thật cay đắng, phải vậy không? 
      
      Bởi gì chúng 
      ta quên lâu đời quá, quên nó để chạy theo những cái rất tầm thường ở bên 
      ngoài, nhưng mình cứ chạy theo mãi. Thật tình nếu chịu khó ngẫm nghĩ kỹ 
      chúng ta sẽ thấy: 
      
      Buổi sáng ta 
      ăn lót lòng, và làm vài công việc đến trưa. Trưa vào nấu cơm ăn xong, nằm 
      nghĩ một chút đã đến xế chiều. Tiếp tục công việc, rồi nấu cơm ăn là đến 
      tối. Đêm nghĩ một giấc thức dậy là sáng. Hết sáng đến tối, tối đến sáng 
      như vậy... Rồi chính trong cái sinh diệt triền miên đó, mình lại đặt điều 
      kiện này điều kiện kia, chớ không bao giờ có niệm tỉnh giác. Nào biết đâu, 
      thời gian rất là chóng vánh! Chăngr hạn như những vị 6, 7 mươi tuổi. Giờ 
      sực nhớ lại 6, 7 mươi năm qua nào có xa xôi gì đâu? Những cái đó nó cứ 
      trôi qua, trôi qua trong chốc lát. Như vậy, mà mình thì ngày nay mong ngày 
      mai, ngày mai làm sao sáng sủa hơn ngày nay. Rồi mong năm này sáng sủa hơn 
      năm ngoái. Chúng ta cứ sống với những cái gì ở bên ngoài, mà quên mất 
      mình, quên lững đi, chớ không nói là quên chút ít. Cho nên Phật nói, Ngài 
      thấy chúng sanh đáng thương là ở chỗ đó! Nếu chúng ta không có tâm thể, 
      hoặc phải tạo ra một cách cực khổ, và mình tạo không được thì không biết 
      làm sao, còn nó rõ ràng mà bỏ quên đi để chịu khổ, thử hỏi không đáng 
      thương sao được? Đáng thương là tại vì nó có, mà chúng ta lại quên đi. Tuy 
      quên mà đi đến đâu cũng mang nó theo, nhưng không biết đem ra dùng. Giờ 
      đây khi hiểu được lẽ này thì chúng ta thấy rõ, sự tu hành của chúng ta chỉ 
      là làm sao nhận ra, thấy rõ được cái mặt thật của chính mình (nhà thiền 
      gọi là: Bản lai diện mục), để rồi từ đây về sau không còn kẹt ở trong đối 
      đãi, trong phàm thánh, mê ngộ. Vì trên tâm thể đâu có phàm thánh, đâu có 
      mê ngộ? 
      
      “Chẳng khởi 
      thấy khác chưa từng trái bỏ.”        
      
      Nghĩa là bây 
      giờ, lúc nào chúng ta cũng nhận ra mình, và hằng sống trong cái đó và 
      không chạy theo cái khác, đó là không thấy khác, đó là chưa từng trái bỏ. 
      Nên nói: “Hằng chịu siêng năng khổ nhọc.”  
      
      Muốn hằng sống 
      trong thể đó thì cũng phải lâu mới được. Vì vậy nên nói: “Người mà khi đi, 
      đứng, nằm, ngồi đều không có niệm khác, người đó gọi là thấy tánh.” Không 
      phải chúng ta ngày đêm lạy Phật thật nhiều gọi là thấy tánh. Thấy tánh là 
      suốt ngày đêm không để cho các niệm khác dấy lên, hằng sống với cái chân 
      thật của chính mình. 
      
      “Tột cùng 
      không có pháp khác nên nói: “Mới có thể được thành.”    
      
      Nghĩa là khi 
      đến chỗ tột cùng, thì chỉ có tâm thể đó , chớ không có pháp nào khác, 
      không có quả vị nào ai đem đến cho mình. 
      
      “Đây là việc 
      của Đại Trượng Phu.”            
      
      Người nhận 
      được sống được là Đại trượng Phu chớ không phải là kẻ tầm thường. 
      
      “Người không 
      biết đi hỏi, liền y nơi đó mà đáp. Chẳng biết bèn tự hỏi thì ông muốn đáp 
      cho ai? Người không biết đáp, liền y lời nói khởi kiến giải. Chẳng biết 
      bèn tự đáp thì ông có chỉ thú gì? Cho nên nói: Thảy là Ông, khéo xem, khéo 
      xem!” 
      
      Đoạn này thật 
      là khó hiểu! Nếu người không biết được tâm thể của mình, rồi đi hỏi kẻ 
      khác. Người đó nói y theo câu hỏi của mình, mà đáp lại cho người. 
       
      
      Đó là trường 
      hợp người không biết chạy theo bên ngoài để hỏi. Còn bây giờ Ngài nói 
      chẳng biết, bèn tự hỏi thì ông muốn đáp cho ai? Nếu mình chạy theo bên 
      ngoài để hỏi, thì đã có người hỏi và người đáp, rõ ràng là có hai, tức 
      thuộc ở ngoài. Thực tình nếu không biết thì mình tự hỏi lấy mình, tự vấn 
      lấy mình, như vậy còn có ai hỏi? Ai đáp? Cho nên nói: Đáp cho ai? 
      
      “Người không 
      biết đáp, liền y lời nói khởi kiến giải, chẳng biết bèn tự đáp thì ông có 
      chỉ thú gì?”  
      
      Người không 
      biết đáp, là người khi nghe hỏi liền khởi cái hiểu biết phân biệt, thế 
      này, thế kia để đáp lại người hỏi. Đó là khởi kiến giải. Nếu chẳng biết 
      bèn tự đáp cho mình, thì còn có chỉ thú gì? Tóm lại, câu chót Ngài nói: 
      “Cho nên nói thảy là ông, khéo xem! Khéo xem!”    
      
      Như vậy đoạn 
      này Ngài nói, nếu chúng ta không biết thì nhận nơi mình, ta vấn nơi mình 
      mà biết. Còn nếu chúng ta biết đáp thì cũng tự thầm đáp, để xoay lại mình, 
      chớ đừng có chạy theo câu hỏi của người mà suy nghĩ, tính toán. Thế mới 
      không bị mắc kẹt, các ý nghĩ khác ở bên ngoài, mà hỏi và đáp đều chính nơi 
      mình hết. Cho nên, trong nhà thiền thường dùng những câu nói như vấn tức 
      là đáp. Khi hỏi tức là đáp. Tại sao khi hỏi là đáp? Và hỏi là hỏi cái gì? 
      Phải chăng hỏi đạo? Hỏi Phật? Hỏi Tâm? Đạo Phật ở đâu? Rõ ràng ở ngay đầu 
      câu hỏi đó, đã có đạo, đã có Phật rồi! Vậy mà mình cứ chờ người khác đáp, 
      rồi bám theo cái đó mà suy nghĩ, cuối cùng chấp lấy chỗ kiến giải, cho là 
      của mình. Thật đáng hổ thẹn thay!    
      
      Cho nên người 
      biết hỏi là hỏi ngay nơi mình, vừa dấy niệm lên biết đầu cái niệm ấy là 
      gì? Tự nhiên sẽ thấy! Trái lại, nếu dấy niệm chạy theo ra ngoài hỏi, chờ 
      người đáp rồi suy nghĩ, đó là mắc kẹt. Đến người đáp cũng vậy, khi người 
      hỏi, mình đáp, thì cũng đáp cho khéo, để cho họ xoay lại họ, mình xoay lại 
      mình, đó mới là đáp đúng.  
      
      Chính chỗ này 
      nên quí vị thấy, trong nhà thiền nhiều khi có những hành động lạ lùng. 
      Chẳng hạn như hỏi: “Thế nào là câu cứu cánh.” Vị Thiền Sư chỉ ngồi làm 
      thinh. Đó là đáp hay không đáp? Đáp đó là dùng cái gì đáp? Tức là trở lại 
      mình. Bởi vì cái cứu cánh là cái tự mình nhận, tự mình thấy trước khi vọng 
      tưởng chưa sanh, nên hỏi: “Thế nào là cứu cánh?” chỉ ngồi làm thinh. Nếu 
      người không hiểu thì thôi, còn nếu khéo thì nhận ra ngay, vì trong cái làm 
      thinh đó đã chỉ cái cứu cánh rồi. Đó là đáp để trở về mình, và người hỏi 
      kia, họ cũng trở về họ. Đây tôi dẫn thêm một câu chuyện: 
      
      Có một Thiền 
      sư một hôm hỏi thị giả:  
      
      - Oâng họ gì? 
      
      Thị giả đáp: 
      
      - Con đồng họ 
      với hoà thượng. 
      
      Vị Thiền Sư 
      lại hỏi: 
      
      - Ta họ gì?
       
      
      Chúng ta ai 
      trả lời dùm câu hỏi đó xem? 
      
      Thị giả thưa: 
      
      - Đầu câu nói 
      đó là gì? 
      
      Thật là câu 
      nói khéo làm sao! Đầu câu nói đó là gì? 
      
      Vị Thiền Sư 
      hỏi: 
      
      - Ngươi từng 
      học ở đâu? 
      
      Thị giả thưa: 
      
      - Không có chỗ 
      khác! 
      
      Vậy ông Hòa 
      Thượng họ gì? Nghe câu chuyện như là nói đùa mà thật thấu đáo. Nếu thị giả 
      không trả lời như vậy, mà nói: Thưa Hòa Thượng con họ Nguyễn, họ Lê gì 
      đó... Thì chắc là nguy! Hỏi: “Đầu câu nói là gì? Tức vị Hòa Thượng kia đã 
      biết họ của Ông thị giả rồi. Nghĩa là chú đồng họ với ta. Đó là những cái 
      khéo của nhà thiền, mà người ngoài (ngoại cuộc) có vẻ lạt lẻo làm sao! 
      Nhưng thật tình nó rất thâm thúy! Chính lối đáp như vậy, mới thật là cái 
      hỏi đáp trở về mình. Còn chúng ta cứ nghe hỏi rồi đáp, không khéo là hỏi 
      đáp theo phân biệt của ý thức. Vì vậy nên Ngài nói: Thảy là ông, khéo xem! 
      Khéo xem. Tức là cái gì cũng xoay về chính mình. Trong Kinh Lăng Nghiêm 
      đâu chẳng nói: “Nhược năng chuyển vật, tức đồng Như Lai.” Nghĩa là, người 
      nào chuyển được vật, thì người đó đồng với chư Phật. Cũng như Lục Tổ nói: 
      “Người chuyển Kinh và người bị Kinh chuyển. Như câu chuyện Ông Pháp Đạt 
      tụng kinh Pháp Hoa ba ngàn bộ, mà không hiểu chỉ thú của Kinh, như vậy là 
      bị kinh chuyển. Còn giờ đây biết chuyễn được Kinh thì đó là người thấy 
      đạo. Do đó, bao nhiêu lời Phật dạy là để thấy lại mình, nhưng chúng ta 
      không chịu thấy, mà cứ cho lời Phật nói thế này là hay, thế kia là tuyệt 
      diệu... Rồi suy nghĩ hoài câu nói đó, đến nỗi chưa bao giờ thấy được mình.
       
      
      Không thấy 
      được mình thì dù lời Phật nói có hay thế mấy đi nữa, cũng là của báu thiên 
      hạ (Thiền Sư nói: Mặc áo nhà bên cạnh), không phải của báu nhà mình. Nên 
      nhân lời Phật nói mà thấy được mình, đó mới thật là chuyển Kinh. Cũng như 
      chúng ta thấy sự vật, chúng ta nghe tiếng. v.v... Tất cả sau trần đối đãi 
      bên ngoài ta, nhưng mỗi cái thấy, cái nghe chúng ta đều xoay trở lại mình 
      nhận rõ nơi mình, thì đó gọi là chuyễn vật, là đồng với chư Phật. 
      
      “Hoặc có người 
      bảo: từ trước cổ nhân Phật Tổ chỉ bày ngôn giáo, lưu bố thế gian, mỗi mỗi 
      phân minh. Cớ sao đều nói là “tự mình”, đâu không phụ lòng từ bi của 
      Thượng Tổ, chư Thánh nhọc nhằn dạy bảo?”          
      
      Đến đây Ngài 
      đặt nạn vấn. Ngài nói: có người hỏi; từ xưa đến giờ Phật Tổ đã chỉ dạy, 
      bao nhiêu Kinh điển rõ ràng, truyền bá đầy đủ trên thế gian rành rẽ. Giờ 
      đây cái gì Ngài cũng bảo là “tự mình.”  
      
      Như vậy có 
      phải Ngài phụ lòng chư Phật, chư Thánh hay chăng? Ngài đáp:  
      
      “Tôi thuận 
      theo tông thú của Phật Tổ, chính Ông phụ lòng từ bi của chư Thánh trước, 
      chớ tôi đâu có phụ. Tâị sao? Nếu nói có sở thuyết, tức là chê bai Phật, 
      Tổ. Ông chớ nên làm người rốt sau đoạn hạt giống Phật. Nếu chẳng đến nơi 
      mình biết trở về, thì việc làm đều thành hư ngụy. Dù Ông nhớ được như hà 
      sa, hiểu được như trần mặc ở nơi mình nào có ích gì? Cho nên nói: “đem cái 
      nghe nhớ lại chư Phật, sao chẳng nghe lại tánh nghe, cầu tướng ở bên 
      ngoài, cùng ông đâu dính dáng gì. Có một vị tôn túc bảo: nay ta đáp ông 
      một câu, mà tiến được, vẫn còn đôi phần so sánh. Nếu Ông chẳng hội, Lão 
      Tăng thành vọng rồi.”    
      
      Đoạn này Ngài 
      nói thật rõ, tại sao chúng ta phải trở về mình như câu hỏi trên. Nếu cái 
      gì chúng ta cũng nói trở về mình. Như vậy là chúng ta đã  phụ lòng chư 
      Phật chỉ bảo. Nhất là đức Phật A Di Đà đang đưa tay đón tiếp chúng ta 
      (nghĩa là Ngài sẵn sàng đón tiếp chúng ta, mà chúng ta không chịu đưa tay 
      cho Ngài dìu, thành ra như vậy mình đã phụ Ngài sao?). nhưng ở đây Ngài 
      Phật Nhãn nói lại: “Đó là Ông phụ, chớ không phải ta phụ.” Tại sao Ngài 
      trả lời như vậy? Vì “nếu có sở thuyết (chỗ nói) tức là chê bai Phật, Tổ.” 
      Trong Kinh Kim Cang Phật nói: “nếu nói Phật có thuyết pháp tức là chê bai 
      Phật.” Như vậy nói có sở thuyết, tức có cái bị nói, Ông chớ nên làm người, 
      rốt sau đoạn hạt giống Phật.” Nghĩa là Ông chớ làm chớ làm cái kẻ sau cùng 
      dứt hạt giống Phật. Bởi vì lời của chư Phật nói ra, cốt chỉ chúng ta ngộ 
      tâm thể của mình, chớ không phải để nói thành câu hay, lời khéo cho chúng 
      ta học thuộc. Thế nhưng chúng ta thường hay bị mắc kẹt ở lời Phật nói, 
      không chịu nhận nơi mình. Do đó Phật nói Kinh suốt 49 năm, mà sau cùng 
      Ngài kết luận một câu: “Ta chưa từng nói một chữ,” để thấy rằng có nói đó 
      chỉ là phương tiện tạm thời, chớ không phải cứu cánh chơn thật. Cái thật 
      chính là trở về nơi mỗi người chúng ta, nên nhận ra được nơi chính mình. 
      Nếu không như vậy, chính chúng ta đã tự đoạn hạt giống Phật của chính 
      mình, chớ không ai khác. 
      
      “Nếu chẳng đến 
      nơi mình biết trở về, thì việc làm đều thành hư ngụy.” Nếu chúng ta không 
      trở về nơi chính mình, thì những việc làm của chúng ta như: gõ mỏ, tụng 
      Kinh, niệm Phật. v.v... là cầu những cái bên ngoài (tức những cái đó) đều 
      là hư ngụy. Như vậy, cái chính yếu, cốt phải trở về mình. Thế nên, chúng 
      ta ngồi thiền là để làm gì? Là không chạy theo vọng tưởng. Nếu ngồi mà 
      mong thấy Phật, thấy tướng hào quang... đó là mong những cái bên ngoài, đó 
      cũng là hư ngụy, mà chạy theo cái hư ngụy tức đã là tà. Vì vậy cho nên 
      nói: “Dù Ông nhớ được như hà sa (nhớ Kinh, nhớ lời Tổ nhiều như cát sông 
      Hằng), hiểu được như trần mặc (hiểu Kinh, hiểu lý nhiều như bụi mực), nơi 
      mình nào có ích gì? Nghĩa là nếu chúng ta hiểu nhiều, nhớ nhiều. Nhưng 
      chính nơi mình nào có ích gì? Chính Phật đã từng trách Ngài A Nan trong 
      Kinh Lăng Nghiêm: “Dù cho Ông đa văn, học thuộc lòng ba tạng Kinh của chư 
      Phật, không bằng một ngày Ông thật hành tu để thấy đạo.” Tức là một ngày 
      mà chúng ta tu, chúng ta sống thật với mình, còn quí hơn thuộc lòng ba 
      tạng Kinh Phật.  
      
      “Cho nên nói: 
      đem cái nghe nhớ lại lời chư Phật, sao chẳng nghe lại tánh nghe?” Câu này 
      trích lại trong Kinh Lăng nghiêm: “Tương văn trì Phật, Phật hà bất tự văn 
      văn”. Nghĩa là đem cái nghe mà nhớ lời chư Phật, sao chẳng nghe lại tánh 
      nghe của mình. Bởi chúng ta có cái bệnh, nghe câu nào trong Kinh nói hay 
      thì nhớ cho thuộc, mà không chịu sống lại tánh nghe hằng có của chúng ta. 
      
      “Cầu Phật có 
      tướng ở bên ngoài, cùng Ông đâu có dính dáng.” Câu này trích ở trong lời 
      các Tổ nói. Nghĩa là chúng ta đã có Phật mà không biết trở về, lại cứ cầu 
      Phật ở bên ngoài như Phật Thích Ca, Phật A Di Đà. v.v... vậy Phật ở bên 
      ngoài đâu làm cho mình trở về được? Muốn trở về, phải là chính mình chớ 
      không ai khác! Vậy nên Ngài dẫn “Có vị Tôn túc bảo: nay ta đáp Ông một câu 
      cũng chẳng khó, nếu Ông ngay một câu mà tiến được, vẫn còn đôi phần so 
      sánh.” Bởi nếu chúng ta nhân câu nói của vị đó mà có tiến, có hiểu thì 
      cũng vẫn còn trong vòng đối đãi, so sánh. Lại “nếu Ông chẳng hội thì Lão 
      Tăng trở thành vọng rồi.” Còn nếu chúng ta không hiểu thì đó cũng là lời 
      nói rỗng, vô ích. 
      
      Nói tóm lại, 
      chúng ta phải thấy rằng, học đạo gốc là trở về mình. Nhưng bây giờ chúng 
      ta và Phật tử học đạo như thế nào? Trở về mình hay chạy ra bên ngoài. Gần 
      hết 90% là chạy ra ngoài. Nghe nói ở đây, kia có thầy bói giỏi, tức liền 
      đi đến để xem. Nghe đằng nọ có gò mối nổi lên giống hình Ông Phật liền tới 
      lễ. v.v... Cứ như vậy mà chạy ngược chạy xuôi tìm Phật. Cuối cùng Phật ở 
      đâu không thấy, mà Phật chính mình thì đành quên mất tự lúc nào.      
      
      “Học Giả thời 
      nay đua nhau, lấy hỏi đáp làm quan yếu trong Thiền Tông, chẳng biết là tâm 
      thủ xả khởi tưởng. Than ôi cái học đến lý, đến sự đều là lối nói của người 
      gần đây, dù có chút ít nhận hiểu cũng chưa được thôi dứt. Đâu chẳng nghe 
      nói: Đạo Niết bàn dứt bặt nghĩ lường. Phải biết thẳng thắn tự kiểm điểm 
      mới được.” 
      
      Ngài nói rằng 
      nhiều người cho hỏi đáp là chỗ quan yếu của người học Thiền. Nhưng thật ra 
      đó cũng là tâm thủ xả. Vì nếu người đáp hay, thì ta cũng chấp vào câu đáp 
      để mà nhớ, còn người đáp dở thì chúng ta chê. Như vậy cũng còn là cái 
      tưởng thủ xả thôi. Cái học dẫn đến lý, đến sự, là người học thì chia ra 
      đây là sự, kia là lý, lý khác, sự khác. Cái đó đều là lối nói của người 
      gần đây. “Và có những người như vậy, dù có chút ít nhận hiểu, cũng chưa 
      được thôi dứt.” Vì sao? Vì chúng ta còn kẹt trong cái suy tư, phân biệt. 
      “Đâu chẳng nghe nói, Đạo Niết bàn dứt bặt nghĩ lường.” Nếu chúng ta còn 
      suy nghĩ, dù suy nghĩ cái hay như Niết bàn, như Phật chăng nữa, thì cũng 
      chỉ là Niết bàn tưởng, Phật tưởng mà thôi. Chỉ khi nào chúng ta không 
      nghĩ, không tính toán đó mới thật là đạo Niết bàn. “Phải biết thẳng thắn, 
      tự kiểm điểm mới được.” Do đó mà chúng ta phải thẳng thắn, nhìn lại mình 
      để kiểm điểm nơi mìnhthì mới thấy được Niết bàn. Còn nếu chúng ta cứ chạy 
      ra ngoài, theo cái bên ngoài thì ắt không bao giờ thấy. 
      
      “Người do mê 
      tâm nên tìm đạo, bèn đến trong núi rừng cầu gặp thiện tri thức, cho là 
      riêng có cái đạo, có thể khiến người được an lạc. Họ không biết nghiên cứu 
      trở lại, chằm chỗ mê hạ thủ công phu là tối đệ nhất. Nếu không đến được 
      chỗ mê này, dù vào núi rừng không trở lại, cũng uổng công mà thôi. Chỗ mê 
      cũng rất dễ nói mà khó vào. Cho nên Tiên Đức nó: “khó tin, khó hiểu!” lại 
      bảo đây là nói đạo của Tông Đốn. Nói phản chiếu vốn là lời tẩu tác, huống 
      là chẳng như thế. Người đời sau, bèn dùng lời trên làm bình thường vô sự, 
      một vị chơn thật. Đây là chỗ không rõ của kẻ hậu học, ăn mặc chẳng xét.”
        |