| 
       
      
      PHẦN 8 
      
      Nếu nhận lãnh 
      yếu chỉ này thì muôn cái động tự tịch diệt. Nếu người nào nhận ra cái lý 
      không hai đó, thì cái động nào cũng tự tịch diệt hết. Như mắt không đến 
      sắc, sắc không đến mắt, tiếng chẳng đến tai, tai chẳng đến tiếng. Thí dụ 
      Tôi có con mắt sáng, tất cả đồ đạt, tất cả quí vị ngồi trước tôi, tôi có 
      thấy hay không? Dù tôi không muốn thấy, cũng vẫn thấy. Tai tôi còn thính, 
      không phải hư, không phải điếc, thì những tiếng động chung quanh, dù tôi 
      không muốn nghe nó vẫn đến. Tại sao lại nói mắt không đến với sắc, tiếng 
      không đến với tai? Tuy mắt vẫn thấy sắc mà không có cái niệm phân biệt về 
      sắc thì gọi là không đến. Tai với tiếng vẫn chạm nhau mà không có niệm để 
      phân biệt tiếng thì gọi đó là không đến nhau. Đến mà không duyên, không 
      mắc gọi là không đến. Như vậy cả ngày thấy sắc, nghe tiếng mà tâm không 
      động. Cho nên nói tâm cảnh như như muôn cái động tự tịch diệt. 
      
      Nguyên là kho 
      công đức của tự tâm nên không lấy bỏ. Nghĩa là tâm không chạy duyên theo 
      sắc, theo tiếng, thì sắc cũng là kho công đức, tiếng cũng là kho công đức. 
      
      Người khế ngộ 
      đến đâu mà chẳng lợi! Đây chính là Na Già đại định (tức là đạo tràng). Khi 
      chúng ta khế ngộ được như vậy rồi, thì ở đâu cũng trong Na Già đại định. 
      
      “Người sinh ra 
      đời liền tự nhận, học đạo là đời trước từng gieo trồng căn lành. Bởi có 
      cội gốc liền biết phát tâm, cũng biết khởi nghi, đến nơi mình mà tầm cứu, 
      lại phiền não chướng mõng yếu, có nhân duyên, nên người nà dễ được hóa độ. 
      
      Nếu người chưa 
      huân tập tâm này thì chánh tín chẳng sanh, dù có nghe cũng chẳng sanh 
      nghi, chỉ như gió thổi qua tai, khuyên dạy lại sanh tâm sân hận phỉ báng, 
      thì có duyên gì mà được hiển bày. Do đó, nên trong ngàn người muôn người 
      chỉ có được một, hai người mà thôi. Nếu người tự hiểu tạo kế sống, thâu 
      thập được đầy đủ thì đời đời từ đây mà đi, lần lượt sáng suốt nhạy bén, 
      lại không thối thất công đức, một đời hơn một đời, vào khuôn vức của chư 
      Phật. Họ cùng sự tương ưng, dù sanh trên trời, cõi người cũng chỉ như thế, 
      có đối đầu với ngũ dục, bát phong và tất cả cảnh giới đều cùng lý phù hợp. 
      Kẻ ấy chẳng đi trong tam đồ, chỉ một vị bình đẳng chánh tri kiến đâu còn 
      việc gì. 
      
      Đọc đoạn này 
      chúng ta mới vững niềm tin với sự tu. Người sinh ra đời liền tự nhận học 
      đạo. Nghĩa là mình ra đời chưa có ai khuyên bảo, chưa được ai giáo dục, mà 
      mình tự phát tâm mộ đạo, đi học hỏi, là người đã từng gieo trồng căn lành 
      rồi. Bởi đời trước đã từng gieo trồng căn lành, nên nay ra đời tự nhiên 
      ham mộ đạo! Cái hâm mộ đó là cái căn lành đời trước sẳn có , chớ không 
      phải nhẩu nhiên. 
      
      Bởi có cội gốc 
      liền biết phát tâm. Vì có cái gốc, cái mầm sẵn, giờ gặp duyên nó phát ra. 
      Cho nên khi phát tâm đó rồi cũng biết khởi nghi nữa. Thí dụ khi nghe câu 
      nói không hiểu, nên nghi. Do nghi mới tầm cứu (tìm kiếm), nhờ vậy mà phiền 
      não chướng mỏng yếu, khi có nhơn, có duyên, thì người này là người dễ được 
      hóa độ. 
      
      Nếu người mà 
      tâm chưa huân tập tâm này. Người mà từ hồi đó đến giờ, chưa có được một ít 
      chủng tử nào thì chánh tín chẳng sanh. Dù người đó có nghe đạo cũng chẳng 
      sanh nghi. Nghĩa là người nói mặc người nói, không nghi ngờ gì hết. Chỉ 
      như gió thổi qua tai, có nghe rồi mất, không nhớ, không nghĩ đến, nếu ai 
      khuyên dạy họ thì họ lại sân hoặc chê bai nữa. Họ bảo: họ không muốn tu mà 
      khuyên cái gì!  
      
      Như vậy họ 
      không có duyên đời trước, thì bây giờ khó giáo hóa họ được. Bởi không được 
      giáo hóa, họ không có duyên để hiển bày được cái tâm thể đó. 
      
      Do vậy mà nhận 
      được tâm thể, đó thì trong ngàn người, muôn người chỉ được một người, hai 
      người, rất ít ỏi, chứ đây phải ai cũng nhận được, ai cũng có duyên lành 
      như thế! Đó là nói cái cơ duyên, có duyên lành và không duyên lành của 
      người nhận thật ít có. Bây giờ nói người nhận được thì sao? 
      
      Nếu người tự 
      hiểu tạo kế sống. Tạo kế sống tức là hiểu được cái tâm thể này, sống tùy 
      duyên cái tâm thể này. Trong luận Đại Thừa Khởi Tín gọi là: Tùy thuận chân 
      như. Còn Thiền tông như Ngài Nam Tuyền nói rằng: tôi có con trâu, nếu đem 
      dẫn qua khe Đông ăn thì sợ nó phạm cỏ nước của Quốc vương, dẫn qua khe Tây 
      ăn cỏ sợ phạm cỏ nước Quốc vương, chi bằng mỗi ngày cho một chút ít nó 
      sống thì được. như vậy gọi là biết kế sống để nuôi trâu đó. Con trâu đó là 
      con trâu gì? Con trâu đó là biết sống trở về với tâm thể của mình. 
      
      Thâu thập đầy 
      đủ thì đời đời từ đây mà đi. Từ đây là từ đâu? Tức là từ nơi chỗ được thấy 
      đạo đó mà đi, lần lượt được sáng suốt, nhạy bén, nghĩa là lần lượt mỗi 
      đời, mỗi đời đều tiến lên. Lại không thối thất công đức, một đời hơn một 
      đời, vào khuôn vức chư Phật. Nếu người thật tình nhận được, sống được như 
      vậy thì mỗi đời; nếu đời này chưa xong, thì đời sau tiến lên, cứ như vậy 
      cho đến ngày viên mãn, không bị hao, không bị mất. Đó là sự thật. 
      
      Họ thường cùng 
      sự tương ưng, dù sanh lên cõi trời, cõi người cũng chỉ như thế. Là gặp 
      việc gì họ cũng sống phù hợp với đạo. Dù ở trong cảnh sang cả, sung sướng 
      như cõi trời hay cực khổ như cõi người, họ cũng đều sống hợp với đạo. 
      
      Có đối đầu với 
      ngũ dục, bát phong và tất cả cảnh giới đều cùng lý phù hợp, chỉ một vị 
      bình đẳng chánh tri kiến. Dù gặp những bát phong, ngũ dục, họ cũng đều 
      sống phù hợp với tâm thể đó, không bị trái và cũng không rơi trong tam đồ. 
      Họ hằng sống trong chánh tri kiến bình đẳng. 
      
      Cho nên người 
      tu chúng ta phải gan dạ thấy rõ việc đó, tin chắc việc đó, hằng sống trong 
      việc đó, đừng bị những lý luận, những lời xuyên tạc mà lung lay. Như có 
      một số người lý luận nói rằng: Người tu thiền đời này chưa xong, mà chết 
      thì đời sau trở lại mê muội thành phàm tục (rồi dẫn chứng chuyện này, 
      chuyện kia). Còn niệm Phật về Tây phương, rồi cứ đời này, đời sau tu tiến 
      lên. Đó là một lối lý luận để đánh bạt tâm chánh tín của mình. Do đó tôi 
      nói, mà có lắm vị cũng chưa đủ niềm tin. Có nhân thì phải có quả, thật là 
      vô lý khi mình nuôi dưỡng, săn sóc cái nhơn cần mẫn chân chánh, mà mình 
      chưa viên mãn, rồi đời sau mình trở thành phàm tục mê chuyện thế gian! 
      
      Cho nên chúng 
      ta phải nhận sâu tin chắc rằng điều đó không bao giờ đúng! Phật nói nhân 
      quả rõ ràng, đó là cái căn bản thấp nhất mà còn không sai, huống là chúng 
      ta đang sống trong trí huệ chân thật mà bất thần chúng ta mất nó, thì 
      chuyện quá vô lý. 
      
      Thí dụ: chúng 
      ta học sinh ngữ Pháp, hoặc Anh, rồi bỏ qua 10 năm, 20 năm, không nói, 
      không dùng thì coi như quên là phải. Chứ nếu chúng ta học một môn sinh ngữ 
      rồi năm nào, tháng nào cũng nói, thì càng ngày chúng ta càng giỏi thêm, 
      chứ đâu co lu mờ. Chúng ta bị lu mờ vì bỏ qua 10 năm, 20 năm, nhưng tuy lu 
      mờ, nhưng được nhắc lại cũng còn nhớ.  
      
      Như vậy, chúng 
      ta có chủng tử nên chúng ta mới gặp đạo, mà gặp đạo thì chúng ta tu. Thật 
      là vô lý, khi nói tu rồi, đến chết nếu chưa viên mãn thì nó mất luôn. Cho 
      nên, không phải chỉ tôi nói, mà chính chư Tổ cũng nói, rất rõ ràng. Nếu 
      hiện tại mình tu hành, biết tạo kế sống (tức là biết sống với tâm thể), 
      mình thâu thập được đầy đủ ngay trong đời này, và từ đây về sau, lần lượt 
      càng ngày càng sáng suốt, bén nhạy và công đức mình không bao giờ thối 
      thất. Còn đời này chưa viên mãn thì đời sau sẽ tròn đủ hơn. Nghĩa là đời 
      đời sống trong khuôn vức chư Phật. 
      
      Giả sử người 
      đó, không sanh cõi này mà sanh cõi trời thì gặp việc gì họ cũng phù hợp, 
      cũng tương ưng với đạo, chứ không phải đợi gặp thiện tri thức rồi họ mới 
      tương ưng. Điều đó rất rõ ràng. Quí vị thấy hiện tại, có nhiều người ra 
      đời không gặp phật pháp, thế mà họ vẫn nói đúng lý đạo. Như vậy chúng ta 
      còn gì mà nghi ngờ! 
      
      Bây giờ đến 
      đoạn kết Ngài có ý khuyên răn chúng ta đây: 
      
      Sanh tử không 
      thể chẳng sợ, phải rõ một đoạn tình ngụy sanh tử này mới được an lạc không 
      gì hơn. Thân tâm là mối lụy. Thân như gông cùm, phải biết chỗ thân đi đến. 
      Tâm như khỉ vượn, phải biết chỗ tâm khởi diệt. Hai cái này từ chỗ nào đi 
      đến, khi khởi, thì thân tâm tròn sáng, trong ngoài nhất như. Vả lại, tâm 
      là ở trong, thì thân ở ngoài, thân là trong thì vật là ngoài. Quốc Sư bảo: 
      “thân tâm nhất như ngoài thân không thừa.” Thế thì không thấy có sanh tử 
      chống lại ý mình, nên gọi giải thoát đại đạo. Cho nên hay khiến người thấy 
      nghe đâu chẳng được chẳng thoát ý tưởng, đâu chẳng được chẳng dứt vật 
      cảnh, đâu chẳng được chẳng dung thông, lại còn nghi ngờ ư?   
      
      Ngài kết thúc 
      để khuyến khích chúng ta trong sự tu hành. Nghĩa là người tu đối với việc 
      sanh tử lúc nào cũng thấy đáng ngại, đáng sợ, vì cuộc sống này quá mỏng 
      manh. Nếu chúng ta không cố gắng thì một đời chưa giải quyết được việc gì. 
      Cho nên ”Phải rõ một đoạn tình ngụy sanh tử này mới được an lạc không gì 
      hơn”. Tình ngụy tức là cái tâm hư giả của sanh tử. Thường chúng ta cho 
      sanh tử là sự thật. Nhưng với người thấy đạo sanh tử chỉ là cái giả dối, 
      nó không phải là thật, cũng không phải là hai. Thấy sanh tử không phải là 
      hai rồi, thì tự nhiên thân tâm mình an lạc. Bình thường chúng ta thấy sanh 
      là sống, là còn, tử là mất, là chết. Nhưng tại sao lại nói sanh tử không 
      phải là hai (ai cũng thắc mắc chỗ này). Bây giờ quí vị thấy sanh là gì? Là 
      tứ đại ngũ uẩn hòa hợp. Tử là gì? Là tứ đại ngũ uẩn tan rả. Vậy sanh tử 
      chỉ là sự hợp tan của tứ đại ngũ uẩn. Tôi hỏi quí vị, tứ đại có thật là 
      mình không? Điều này nếu không nhắc thì lâu lâu rồi mình cũng quên lững. 
      Bây giờ ngay nơi tứ đại này, hỏi có phải thật là mình hay không? Thì đa số 
      nói thật, phải không? Nếu thật là mình thì ngay nơi gió nước, không khí, 
      mà mình hít vô cũng là mình, thở ra cũng là mình. Nhưng hít vô rồi thì nói 
      là hơi thở của mình, khi thở ra khỏi mũi, hơi thở đó loãng đi trong không 
      khí, biết là của ai?  
      
      Thí dụ: chúng 
      ta chừng 10 người, ngồi chung với nhau trong một phòng kín bốn thước 
      vuông, khi người kia thở ra, mình cũng có hít vô, đổi qua đổi lại, như vậy 
      hơi thở nào thuộc của ai. Vậy mà mình chấp hít vô là hơi thở của tôi. 
      
      Bây giờ đến 
      nước. Nước ở trong mình là nước của mình. Khi nó ra khỏi mình, mình có 
      dùng được nó không? Vậy mà khi còn ở trong thân thì của mình quí như vàng, 
      khi ra khỏi thân thì mình gớm, chê, nhờm chán. Như máu khi còn ở trong 
      thân thì quí, là của mình, nhưng lỡ đứt tay, nó chảy ra, mình có dám lấy 
      chung hứng uống cho bổ lại không? Đó là tôi chưa nói đến trường hợp, trước 
      khi nó chưa vô, mình cho nó là cái gì? Nếu nước còn ở ngoài thì nước đâu 
      phải là của tôi, khi uống vô rồi thì nói nước của tôi, thật là vô lý. Lúc 
      nãy không phải của mình, bây giờ tại sao nói là của mình. 
      
      Bây giờ tôi 
      thí dụ: như cái nhà ngoài chợ chẳng hạn. Cái chợ có nhìn nhận những người 
      đi vô, đi ra là của nó hay không? Những người đó đâu phải của nó, mà cái 
      sườn, cái cột. v.v... mới là của nó. Vì người vô rồi ra, làm sao bảo là 
      của nó? Mất rồi thì thôi đâu phải của nó. Mình đây cũng vậy, tứ đại vô ra 
      ngoài, rồi chấp ngang là của mình, chấp nhận mình rồi, sau cho là thật 
      luôn. Nó hợp nơi đây thì mình còn, nó tan thì nói mình mất. Thật sự tứ đại 
      có mất hay không? Khi chưa hợp tứ đại cũng là tứ đại. Khi tan ra tứ đại 
      cũng là tứ đại, nào có mất. Tứ đại không mất thì tại sao mình nói nó không 
      còn? Tứ đại không mất thì chính cái tâm thể mình có mất đâu?  
      
      Vậy mà mình 
      lại cứ cho chết là mất, sống là còn. Như vậy thấy rõ tứ đại, sống chết là 
      cái tính chất hư ngụy của mình. nếu biết sống chết chỉ là sự hợp tan của 
      tứ đại, chứ đâu có liên hệ đến mình thì mình có sợ không (nếu sợ là si)? 
      Do đó chúng ta mới thấy an lạc, giải quyết được cái đau khổ ngay trong 
      cuộc đời này, trong cõi nhân gian này, mà trong Kinh gọi là: Trong nhà lửa 
      (tam giới vô an du như hỏa trạch). Nên thân tâm là mối lụy, thân này và 
      những cái vọng tưởng là mối lụy làm cho mình phải mệt. 
      
      Thân như gông 
      cùm, phải biết chỗ đi đến, tâm như khỉ vượn, phải biết chỗ tâm khởi diệt. 
      Chắc là không ai tin thân này như gông cùm vì thấy mình khỏe quá, mình 
      sung sướng quá. Nhưng nếu có khi nào, có những giây phút mà quí vị sống 
      được với tâm thể rõ ràng, mà bây giờ nó bị kẹt trong chỗ này (tứ đại), lúc 
      ấy mình mới thấy nó là gông cùm. 
      
      Thí dụ: như 
      những lúc nhức răng hay đau đầu, chúng ta thấy tâm mình nó không nhức 
      răng, nó không đau đầu, mà giờ mang thân này rồi, phải chịu nhức, phải 
      chịu đau! Và nếu ngay đây nó rã ra, thì mình tràn trề sung sướng. Chính 
      lúc đó mình mới thấy thân này là gông cùm. Quí vị nghĩ gông cùm bỏ ra được 
      thì ai buồn? Còn nếu thấy nó là nguồn hạnh phúc, khi bỏ nó, quả thật là 
      đau! 
      
      Cho nên Tử như 
      cởi áo hạ đang nực quá, cởi áo thì mát rượi, khỏe khoắn biết bao! Bởi vì 
      mình thấy rõ rằng, quyển Kinh bằng tam thiên đại thiên thế giới mà đem 
      nhét vào hạt bụi này, rồi phải chịu khổ với hạt bụi. Giờ đây hạt bụi nó rã 
      ra thì nó tràn đầy cả tam thiên đại thiên thế giới. Vậy có sướng hay 
      không? Nếu ai thấy vậy thì chết là trò chơi, gõ nhịp mà hát, không có gì 
      than phiền hết. Còn nếu không thấy như vậy, nghe nói đến chết thì buồn 
      rầu, khổ sở.  
      
      Vậy nên cuối 
      cùng tất cả cái sợ là chết, mà nếu không còn sợ chết, thì tất cả thế gian 
      này có gì đáng sợ? Đó là chuyện thật. 
      
      Cho nên mình 
      biết thân tâm này là mối lụy, thân này như gông cùm, mà biết thân như gông 
      cùm ắt phải biết chỗ đi, chỗ đến của nó. Vậy đi đến cái gì? Là khi sanh 
      thì biết tứ đại ngũ uẩn duyên hợp, duyên tứ đại ngũ uẩn rã là tử. Biết rõ 
      như vậy tức là biết được thân. Giờ đến tâm, phải biết chỗ khởi diệt của 
      tâm, tức là phải thấy rõ những vọng tưởng này như con vượn, con khỉ, chợt 
      khởi, chợt diệt, nó vốn không thật, thì nó lặng yên. Như vậy, khi biết rõ 
      vọng tưởng không thật, biết rõ thân sinh diệt không còn nghi, không còn 
      kẹt thì ”Thân tâm tròn sáng nhất như”, không còn gì bận rộn nữa. 
      
      ”Vả lại, tâm 
      là ở trong thì thân là ở ngoài, thân là trong thì vật là ngoài.” Ở đây 
      Ngài bảo, nếu trái lại chúng ta cho tâm là ở trong và thân là ở ngoài hoặc 
      cho thân là ở trong mà vật là ở ngoài, thì như vậy có hai lớp trong ngoài 
      đối đãi nhau. Tâm ở trong mà thân ở ngoài.  
      
      Thí dụ: như bỏ 
      hòn sỏi tro cái lu, thì hòn sỏi ở phía trong mà cái lu ở phía ngoài, thì 
      hòn sỏi và cái lu đối đãi trong ngoài, hai cái khác nhau nên cũng là bệnh. 
      Thấy ngoài thân lại có vật, nghĩa là khi thấy vật, chúng ta khởi phân 
      biệt, dấy niệm nên đã sai. Đây Ngài dẫn lời Quốc Sư “Thân tâm nhất như 
      ngoài thân không thừa”. Chúng ta thường hiểu lầm câu ”Thân tâm nhất như” 
      tưởng đâu khi ngồi thiền phải để thân tâm thành một khối, mà chữ nhất ở 
      đây để chỉ cho khi vọng niệm khởi lên biết không thật thì nó tự tan, tự 
      lặng lẽ. 
      
      ”Ngoài thân 
      không thừa”. Tất cả sự vật hiện hữu, nhưng chúng ta không phân biệt nên 
      tâm nhất như. 
      
      Như trong Tín 
      Tâm Minh: 
      
                  
      “Nhãn nhược bất thùy 
      
                  
      Chư mộng tự trừ  
      
                  
      Tâm nhược bất dị 
      
                  
      Vạn pháp nhất như”. 
      
      “Nhãn nhược 
      bất thùy, chư mộng tự trừ.” Con mắt nếu không ngũ thì các mộng tự dứt. 
      “Tâm nhược bất dị, vạn pháp nhất như.” Tâm mình nếu chẳng khác thì thì 
      muôn pháp nhất như. Thật rõ ràng. 
      
      ”Thế thì không 
      thấy có sanh tử chống lại ý mình, nên gọi giải thoát đại đạo.” Sanh tử chỉ 
      là cái giả dối, tan hợp của tứ đại, nên người thấy đạo không thấy có sanh 
      tử. Không thích sanh tử, cũng không sợ sanh tử, do đó sanh tử đâu chống 
      lại ý mình. cho nên hay khiến người thấy nghe không khởi niệm, thì thoát ý 
      tưởng, thấy vật, cảnh không dấy niệm thì vật, cảnh nhất như. Đâu chẳng 
      được dung thông lại còn có gì nghi ngờ ư?  |