| 
       
      
      PHẦN 6 
      
      Hiện giờ chúng 
      ta tu có hai cách:  
      
      Cách thứ nhất: 
      là tin Phật, tin nơi phương pháp nào đó, rồi cố gắng tu, chẳng hạn như 
      phương pháp tọa thiền đếm hơi thở. Ngày ngồi 6 giờ đồng hồ, đêm 6 giờ. Như 
      vậy đêm ngày 12 giờ. Nhưng công phu đó đối với đạo gần hay xa? Khi ngồi 
      thì cố gắng đếm cho tâm nghiêm chỉnh, nhớ số rõ ràng, nhưng vẫn không thấy 
      người, cảnh duyên hợp như huyễn. Do đó khi gặp việc không như ý, tuy cố đè 
      mà ngồi cũng nhớ mãi, cố đè mà đè không nỗi. Vì còn thấy cái gì cũng thật. 
      Như vậy tuy dụng công nhiều nhưng đối với đạo còn xa xôi. 
      
      Cách thứ hai: 
      Có người ngồi thiền ít hơn, nhưng họ nhìn sự vật bằng trí Bát nhã. Thấy rõ 
      tất cả đều duyên hợp không thật, biết mình giả, cảnh cũng giả, nên không 
      có việc gì làm cho họ bận tâm, hay quyến luyến, họ bỏ một cách dễ dàng. 
      Như vậy công ít mà kết quả nhiều, bởi có trí huệ lớn. Qua hai thí dụ trên 
      là: Người có mắt sáng vào kho báu có đèn đuốc, và người vào kho báu không 
      đèn đuốc. Quí vị đã thấy rõ sự tốn công nhiều, hay tốn công ít của sự tu 
      hành.  
      
      Khi tôi giảng 
      ở đây, có một số người nói: “Tôi nói cái gì cũng không, như vậy tu ở đây 
      là chấp lý, bỏ sự.” Không ngờ trong suốt 49 năm đức Phật thuyết pháp. Ngài 
      đã dành 22 năm để nói kinh Bát Nhã. Như vậy để chúng ta thấy, Bát Nhã là 
      một thời gian quan trọng nhất khi đức Phật nói Kinh. Nhằm chỉ người nhận 
      ra được đường lối tu hành, tức là sống với trí huệ. Có trí huệ thì mới gần 
      với đạo. Giờ đây quí vị hãy thí nghiệm nơi mình thì sẽ thấy được tầm quan 
      trọng của trí huệ. Chúng ta ngày đêm 6 thời, hoặc cố gắng tụng Kinh, hoặc 
      cố gắng ngồi thiền đầy đủ. Nhưng không dùng trí huệ Bát Nhã để quán chiếu. 
      Tuy công phu có nhiều, phước đức có nhiều, nhưng gặp cảnh thuận (thuận ý) 
      chúng ta dễ xao xuyến, gặp cảnh nghịch (trái ý) dễ sanh các phiền não. 
      Trái lại, nếu mỗi ngày gặp việc, mỗi lúc đối cảnh chúng ta đều dùng trí 
      Bát Nhã mà nhìn, mà quán chiếu thì chúng thấy nó hơi nhàn. Tuy nhiên khi 
      gặp việc đối cảnh, lại ít sanh phiền não. Đó là một sự thật. Do vậy, ở đây 
      Ngài mới dẫn câu chuyện của thủ tọa Vĩnh và Ngài Từ Minh.  
      
      Hai vị là đệ 
      tử của Ngài Thiện Chiêu. Ngài Từ Minh đã ngộ đạo rồi, còn thủ tọa Vĩnh vẫn 
      chưa ngộ.  
      
      Khi Ngài từ 
      Minh đi nơi khác để hoằng hóa. Thủ tọa Vĩnh cũng đi theo, mà ngót 20 năm 
      vẫn chưa ngộ đạo hoàn toàn.  
      
      Ở Trung Quốc 
      vào mùa đông. Buổi tối các Ngài hay ngồi quanh lò sưởi để sưởi. 
       
      
      Khi đó Ngài Từ 
      Minh lấy cây đủa sắt gấp than, rồi chỉ lên hòn than gọi:  
      
      - Thủ toạ 
      vĩnh! Thủ toạ vĩnh! 
      
      Tưởng Ngài Từ 
      Minh nói đùa nên Vĩnh liền nói:  
      
      - Giả hồ tinh! 
      
      Ngài Từ Minh 
      nói:  
      
      - Kẻ khờ! (Vì 
      chưa giải quyết xong còn đang ôm ấp cái nghi ngờ, chưa thấy được đạo cứu 
      cánh, nên gọi: kẻ khờ). L?i như thế ấy đi! (lại như hòn than này đi!) 
      
      Thủ tọa Vĩnh 
      ngay đó liền ngộ. Vậy Ngài Từ Minh muốn nói cái gì? Là bảo phải thấy đạo 
      bằng trí huệ, chớ đừng bằng niềm tin, vì bằng trí huệ thì Ông sẽ được an 
      lạc. Cũng vậy, nếu chúng ta đến với đạo bằng niềm tin. Nghĩa là tin Phật, 
      tin Pháp, tin Tăng, rồi cố gắng y nơi đó tu thì phước chúng ta có. Nhưng 
      với đạo khó gần. Còn chúng ta dùng trí huệ, thấy cái hay của Phật pháp rồi 
      nhận nơi đó, nhận được cái sẳn có nơi mình (vì bao nhiêu kinh Phật, bao 
      nhiêu lời Tổ đều là chỉ lẽ thật đó). Như vậy chúng ta mới gần với đạo. Cho 
      nên khi thủ tọa Vĩnh nhận ra ý chỉ của Ngài Từ Minh là chỉ mình như hòn 
      than, sự biết và hằng sống với trí huệ đó. Về sau Ngài Từ Minh hỏi câu 
      nào, chúng đáp không được, khi thủ tọa đi đến thì Từ Minh đều gật đầu. Vì 
      người, đã sống với trí huệ như vậy, thì đi, đứng, nằm, ngồi gì cũng hợp 
      với đạo, chưa cần nói mà đã hợp rồi. Còn chúng ta bây giờ, thì vào đạo với 
      niềm tin hay trí huệ? tin Tam bảo là có phước, tụng Kinh, Niệm Phật là có 
      phước, cúng dường là có phước, đó là vào đạo bằng niềm tin, chớ không bằng 
      trí huệ. Cho nên, chúng ta đã học và hiểu, thì phải dùng trí huệ mà mở 
      mắt, vì có trí huệ, chúng ta mới giải quyết được tất cả phiền não. Nếu 
      chúng ta chỉ biết, lấy công phu tụng kinh cho nhiều, niệm Phật cho lắm, 
      cho là có phước. Nhưng không biết dùng trí huệ để quán chiếu, ngôn ngữ là 
      hư giả, người cảnh là hư giả. Khi ta gặp những việc, những lời trái ý, 
      chúng dễ sân. Cho nên, thấy sự việc thấy người, thấy mình đều thật thì khó 
      tu vô cùng, tu chỉ là có phước chớ không thể giải thoát được. Vì vậy muốn 
      giải thoát, phải đặt trí huệ lên trên, do đó mà trong lục độ, tuy trí huệ 
      là sau hết nhưng nó trùm cả 5 độ kia. Vì bố thí mà thiếu trí huệ, thì bố 
      thí không thành Ba La Mật. Trì giới mà thiếu trí huệ, thì Trì giới cũng 
      không thành Ba La Mật... 
      
      Có như vậy 
      chúng ta mới thấy được đạo lý của Phật dạy: chúng ta đã học đạo giác ngộ 
      mà thiếu trí huệ, thì làm sao giác ngộ? Chính trí huệ mới cởi tất cả phiền 
      não cho mình và mới đưa đến chỗ hoàn toàn giác ngộ. Cho nên ở đây Ngài 
      nói: “Học đạo phải như Thượng tọa Vĩnh, cho thuốc phải như Từ Minh. Vì 
      biết người chưa được, còn đang nghi ngờ thì phải tạo phương tiện làm sao, 
      để cho người sạch hết nghi ngờ. 
      
      “Ở chỗ ồn được 
      lặng, thì ở chợ xóm biến thành núi rừng, Phiền não biến thành Bồ đề, chúng 
      sanh thành Chánh giác. Câu nói này người mới học đạo đều nói được, hiểu 
      được, đến khi thực hiện một thứ thấy biết bình đẳng và buông xả tâm ấy thì 
      thấy Phàm Thánh vẫn là hai như xưa. Lặng và động đều là dụng khác. Thế là 
      càng biết rã là, giải hội cần phải có chỗ an ổn mới được một vị, không nên 
      gắng hội.” 
      
      Ở đây Ngài nói 
      câu mà chúng ta thường nghe: “Ở chỗ ồn được lặng thì chợ, xóm biến thành 
      núi rừng, Phiền não thành Bồ đề, Chúng sanh thành Chánh giác.” Chẳng hạn 
      như chúng ta bây giờ ở chỗ vắng vẻ tu. Có người hỏi: Cần gì phải ở nơi 
      vắng vẻ, ở chợ tu được mới hay, ở chợ mà không động tâm mới là tu thật. 
      Như vậy thì phiền não tức Bồ đề, chúng sanh tức thành Chánh giác. Còn ở 
      trên núi mà tu thì có gì hay? Nói câu nói đó cũng được, nhưng thực hiện 
      câu nói đó là một việc khác. Vì, đến khi thực hiện một thứ thấy biết bình 
      đẳng và buông xả tâm ấy, thì thấy Phàm Thánh vẫn là hai như xưa, lặng và 
      động đều là dụng khác. Giờ đây quí vị thử thí nghiệm thì sẽ thấy. 
       
      
      Khi quí vị 
      ngồi một mình ở chỗ lặng lẽ như trên núi này, và dụng công phu (chữ dụng 
      công ở đây tôi nói theo nghĩa thông thường), quí vị thấy có an được một 
      chút. Nhưng sau đó, năm, bảy huynh đệ đến chơi và ngồi nói chuyện. Tuy 
      không nói, nhưng cuộc nói chuyện ồn ào đó. Quí vị thấy mình có được an như 
      lúc trước không? Đây là đồng một cảnh. Cùng ở trên núi, chỗ một người và 
      nhiều người đã khác đi rồi. Huống nữa ở giữa chợ có biết bao nhiêu chuyện. 
      
      Vì vậy, chúng 
      ta ai ai cũng có thể nói, nhưng chúng ta nên nhớ, nói được chưa hửng đã 
      làm được. Cho nên: “Cái hội cần phải có chỗ an ổn mới được một vị.” Người 
      giải hội (hội ở đây có nghĩa là hiểu, là ngộ) do học hay nghe Thiện tri 
      thức nhắc nhở mà mình lãnh hội được, thì cần phải có một cảnh an ổn, lâu 
      dài mình mới thuần nhất. Đó là sự thật mà Ngài nhắc cho chúng ta phải thật 
      tình mà thấy, chớ đừng có lầm lẫn. Bởi chúng ta có cái bệnh hiểu được chút 
      ít, là tưởng mình đã xong. Nhưng đến lúc nhớ lại thì những cái mình hiểu 
      lúc trước, giờ đây nó biến đâu mất! Đó là mình chưa hoàn toàn sống với tâm 
      thể chân thật mà mình tưởng đã được. 
      
      “Gần đây nhiều 
      người lấy vấn đáp làm gia phong thiền gia, chẳng rõ việc của người xưa, 
      một bề chạy theo ngọn ngành, không biết trở lại, thật là quái lạ! Người 
      xưa vì mê mà hỏi. Chỗ hỏi cầu chứng nhập, được một lời, nữa câu, đem làm 
      việc nghiên cứu phát minh khiến cho thấu triệt, không có giống ngươì thời 
      nay hỏi loạn, chụp lấy câu đáp rồi cười đùa.”    
      
      Ở đây Ngài 
      nói, có nhiều người đến hỏi đạo, nhưng không vì đạo mà hỏi. Họ chỉ hỏi để 
      mà hỏi, hoặc hỏi để đùa chơi. Thành ra việc hỏi đạo đó thật vô ích. Ở chỗ 
      này, tôi cũng nhắc cho tất cả quí vị xuất gia rõ, chúng ta phải cẩn thận 
      khi trả lời những câu hỏi, biết câu hỏi nào chúng ta nên nói và không nên 
      nói. Nếu người đến hỏi đạo, hỏi để lấy hơn thua. Chúng ta nên im lặng, 
      chịu làm kẻ dốt. Còn nếu để đùa chơi, thì mình càng nên dốt hơn nữa. Chúng 
      ta chỉ trả lời cho những người vì mê mà hỏi, vì muốn giải nghi ngờ để tu 
      hành.      
      
      “Kẻ đạt giả 
      trong 12 giờ học đạo, không có một khoảnh khắc buông xả, người này dù chưa 
      được vào, mà mỗi niệm là tu hành. Tầm thường nói tu hành, chẳng qua ba 
      nghiệp, 6 căn thanh tịnh. Thiền môn không thể như thế. Vì sao? Vì môn 
      thiền định, niệm niệm cùng trí ba la mật bình đẳng, tất cả chỗ tự không 
      lỗi lầm, hằng lâu bổng có ngày tâm địa thông minh, từ trước thảy được đầy 
      đủ, gọi là nhất hạnh tam muội. Người thời nay toàn là sức định, lại chẳng 
      mở con mắt trí huệ, có những cơ duyên ngữ cú, chỉ thành tranh luận, tâm 
      hành sanh diệt.” 
      
      Ở đây Ngài 
      nói: “Kẻ đạt giả trong 12 giờ học đạo không có một khoảnh khắc buông xả 
      (buông lơi), người này dù chưa được (đạo) vào, mà mổi niệm là tu hành.” 
      Người học đạo trong 12 giờ phải luôn luôn cần mẫn, không có buông xả, tức 
      hằng làm chủ được tâm mình. Còn chúng ta trong 12 giờ, thì bỏ ít nhất 9 
      giờ, tu 3 giờ là tu tối đa. Thậm chí loạn luôn hết 12 giờ! 
      
      “Tâm thường 
      nói tu hành, chẳng qua 3 nghiệp, 6 căn được thanh tịnh.” Ngài nói, thường 
      chúng ta tu lâu nay là tu cái gì? Là giữ cho 3 nghiệp, 6 căn được thanh 
      tịnh là trên hết. Nhưng ở đây, trong nhà thiền cũng không chấp nhận. Tại 
      sao? Vì “Cái môn thiền định này mỗi niệm, mỗi niệm, cùng trí Ba la mật 
      bình đẳng, tất cả chỗ tự không lỗi lầm.” Môn thiền định mà chúng ta tu 
      hiện giờ là, mỗi niệm, niệm nào cũng bình đẳng với trí Ba la mật, không 
      phải chỉ thanh tịnh với 6 căn là được, thanh tịnh ba nghiệp là xong. Bởi 
      nếu 3 nghiệp, 6 căn thanh tịnh thì chúng ta chỉ có định chứ chưa có huệ. 
      mà trí huệ bình đẳng, mới là cái trí huệ nhận được tâm thể lặng lẽ nhất 
      như. Và sống được với tâm thể lặng lẽ nhất như, thì khi nhìn cảnh, nhìn 
      người, chúng ta đều thấy là tướng duyên hợp hư giả. Đó là “Nơi nào cũng 
      không lỗi lầm.” Vì nơi nào cũng có tâm thể bình đẳng đó. Nếu chúng ta sống 
      được với trí Ba la mật, mỗi niệm phù hợp với trí Ba la mật bình đẳng này 
      lâu ngày thì, “Bổng có ngày tâm địa thông minh, thì từ trước thảy được đầy 
      đủ, gọi là nhất hạnh tam muội.” Do đó, chỉ một hạnh này mà đầy đủ tất cả 
      những cái cháng định.  
      
      “Người thời 
      nay toàn là sức định. Cố giữ cho 3 nghiệp, 6 căn thanh tịnh thôi. Lại 
      chẳng ở con mắt trí huệ, có những cơ duyên ngữ cú chỉ tranh luận, tâm hành 
      sinh diệt.” Vì gần đây có những người học đạo, đạo không thông, pháp tu 
      chưa chứng, nhưng nghe người tu pháp khác mình lại bác. Thí dụ như người 
      tu Tịnh độ nghe nói tu Thiền thì bác: tu Thiền đi đến đâu? Chết không được 
      vãng sanh.hoặc giả người tu Thiền lại bác người tu Tịnh độ. Đó là chỉ 
      trích trên tâm hành sanh diệt, chớ không có con mắt trí huệ. Nếu chúng ta 
      có con mắt trí huệ thông suốt, thì việc mình, mình phải giải quyết cho 
      xong, có thì giờ đâu để đi công kích người? Chẳng hạn chúng ta hiện đang 
      tu Thiền ở đây. Nhưng nghe có vị tu Tịnh độ hay trì chú, hoặc tu (Thiền) 
      Thoại đầu, Khán công án... Thì chúng ta không thích và công kích người đó 
      liền. Vì lo công kích người, nên đâu có thì giờ tu.  
      
      Bởi muốn công 
      kích người, chúng ta phải tìm cách để lý luận, làm sao cho hơn người, thế 
      là, càng công kích càng xa với đạo! Chỉ có người biết đạo là tự xoay lại 
      mình, để giải quyết việc mình cho xong. Sau đó, ai muốn đi theo con đường 
      của mình, thì mình sẳn sàng giúp đở họ, bằng người không muốn thì thôi. 
      Chúng ta phải tôn trọng tự do của người, đừng bắt người theo mình, đó là 
      cái xấu nhất trong nhà đạo. Giả sử mình được rồi, mà thấy người đi đường 
      khác, cũng không có quyền bắt người theo, huống là mình chưa được, chuyện 
      vô lý làm sao! Như vậy, lại có nhiều người thích công kích. Chính tôi là 
      một nạn nhân bị công kích! 
      
      Có một Ông Sư 
      nghe nói ở đây tu Thiền, nên đến thăm. Đến nơi, sau vào câu chuyện thì vị 
      đó hỏi tôi: “Thầy dạy tu Thiền, vậy có dạy niệm Phật hay không?” Tôi thật 
      thà đáp: “Chủ trương của tôi, dạy môn nào một môn thôi. Một mình mà ôm 
      nhiều môn quá, e làm không xong. Nên tôi chỉ dạy một môn tu Thiền, còn 
      niệm Phật thì có quí Hòa Thượng khác dạy.” (Nghe câu hỏi quí vị tinh ý 
      biết là ai rồi? Những bản dịch nào của vị ấy, đều để câu: “Nguyện sanh Tây 
      phương Tịnh độ trung...) Vị ấy nói: “Tu Thiền mà không niệm Phật thì không 
      bao giờ đạt được, còn tu Thiền mà niệm Phật nữa, thì như cọp mọc sừng.” 
      Xong lại dẫn trong Kinh nói: “Người tu Thiền như con kiến, từ dưới đất bò 
      lên gốc núi, còn người niệm Phật như là chiếc thuyền có buồn, xuôi gió, 
      thuận nước, dương buồm lên là chạy đến nơi. Vì vậy tu niệm Phật mới được.” 
      Tôi hỏi: “Thầy thấy đó, Kinh nào nói?” Vị kia ngẩn ra, vì không biết Kinh 
      nào (chính vị Sư đó, hiện thời cũng không niệm Phật, tụng Kinh được vì đau 
      phổi nặng). Quí vị thấy, ở thế gian có nhiều chuyện là đời, ở trong đạo 
      cũng giống như vậy. Không hiểu chính mình đang làm việc đó là được không 
      mà nghe nói ai làm khác hơn là chống chỏi. Trong khi chính pháp môn của 
      mình, mình vẫn chưa nắm vững, chưa chắc đã thành công. Rõ ràng là người 
      không có con mắt trí huệ, đó là bệnh! 
      
      “Thiền học 
      chẳng phải việc nhỏ bé, chưa có cái dụng siêu Phật, việt Tổ. Được rồi cần 
      siêu, việt cũng chẳng khó. Cao Bưu Tôn Thừa Vụ biên thư hỏi tôi: “Chẳng 
      rời ý tưởng, chẳng ở có không, thế nào là phải?” Tôi tự đáp: “Nếu hỏi thế 
      nào, cũng chẳng phải.” Khách say khiến tinh thì thần châu tự sẳn đủ, đâu 
      có thể dự tính làm rồi sau mới nhận. Người lanh lợi bật nhất, tầm thảo 
      chẳng đến một niệm này, khéo được tự thấy, thấy đó tức phải, không riêngcó 
      lối tẻ. Bọn tầm thường cho niệm trước là phải, lấy niệm sau soi đó, trước 
      sau đuổi nhau, lấy tâm dụng tâm, tâm ắt thành cảnh. Cái nguyên tắc buổi 
      đầu đã thành tâm cảnh rồi, lần lượt, lại chẳng kham.”    
      
      Đoạn này rất 
      thiết yếu cho sự tu, Ngài nói tu Thiền học là một việc lớn. Nếu chúng ta 
      chưa có cái dụng siêu Phật, vượt Tổ, nhưng khi chúng ta đạt đạo rồi, thì 
      cần siêu Phật, vượt Tổ vẫn có cái dụng đó. Chỗ này chúng ta nghe như là 
      kiêu mạng, vì như vậy chúng ta siêu vượt hơn Phật, Tổ nữa sau? Thực ra nói 
      siêu Phật, vượt Tổ là nói khi chúng ta sống hẳn được với tâm thể rồi, thì 
      tự có đầy đủ nhẵng dụng siêu thoát, không khó khăn. Còn chúng ta chưa sống 
      được với tâm thể, mà muốn có dụng siêu thoát đó là việc vô ích. 
      
      Ở đây tôi nhắc 
      cho quí vị biết. Có hai hạng người tu. Một là hạng chạy theo ngọn, hai là 
      trở về gốc. 
      
      Hạng thứ nhất: 
      Khi nghe Phật, Tổ, các vị A La Hán có tam minh, lục thông, nên khi tu hành 
      thì thích có thần thông như: Làm sao bay được, làm sao biết được tâm người 
      khác... Cho những cái đó là siêu việt. Đây là người căn cứ trên ngọn mà 
      tu. Vì trong Kinh Phật nói: “Thần thông diệu dụng”, chỉ là cái dụng của 
      tâm thể thôi.  
      
      Hạng thứ hai: 
      Khi chúng ta sống được với tâm thể, thì những thần thông diệu dụng đó, 
      không cầu mà tự có. Trái lại, chưa sống được với tâm thể, mà chúng ta cầu 
      thần thông, thì dễ lạc vào đường tà. Bởi Ma cũng có thần thông, khi biết 
      chúng ta muốn thấy Phật, thì nó hiện Phật, muốn bay nó làm cho bay... 
      Chúng ta làm sao biết Phật, hoặc cái bay đó là chánh hay tà? Vì vậy, có 
      những người tu Thiền mà điên cuồng. Là vì họ mong vào cái dụng. Giờ đây 
      chúng ta trở về gốc, tức là trở về với tâm thể lặng lẽ, thêng thang thì vô 
      lượng diệu dụng sẽ tự đầy đủ, đâu có gì quyến rủ được chúng ta, đâu có gì 
      làm chúng ta rơi lạc? 
      
      “Ông Cao Bưu 
      Tôn Thừa Vụ biên thư hỏi Tôi: Chẳng rời ý tưởng, chẳng ở có không, thế nào 
      là phải?” 
      
      Ông hỏi Ngài 
      Phật Nhãn: “Nếu bây giờ tu mà tâm mình không rơi vào ý tưởng, không chấp 
      vào có không, thì thế nào là phải?” Ở đây Ngài đáp: “Nếu hỏi thế nào, cũng 
      chẳng phải? 
      
      Vì ông có hỏi 
      thế nào, tức là ông chẳng phải rồi! Chẳng hỏi thế nào cũng chẳng phải! Tôi 
      thí dụ, về đoạn này: Như hiện giờ quí vị ngồi đây, và nhìn thấy trên bàn 
      có ly nước. Tôi bảo: Quí vị có thấy ly nước không? Quí vị nào mắt sáng 
      nhìn trên bàn đều thấy.  
      
      Nhưng có vị, 
      còn hỏi lại. Cái ly đó có phải ly nước hay không? Như vậy quí vị chưa thấy 
      hoặc thấy chưa rõ, phải không? Vì vậy mà nói hỏi: “Tu thế nào, tức là chưa 
      phải, không hỏi tu thế nào, cũng chưa phải.” Vì thế nào ahy không thế nào, 
      cũng là hai bên, mà còn hai bên tức là còn có không đối đãi. Cũng như hỏi 
      phải hay chẳng phải là còn trong nhi ngờ chưa quyết định, há có thể phải 
      được sao? Cho nên nói: “Khách say khiến tỉnh thì thần châu tự sẳn đủ.” Câu 
      này trích trong Kinh Pháp Hoa, ở thí dụ hệ châu. Có một người nghèo được 
      bạn đến thăm, hai người uống rượu với nhau cho đến say. Người bạn trước 
      khi ra về muốn tặng hật châu, nhưng thấy bạn của mình say quá, đành lấy 
      hạt châu cột trong chéo áo. Thời gian sau trở lại, thấy lang thang đói khổ 
      nên nói với bạn: “Tôi đã cho anh hạt châu còn cột trong chéo áo, tại sao 
      anh không đem ra dùng. Do đó mới nói: “Khách say khiến tỉnh thì thần châu 
      tự sẳn đủ.” Vì vậy người học đạo, nhất là Thiền tông này, chỉ cần nhận ra 
      kho báu của mình, thì cái gì mà chẳng đủ? Đâu cần hỏi phải, hay chẳng 
      phải? Còn hỏi phải, chẳng phải là còn trong trạng thái nghi ngờ, chưa nhận 
      mình có hạt châu. Thế nên nói: “Đâu có thể dự tính làm rồi sao mới nhận.” 
      Vì hạt châu vốn sẳn. Chúng ta không phải làm việc này, việc kia xong mới 
      nhận ra hạt châu. Cũng như không thể nói tu hành phải trải qua 10 năm, 20 
      năm mới nhận ra được. Bởi vì có những người, đương là kẻ thế tục, mà chỉ 
      nghe một câu nói, họ liền nhận ra. Thành ra nhận ra hạt châu đó không xa, 
      không phải do công phu nhiều, mà chính là khéo nhận hay nói một cách khác 
      là: Cần phải có Trí Huệ Bát Nhã. 
      
      “Người lanh 
      lợi bậc nhất, tầm thảo chẳng đến niệm này, khó được tự thấy, thấy đó tức 
      phải, không riêng có lối tẻ.” Ở đây Ngài nói: Dù cho người lanh lẹ nhất 
      thế gian, muốn suy nghĩ cho ra tâm thể này, người đó cũng không bao giờ 
      tìm được. Cho nên trong Kinh Pháp Hoa, đức Phật có nói: “Giả sử cả thế 
      giới này có bao nhiêu người thông minh trí huệ như Xá Lợi Phất, cộng lại 
      cũng không suy lường được trí huệ của Phật.” Câu nói đó có ẩn ý mà chúng 
      ta không hiểu, chúng ta tưởng trí huệ của Phật cao lắm, nên cộng ba nhiêu 
      người lại cũng không bằng. Nhưng không ngờ, lổi tại chúng ta suy nghỉ! 
      Càng suy nghĩ, càng không thấy! Cho nên được trí huệ như Ngài Xá Lợi Phất 
      là ít có. Lại cả thế  gian này, người nào cũng có trí huệ bằng Ngài, cộng 
      lại vẫn không suy lường được trí huệ Phật. Vậy nên: “Người lanh lợi nhất 
      thế gian muốn tầm thảo (tìm kiếm) niệm này, cũng không làm được. “Chỉ có 
      người thấy đó tức phải.” Ngay đó nhận ra được, thì là phải, “Không riêng 
      có lối tẻ.” Khi chúng ta nhận ra được tâm thể này, há còn có lối nào khác 
      hơn nữa? 
      
      Bọn tầm thường 
      cho niệm trước là phải, lấy niệm sau soi đó, trước sau đuổi nhau, lấy tâm 
      dụng tâm , tâm ắt thành cảnh. Chúng ta có người tu theo lối tầm thường, 
      cho niệm trước là phải, rồi lấy niệm sau mà soi niệm trước. Nghĩa là cứ 
      lấy cái này mà soi cái kia. Tôi thí dụ: Như chúng ta lúc chưa dấy niệm cho 
      là động, rồi lấy cái động để sai khiến cái tịnh kia, nhưng khi chúng ta 
      lấy cái động để soi cái tịnh, thì cái tịnh đã thành cảnh bị soi (như vậy, 
      niệm sau là niệm hay soi, niệm trước là cảnh bị soi), vì vậy, tâm biến 
      thành ra cảnh, là đã có hai. Do đó, trong Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ Ngài 
      cũng bác cái quán tịnh này. Chúng ta chỉ cần biết ngay cái niệm khởi đó là 
      hư giả, mà không phải tìm niệm trước để làm gì (không phải tìm). Cho nên: 
      “Nếu lấy tâm dụng tâm, tâm ắt thành cảnh.” Và: “Cái nguyên tắc buổi đầu đã 
      thành tâm cảnh rồi, lần lượt lại chẳng kham.” Vì khi đã thành tâm, thành 
      cảnh đã thành hai thì làm sao chúng ta dứt nó được? 
      
      “Như niệm sau 
      chẳng nhận, tự không có chỗ khởi diệt, chính nơi đó là giải thoát. Niệm 
      vốn chẳng sanh, sao lại có ý tưởng có, không làm lưu ngại? Một niệm ngộ 
      tâm liền thành chánh giác, chính là nói nơi đây vậy. Niệm niệm không sanh, 
      niệm niệm không tướng cùng với hư không đồng. Chạm vật gặp duyên đều là 
      diệu dụng Phật. Không có mãi tơ đối đãi. Hạt châu trong chéo áo, riêng soi 
      sáng khắp thế giới mười phương. Việc này mục kích liền rõ, chẳng đợi dấy 
      ý, sau rồi mới biết. Sự nghiệp Đại Trượng Phu này không thể thành tựu. Nếu 
      muốn cầu phải, liền có pháp chẳng phải làm chướng ngại, muốn cầu đắc niệm, 
      là lý do trước sau đều thất niệm. Ngày đêm không tự tại, câu cùng đạo 
      hiệp, bệnh tại chỗ lấy một, bỏ một, kẻ không khéo dụng tâm chẳng được yếu 
      thuật mờ mịt không hiểu, mỗi ngày cùng đạo càng xa.”  |