CHỈ TÂM YẾU CHO NGƯỜI TU THIỀN

H.T THÍCH THANH TỪ

PHẦN 5

“Người do mê tâm nên tìm đạo.” Vì chúng ta quên tâm, cho nên mới đi nơi này, nơi kia để học hỏi tìm đạo. “Bèn đến trong núi rừng cầu gặp Thiện tri thức. Cho là riêng có cái đạo, có thể khiến người được an lạc.” Là cầu người này, người kia chỉ cho mình cái đạo được an lạc. Mà họ không biết tự nghiên cứu lấy cái chỗ mê của mình dể hạ thủ công phu. Ngay chỗ mê đó là tối đệ nhất. Bởi vì ta mê nên không thấy đạo. Vậy mê là cái gì? Chúng ta thử tìm lại cái mê đó coi, nó ra sao? Chính đây là câu then chốt của nhà Thiền. Khi Tổ Bồ Đề Đạt Ma sang Trung Quốc. Đến núi Thiếu Thất, ngồi xoay mặt vào vách 9 năm. Một hôm Ngài Thần Quang tìm đến hỏi đạo:

- Tâm con không an, nhờ Thầy chỉ cho.

Tổ bảo:   

- Đem tâm ra ta an cho.

Ngài Thần Quang tìm lại không thấy thưa:

- Dạ! Con tìm tâm không được.

Tổ đáp:

- Ta đã an tâm cho ngươi rồi! Và Ngài Thần Quang đã thấy đạo! Tổ khen Ông khá lắm (chữ Khả là khá), liền cho Ông pháp hiệu là Huệ Khả!

Như vậy, thấy đạo là thấy gì? Là tìm chỗ bất của chính mình, chỗ bất an đó tức là mê (tìm lại chỗ mê thì mê hết). Cũng như chúng ta biết mình dốt, thì hết dốt, con nếu mình không biết mình dốt, dù có tìm học gì nữa, cũng là học cái dốt...

Do đó, chúng ta muốn hết mê thì phải tìm ngay cái mê đó mà hạ thủ công phu. Cũng như muốn hết vọng tưởng, chỉ cần biết ngay cái vọng tưởng nó không thật, tự nhiên nó hết. Đó là cái thuật chính yếu của người tu Thiền. Cho nên ở đây Ngài nói là Tối đệ nhất!

“Nếu không đến được chỗ mê này, dù vào núi rừng không trở lại cũng luống công mà thôi.” Nếu chúng ta không trở về chỗ mê đó, dù có vào trong núi rừng ở bao nhiêu năm cũng luống công, nhọc sức không được cái gì.

“Chỗ mê rất dễ nói mà khó vào.” Chúng ta nghe nói thì thấy hơi dễ, cũng như biết cái mê đó thì dễ, nhưng muốn hết mê ắt không dễ. Vì thế Ngài nói: “Khó tin, khó hiểu.”

“Nói phản chiếu là lời nói tẩu tác, huống là chẳng như thế.” Thật ra, phản chiếu đối với nhà Thiền cũng chưa phải là chính yếu, vì đó còn là lối tẩu tác, tức là chạy ra ngoài, tạo tác ở bên ngoài. Huống nữa hiện giờ chúng ta tu thì cứ buổi sáng 4 giờ thức dậy công phu, quét dọn, lau tượng Phật, làm ít công tác khác, chiều lại Tịnh độ... cứ lếu láu qua ngày hết buổi, hai thời công phu như vậy là hết bổn phận một vị Tăng, vị Ni ở chùa. Cho như vậy là tu, xứng đáng lắm rồi. Thế mà đối với trong đạo, chúng ta chưa từng có phút giây phản tỉnh, mà ở đây Ngài bảo,  phản tỉnh vẫn còn là lời tẩu tác. Vì nói phản tỉnh, dường như ra ngoài rồi mới nhìn trở (lại) vào. Nó cũng còn hình thức, thì đối với những việc trên nào có dính dáng gì? Cho nên, chúng ta phải sống lại với mình một cách thực tế, đó mới là sống về với đạo.

“Người đời sau bèn dùng lời trên làm bình thường vô sự, một vị chơn thật.” Có người nghe nói phản chiếu cũng là tẩu tác, rồi không làm gì hết, bình thường vô sự. Nghĩa là không phản chiếu, không tu hành gì, cứ bình thường vậy thôi, đó là bệnh.

“Đây lại là chỗ không rõ của kẻ hậu học, ăn mặt mà chẳng xét.” Cho nên chỗ này thật ra dễ mà khó, khó mà dễ. Chúng ta nghe nói tẩu tác, nói phản chiếu cũng là bệnh, rồi không làm gì hết, mặc nó ra sao thì ra, đó lại càng thêm bị bệnh. Thành ra chúng ta phải khéo léo, phải khôn ngoan mới nhận được cái chính yếu của sự tu. Chúng ta đừng nghĩ, phản chiếu là cứ ngồi lại lắng nghe trong tim trong ngực đập, mạch nhảy. v.v...  cho đó là phản chiếu. Phản chiếu chỉ là một lối nói, vốn chỉ chúng ta sống lại với bản tánh của mình, chớ không chạy theo sáu trần. cho nên nói: “Đem cái nghe, nghe lại tự tánh của chính mình, hơn  là nhớ lại lời chư Phật.

Đến đây, tôi nói một câu chuyện mà quí vị nào khéo thì sẽ thấy nó lạ! Như chúng ta biết, nơi thân tứ đại này, nhờ không khí, sự hít thở của không khí làm cho nhịp tim đập , đẩy máu lưu thông trong cơ thể. Đó là sự sống. Nếu không hít không khí vào được, tim ngừng đập, mạch máu dừng lại; đó là chết. Thân này hoạt động liền liền, mạch nhảy, tim đập liên tục, một cái thân là một cái máy. Mà là máy nên khi có một bộ phận nào đó lọc bụi không kỹ thì bị nghẹt, tức nó bệng hoặc nhiều khi có thể chết. Đã là là máy thì quí vị thấy có cái máy nào đời đời còn hoài không? Bởi là máy nên phải có ngày hư củ, có ngày phải ném ra bán đồ phế thải. Vậy thân này cũng là máy, thử hỏi chúng ta cố giữ nó lâu dài được chăng?

Biết nó không thể giữ được. Vậy mà hằng ngày chúng ta lo cái gì? Lo cho nó no, lo cho nó ấm, nó mạnh khỏe là tối thượng. Ngày nay được no ấm, mạnh khỏe, thì lo cho ngày mai. Được ngày mai, lo đến ngày mốt, cứ lo như vậy mãi...

Còn có một cái không bao giờ hoại diệt, không bao giờ hư. Vì nó không phải là máy. Nó thật tình hiện hửu mà chúng ta quên, không buồn nhớ đến nó. Nó phát lộ ra rõ ràng ở tai, ở mắt, ở toàn thân, bao giờ cũng có nó, nó không nhờ hít thở để mà sống, tự nó hiện có. Nếu chúng ta có phút giây nào sống được với nó, thì sẽ thấy thân này như là một trò chơi! Nếu chúng ta sống trọn với thể tánh đó, thì ai xin thân này, chúng ta sẵn sàng cho, có ngại gì.

Như Tổ Sư Tử, khi Vua nước Kế Tân hỏi:

- Ngài nói ngũ uẩn đều không, bây giờ Ngài cho tôi cái đầu được chăng?

Tổ nói:

- Cả ngũ uẩn đều không, sá gì cái đầu. Như vậy cái đầu cũng không phải quan trọng. Bởi gì đã sống được cái thật, thì cái giả có đáng gì. Cũng như cá đứa bé, vì chưa từng thấy chiếc vòng bằng vàng thật bao giờ, nên mới quí những chiếc vòng thau của nó. Nếu nó biết có chiếc vòng bằng vàng, cái này chỉ là giả, thì tự nhiên nó hết quí. Cho nên người học đạo, sở dỉ xả thân này dễ dàng, là vì biết được cái thật. Nếu không, khi mất thân này, nhất định phải tạo thân khác, phải tìm cái khác để bám vào. Thế nên, cái giả mà không biết, thì theo cái giả đời đời không bao giờ quên nó. Đó là chỗ quan yếu của người giác ngộ. Nghĩa là cái thật mà chúng ta không biết, cái giả chúng ta lại không rõ, thì cái tu này không bao giờ thoát ra khỏi vòng luân hồi sanh tử..

“Từ trước đến đây có hai thứ phương tiện:

1.Chơn thật phương tiện nói không hở cách.

2.Thiện xảo phương tiện: khéo ứng dụng hợp các căn cơ.

Nếu từ chơn thật phương tiện được vào là chẳng nhờ suy nghĩ, tánh tự thầm thầm giải, hằng không có lui sụt, diệu dụng như hằng sa. Nếu từ thiện xảo phương tiện được vào thì, được an nhiên ngồi mặc áo. Về sau tự xem mới biết chỗ chưa đủ mà cho là cứu cánh. Hai thứ phương tiện này, đều là một pháp, không có thể mất trong chốc lát, người học phải khéo xét đó. Ngài Tuyết Phong dạy người: “Chớ bảo Lão Tăng không có một câu đến trên phần của Ông, nếu có một câu đến trên phần của Ông thì kham dùng làm gì?” Đây là cổ nhân bất đắc dĩ mà thôi. Người sau không nên hiểu ý cổ nhân, bèn cho rằng trên phần của chính mình, không có các thứ nói bàn, đây là hiểu lầm rồi.” 

Ở đây Ngài nói, chúng ta hiểu đạo do hai thứ phương tiện:

1. “Phương tiện chân thật nói không hở cách.”

Phương tiện đầu là phương tiện chân thật, khiến người nhận chân được đạo hay tâm yếu, không có hở cách, là không có một phút giây nào bị chen lộn.

Như trường hợp Lục Tổ Huệ Năng, khi nghe câu nói trong kinh Kim Cang: “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm,” Ngài liền ngộ, từ đó về sau không còn hở cách nữa. Hay trường hợp Tổ Lâm Tế, sau khi Tổ Hoàng Bá đánh ba lần, Ngài đến nơi Hòa Thượng Đại Ngu, Ngài ngộ. Từ đó, về sau Ngài nói: “Không có một phút giây nào mà có những niệm khác chen vào.” 

2. “Thiện xảo phương tiện.”

Đó là những cái thiện tri thức đánh thức cho mình giác ngộ, thấy được lẽ thật. Tuy nhiên khi được rồi, sau cũng có lui sụt, là bởi do cái khéo của thiện tri thức mà mình nhận được, nhưng còn yếu. Cho nên: “Nếu từ phương tiện chân thật được vào, là chẳng nhờ suy nghĩ, tánh tự thầm giải, hằng không có lui sụt, diệu dụng như Hằng sa. Nếu từ thiện xảo phương tiện được vào thì an nhiên ngồi mặc áo, về sau tự xem mới biết, chỗ được chưa đủ mà cho là cứu cánh.”

Vì chúng ta ngộ chưa xong mà lầm tưởng là xong. Như vậy hai phương tiện trên. Phương tiện đầu, sau khi được thì xem như là xong, còn phương tiện thứ hai được rồi mà sau mới thấy còn thiếu, chưa hoàn toàn, nên phải công phu nhiều nữa mới được thuần thục. Tuy nhiên, hai phương tiện trên công phu thì thấy dường như có khác. Nhưng thể tâm yếu đó, không có mất trong chốc lát nào. Đến đây Ngài Phật Nhãn mới dẫn câu nói của Hòa Thượng Tuyết Phong: "Chớ bảo Lão Tăng không có một câu đến trên phần của Ông, nếu có một câu đến trên phần của Ông thì kham dùng làm gì?” Nghĩa là trên tâm thể của chúng ta, không có một câu nói nào mà nói đến được, nhưng nếu nói được là nói cái gì chớ không phải nói đến tâm yếu. Vì vậy, “Nếu có một câu nói đến thì không kham gì được.” Do đó mỗi người chúng ta, hãy nhận nơi lời thiện tri thức mà biết được phần của mình, đừng mong Thiện tri thức chỉ đến, vì Thiện tri thức không thể chỉ đến chỗ chân thật đó cho mình.

“Người thời nay phần nhiều đem việc xem xét trước mắt cho là cực tắc. Sở dĩ Ngài Huyền Sa nói với người: “Chổ núi sâu vắng bặt không người, đạo của Ông lại có chăng?” Ngộ tâm thấy tánh phải như Tuyết Phong, Huyền Sa, đáp trên đất thật phải như Nam Tuyền, Triệu Châu mới được!”

“Nam Tuyền, Triệu Châu mới được!”         

Đến đây Ngài nói: “Người thời nay phần nhiều đem việc xem xét trước mắt cho là cực tắc.” Nghĩa là cho cái xem xét trước mắt là công thức tột cùng, là lý cứu cánh. Vì vậy Ngài mới dẫn: “sở dĩ Ngài Huyền Sa nói với người: “Chỗ núi sâu lắng bặt không người, đạo của Ông lại có chăng?” Nếu chúng ta cho là chỉ có đạo ở trước mắt, như vậy ở trong núi sâu không người nơi ấy có đạo không? Tâm thể nó trùm khắp chớ đâu phải hạn cuộc ở chung quanh chúng ta.

Nếu chúng ta cho rằng, nó chỉ chung quanh chúng ta thôi thì đó là cái nhìn lầm lẫn. Cho nên nói, nơi nào, chốn nào, dù có người hay không người, ở đó vẫn có đạo. Tại sao vậy? Vì tâm thể nó trùm khắp, mà tâm thể tức là đạo. Vậy nơi nào lại không  có đạo? Nên Ngài nói: “Người ngộ tâm thấy tánh phải như Tuyết Phong, Huyền Sa, còn người đạt đạo chân thật phải như Ngài Nam Tuyền, Triệu Châu ở trong tất cả thời đều không xen hở, thì mới xong.

“Học giả thời nay chỉ lấy phương tiện của cổ nhân làm Thiền (tức tâm), làm đạo, không thể cùng cổ nhân đồng tham. Ví như người mạnh gánh nặng 120 cân, đi qua cây cầu khỉ mà chẳng run, chẳng nghiêng. Do sức gì phù trì mà được như thế? Bởi kia tinh thần không tạp mà thôi. Kẻ vì đạo cũng phải như vậy. Trong Kinh nói: “Ví như con Sư tử chụp con Voi cũng dùng toàn lực, chụp thỏ cũng dùng toàn lực.” Có người hỏi: “Toàn lực là gì? Đáp toàn lực chẳng dối. Nếu thấy một mẩy lông khác nơi tâm thì tự tan thân mất mạng. Cho nên người đạt đạo không có cái gì là chẳng phải, lực này rất lớn, chỉ vì vô biên ác giác xâm lấn, khiến nên lực lượng có kém. Nếu không có nhiều thứ pháp vì vô biên ác giác xâm lấn, khiến nên lực lượng có kém. Nếu không có nhiều thứ pháp

Ở đây Ngài nói: “Người học giả thời nay lấy những phương tiện của cổ nhân làm Thiền, làm Đạo. Khi nghe cổ nhân nói một câu, hoặc có một hành động nào mình cho là đạo, và tưởng chừng mình đồng tham với các vị đó (đồng học và đồng tu). Giờ Ngài dùng một thí dụ: “Như có người gánh một gánh nặng 120 cân, đi qua cây cầu khỉ, đi thẳng thắng không run, không nghiên.” Hỏi người đó tại sao có sức mạnh như thế? Ngài giải thích: “Bởi vì người kia tinh thần thuần thục không tạp mà thôi.” Vì người đó chỉ rặc ròng một màu, không có gì chen lẫn nên mới được như thế. Ngài nói: “Kẻ vì đạo cũng vậy, ví như con Sư tử chụp voi, nó dùng toàn lực.” Khi Sư tử muốn chụp voi, nó phải lấy hết sức mạnh của nó thì mới chụp được. Nhưng nếu nó chụp một con chuột thì sao? Thường chúng ta nghĩ , chỉ phải dùng sức nhẹ thôi. Nhưng thật ra nó cũng phải dùng toàn lực. Như vậy dù chụp voi hay chuột, nó đều dùng toàn lực của nó. Như vậy toàn lực là gì? Đáp: “Toàn lực chẳng dối.” Là ngầm ý vận dụng hoàn toàn khả năng của mình, không để một sai sót nào có thể làm yếu sức mạnh toàn lực đó. Và Ngài nói rằng: “Nếu thấy một mãy lông khác nơi tâm thì cũng tự tan thân mất mạng?

Tôi nói lại đoạn này cho dễ hiểu hơn. Ở thí dụ đầu, sở dĩ người gánh nặng 120 cân đi qua cây cầu khỉ mà không run, không bị nghiêng là vì người đó có sức mạnh, và sức mạnh đó do họ đã dùng toàn sức lực của họ trong khi gánh qua cầu. Đến thí dụ sau, con Sư tử dù cho bắt chuột, thỏ cũng như voi, đều phải dùng toàn lực. Do đó, người tu chúng ta cũng vậy khi đi, đứng, ngồi, nằm trong mọi trường hợp, mỗi phút giây nào chúng ta đều dùng toàn lực. Toàn lực chính là sống với tâm thể hoàn toàn (lúc nào mình cũng làm chủ), không bị một niệm khác chen vào. Bởi chúng ta có một niệm khác chen vào thì đã tán thân mất mạng. Giờ đây thử nghiệm lại chúng ta tu hành đã có dùng toàn lực hay chưa? Đa số chúng ta dùng chưa hết bán phần, chớ đừng nói toàn phần. Cả ngày chúng ta cứ sống với những niệm, những tâm khác nên toàn lực của mình khuất lấp đi. Toàn lực đó chỉ cho tâm thể của chúng ta. Do đó mà chúng ta bị yếu đuối, bị khổ sở. Vì tâm lực chúng ta không có đầy đủ. Mà Ngài nói: “Lực này rất lớn,” nhưng “vì vô biên ác giác xâm lấn nên khiến lực dụng có kém.” Lực dụng của tâm thể rộng lớn thênh thang, nên trong Luận Đại Thừa Khởi Tín gọi là thể đại, tướng đại, dụng đại. Nó to lớn như vậy. Nhưng vì những ác giác, hay nói gọn hơn là vô biên vọng tưởng ngoa xâm lấn mái nên khiến cho lực dụng phải yếu kém. Cho nên chúng ta khi tu cứ nghĩ rằng phải có suy nghĩ, có tính toán thì mới khôn ngoan. Nhưng thật sự, chính ngay khi không có những vọng tưởng, đó là chúng ta đã dùng toàn lực. Mà toàn lực đó mới to lớn vô ngần, nên diệu dụng vô lường. Còn niệm nghĩ tính của mình nó bé nhỏ theo từng cảnh, từng việc và tâm niệm vọng tưởng, tâm mình duyên theo đó mà hiện hình. Tuy chỉ tâm vọng tưởng , mà chúng ta còn chế được những cái diệu dụng phi thường,như chế bom nguyên tử, phản lực cơ... Huống nữa là chúng ta sống với tâm chân thật kia, thì lực dụng của nó biết chừng nào! Vì vậy ở đây Ngài nói rõ thêm. “Nếu không có nhiều pháp khác, trạng khác, duyên khác, niệm khác thì tùy tâm biến chuyễn tự tại vô ngại.” Sở dĩ chúng ta không được tự tại vô ngại là vì chúng ta bị các thứ pháp khác, các trạng thái, các duyên, các niệm khác chi phối chúng ta. Nếu như không có các thứ pháp khác, trạng thái khác, niệm khác dấy lên, thì ngay lúc đó tâm thể chúng ta chuyễn biến tự tại vô ngại.

Tóm lại, đoạn này Ngài muốn chỉ cho chúng ta thấy, người học đạo, không nên lượm lặt những câu, những lời của cổ nhân rồi cho đó là đạo! Mà chúng ta phải sống thật với tâm thể của chính mình. Nếu chúng ta sống được với tâm thể, là chúng ta dã dùng toàn lực, tức là toàn sức lực của tâm thể.

Còn bằng không chúng ta cứ để cho vọng tưởng chen lấn mãi mãi, là chúng ta đã bị chi phối bởi ngoại cảnh, và nội tâm, tâm lực do đó mà suy kém đi và chúng ta mất tự do, tự tại, vô ngại. Cho nên người nào mà sống được với tâm thể rộng lớn đó, người ấy mới chính là người tự do, tự tại. Tức là vô sự.

“Đạo chẳng cần khổ cầu, cầu đó liền mất đạo. Sự không cần tiêu dung, tiêu dung thì sự có. Chẳng cần tiêu dung là đạo cùng sự hội, thì sự nào mà chẳng phải đạo. Ví  như có kẻ mắt sáng vào trong kho mà không biết phương tiện là không có đèn đuốc soi sáng, vào trong liền bị đụng u đầu, trầy tay. Như thế gọi là hang độc. Chớ chẳng phải kho báu. Người trí vào kho cầm theo đèn đuốc soi sáng, thấy các thứ báu mặc tình lượm lấy, lượm báu đi ra. Người tu trong 12 giờ phải dùng trí sáng chớ để 6 trần đụng chạm đến.

Thửu xưa Thượng tọa Vĩnh cùng Từ Minh đồng từ giả Phần Dương, mà Vĩnh chưa tột chỗ diệu kia. Vĩnh theo Từ Minh 20 năm, trọn chưa an lạc.

Một hôm, ngồi quanh lò lửa đêm khuya, Từ Minh lấy đủa gấp than, gõ trên than gọi:

- Thủ Tọa Vĩnh!

Thủ tọa Vĩnh bèn quát:

- Dã hồ tinh.

Từ Minh bèn chỉ Vĩnh bảo:

- Kẻ khờ! Lại thế ấy đi!

Vĩnh do phương tiện này được cứu cánh, song vẫn bảo theo nhau. Từ Minh ở đâu thường ra thưa hỏi. Những câu Từ Minh hỏi, chúng không thể đối được. Vĩnh tới Từ Minh liền gật đầu hứa khả.

Đây gọi là liều thuốc không bệnh. Học giả đương thời khó nhận được yếu chỉ kia, huống là bọn tri kiến hội giải ở đời sau, do đâu nhận lãnh được việc ấy? Được đó phải như Vĩnh, cho thuốc thì phải như Từ Minh thì mới nên vậy.”

Ở đây Ngài chỉ rõ: “Đạo chẳng cần cầu khổ” vì “cầu đó liền mất.” Nếu chúng ta đi tìm đạo là chúng ta đã mất đạo. Nên trong nhà thiền hay thí dụ: “Cởi trâu đi tìm trâu.” Vì đạo là gì? Là tâm thể chân thật, mà tâm thể đó, vừa dấy niệm đi tìm đã bị khuất, bị lấp rồi. Cho nên, chúng ta chỉ dừng, đừng cho vọng niệm dấy lên, chen vào, thì đạo hiện tiền chớ không đâu xa. Đến đây, Ngài nói về sự tướng: “Sự không cần nhọc nhằn, tiêu dùng thì sự có.” Chúng ta, những người mới học đạo khi nghe nói, phải thấy các pháp giữa này là không, chẳng thật có. Như vậy thì mình mới gần được với đạo. Vì vậy cho nên, thấy cái gì mình cũng không chấp nhận sự hiện hữu của nó. Chẳng hạn như cái bàn, cái ghế, cái nhà. v.v... Mình đều nói không có. Tưởng chối bỏ như vậy là đã tiêu dung nó. Ngờ đâu chúng ta càng chối bỏ nó chừng nào nó càng hiện hửu chừng nấy. Thế nên người học đạo phải biết, phải khéo tiêu dung, trí huệ mà nhìn thì khi đó, chúng ta không cần tiêu dung, mà nó tự tiên dung. Vì vậy nên nói: “Sự không cần tiêu dung, tiêu dung thì sự có.” Tôi thí dụ một cái nhỏ cho quí vị thấy: Chúng ta có một người bạn láng giềng, chúng ta không ưa thích, mỗi khi nhớ đến người đó, thì chúng ta đâm ra bực bội, thì chúng ta tưởng như không có người đó, hay là người đó không ở gần mình. Nhưng khi ý mình tưởng như vậy, thì họ có hay không? Vì họ nên mình mới nghĩ, mình cố trốn tránh họ. Bởi cố trốn tránh họ nên người đó trở thành sự thật! Họ và mình. Giờ đây chỉ cần nhìn thẳng vào sự thật, hay nhìn thẳng vào nó, mà nhìn thẳng vào nó tức thì tự nó sẽ tiêu dung. Cho nên: “Chẳng cần tiêu dung là đạo cùng sự hội, thì sự nào mà chẳng phải đạo?” Giờ đây chúng ta biết rõ, người cảnh đều duyên hợp, mà duyên hợp thì đâu có thật. Đã không thật thì chúng ta muốn cho nó mất để làm gì? Chỉ cần biết rõ không thật thì tự nó mất, không cần phải tiêu dung. Đó là chúng ta đã dùng trí huệ mà nhìn thẳng vào sự thật. Còn muốn cho nó mất, bằng cái niệm trốn tránh, hay tưởng tượng như nó là không, thì càng muốn nó mất, nó lại càng có. Cho nên người học đạo phải thẳng thắn mà nhìn thẳng vào sự vật để thấy sự thật của nó (mà sự thật của nó là hư giả) thì sự với đạo mới hợp. Như chúng ta đọc Bát Nhã: “Sắc tức thị Không.” Sắc là sự, không là lý; lý ngay nơi sự, sự ngay nơi lý; ngay nơi sự đó, đã hiển bày lý rồi, thì còn muốn tiêu cái gì, dung cái gì? Do đó, ở đây Ngài dùng thí dụ: “Như người có mắt sáng, nhưng trong nhà không đèn đuốc. Thành ra tuy mắt sáng nhưng trong nhà không đèn, đuốc, nên không lấy được của báu. Khi trở ra của báu không có mà mình còn có bệnh. Thế là kho báu đó đã trở thành hang độc. Cũng người có mắt sáng, thêm có phương tiện đèn đuốc, nên vào kho báu, họ biết chỗ nào có của báu và lấy đầy túi, trở ra an lành tự tại. Đèn đuốc ở đây thí dụ cho trí huệ. Chúng ta có trí huệ thì đối với đạo, không tốn công mà dễ đạt. Còn không trí huệ thì nhọc nhằn mà khó tìm. Đây là chỗ mà nhiều người không hiểu. Tôi nói lại lần nữa cho quí vị rõ.

]

 

THIỀN TÔNG VIỆT NAM