LÝ DO TÔI CHỦ TRƯƠNG KHÔI PHỤC THIỀN TÔNG VIỆT NAM
Nói về điều
này, tôi dẫn xa một chút. Tức là nói về lý do tại sao tôi chủ trương khôi
phục Thiền tông Việt Nam. Đó là cái then chốt để rồi chúng ta cố gắng, nỗ
lực tu trong các Thiền viện. Sở dĩ tôi chủ trương khôi phục Thiền tông
Việt Nam là vì tôi thấy Phật giáo Việt Nam từ thế kỷ 19 đến thế kỷ 20 này
có sự thoái hóa đáng buồn. Do đó mà tôi chủ trương phải khôi phục Thiền
tông Việt Nam đời Lý, đời Trần. Tức là đời sáng rực của Phật giáo Việt
Nam
cho mọi người thấy và khích lệ mọi người ứng dụng tu hành. Sự thoái hóa đó
như thế nào? Thì đây, tôi kể có những điểm:
Điểm 1: Sự
thoái hóa đó là do Phật giáo Việt Nam từ thế kỷ 19 cho đến nay, lấy hai
thời khóa tụng làm công phu tu hành của các chùa hay là của tất cả Tăng
Ni. Đó là một bước thoái hóa đáng buồn.
Tại sao lấy
hai thời khóa tụng tu mà lại là thoái hóa? Bởi vì hai thời khóa tụng ra
đời là do đời nhà Thanh ở Trung Hoa. Vua Thánh Tổ nhà Thanh tức là ông vua
thứ hai ở nhà Thanh. Quí vị biết, nhà Thanh là một giống dân ở gần Tây
Tạng, chịu ảnh hưởng về Mật tông rất đậm. Cho nên khi họ làm chủ được đất
nước Trung Quốc rồi, họ có một cái nhìn, họ quí trọng Phật giáo như quí
trọng theo đường lối của Mật tông. Chớ họ không có nhìn theo Phật giáo của
đời Đường, đời Tống. Họ muốn chuyển Phật giáo ra thành một hệ thống tu về
Mật tông cho nên vua Thánh Tổ Nhà Thanh hiệu là Khang Hy (1662-1723). Nhà
vua muốn gầy dựng nền tảng Phật giáo theo lối tu Mật tức là Mật tông, cho
nên mới mời Quốc sư Ngọc Lâm Thông Tú. Quốc sư Ngọc Lâm Thông Tú (ngài
sinh 1614 tịch 1675) và chư vị cao Tăng về triều đình rồi thể theo ý muốn
của triều đình mà soạn hai thời khóa tụng, bắt buộc Tăng Ni toàn cõi Trung
Quốc phải ứng dụng hai thời khóa tụng đó.
Như vậy hai
thời khóa tụng ra đời vào cuối thế kỷ 17 ở Trung Hoa, đời nhà Thanh. Như
vậy thì đất nước Trung Hoa chịu ảnh hưởng của các vua nhà Thanh là những
giống dân ở miền Bắc, gần Tây Tạng, người ta thâm trúng về Mật tông cho
nên muốn đem tinh thần Mật tông truyền bá. Mà muốn truyền bá Mật tông
thịnh thì Thiền tông phải lui, chớ không thể nào khác hơn được. Do đó khi
toàn quốc ở Trung Hoa, mỗi chùa tất cả Tăng Ni đều lấy hai thời khóa tụng
làm nghi thức tu hành, thì tự nhiên thầm nhận mình là Mật tông.
Tôi dẫn cho
quí vị thấy trong hai thời khóa tụng. Đầu hôm tụng kinh gì? Tức là tụng
kinh Di Đà. Sau khi tụng Di Đà rồi gì nữa? Rồi niệm Phật, tụng chú vãng
sanh, phải không? Rồi buổi khuya tụng cái gì? Thần chú Lăng Nghiêm hoặc
Đại Bi thập chú. Như vậy trọn một buổi khuya toàn là thần chú. Thần chú là
Mật tông hay Thiền tông?
Đầu hôm tụng
kinh Di Đà. Nếu có đám cầu siêu, cầu an, trước khi tụng kinh Di Đà, tụng
cái gì? Chú Đại Bi. Như vậy đó, quí vị thấy hai thời tu của Tăng Ni mà đầu
hôm nếu tụng kinh bình thường, tức tụng Di Đà. Sau niệm Phật. Cuối tụng
chú vãng sanh. Còn nếu có đám thì trước tụng chú Đại Bi rồi tụng kinh Di
Đà, cuối cùng tụng chú vãng sanh. Như vậy thời đầu hôm đã chiếm hết bao
nhiêu phần về Mật? Còn buổi khuya thì hoàn toàn là Mật, không có một chút
gì là Thiền hay giáo lý hết. Toàn là Mật. Bởi vậy hai thời khóa tụng,
chúng ta có thể nói đó là Tịnh Mật đồng tu. Tịnh là Tịnh độ, tức là dùng
niệm Phật hay tụng kinh Di Đà để khuyến khích niệm Phật. Cộng với Mật
Tông, mà Mật Tông chiếm ưu, tức là chiếm hai phần ba. Như vậy thì rõ ràng
hai thời khóa tụng ứng dụng tu, dù muốn dù không chúng ta cũng đi thẳng
vào quỹ đạo của Mật Tông, phải không? Chúng ta đi vào đó từ hồi nào không
hay. Hỏi mình tu cái gì, mình không biết. Hai thời khóa tụng, mà hỏi mình
đang tu về tông phái nào, hoàn toàn không ai biết hết. Cứ tối tụng kinh Di
Đà, khuya tụng chú vậy thôi, chứ không biết mình đang tu theo tông phái
nào. Cho nên có nhiều người nghiên cứu về Phật giáo, họ ở xa đến hỏi:
"Tăng Ni Việt Nam hiện giờ tu theo tông phái nào?" Quí vị nghĩ tu theo
tông phái nào? Đa số thấy mình niệm Phật, nói tôi tu theo Tịnh Độ. Mà tu
Tịnh Độ thật ra có một phần ba thôi. Còn hai phần ba là thần chú, là Mật.
Như vậy thì ở Trung Hoa dưới sự cai trị của đời Thanh, người ta bắt làm
cái gì, mình phải theo. Cái đó là người dân trong nước. Còn ở Việt Nam
mình không có bị trị, mà không biết tại sao cũng chạy theo, rồi mình làm
giống hệt ở bển. Đó là một cái điều thật là đáng thương cho mình.
Như vậy cuối
thế kỷ thứ 19 vẫn còn có một, hai thiền sư. Thí dụ như Thiền sư Minh
Chánh. Hay ở ngoài Trung, Ngài Liễu Quán chẳng hạn. Nhưng mà sau đó rồi
khi ứng dụng nhị thời khóa tụng vào nếp tu của Tăng Ni, thì từ đó không
còn ai biết Thiền là gì nữa. Chỉ lấy hai thời khóa tụng làm chuyên môn tu
hành. Mà chỗ này tôi chỉ quí vị thấy, cái đau đớn của mình là khi tụng hai
thời khóa tụng, thì người nào cạo tóc vô chùa tu thì được các thầy lớn dạy
rằng: "Ai ở chùa mà tụng được hai thời khóa đủ, thì đủ đền ơn cho đàn na
thí chủ". Phải không? Hay nói một cách khác là đủ trả nợ áo cơm. Nghĩa là
tụng hai thời đủ trả nợ áo cơm. Như vậy tu khỏe quá! Tối tụng kinh nếu bữa
nào quí thầy đánh mõ chậm chậm thì được một giờ. Còn nếu đánh mõ nhanh thì
45 phút, phải không? Khuya nếu siêng thì tụng thần chú Lăng Nghiêm, còn
lười thì tụng Đại Bi Thập chú đủ rồi. Như vậy đủ trả nợ áo cơm, còn dư bao
nhiêu chơi, phải không? Muốn làm gì làm tự do. Như vậy đó, đời tu quá hời
hợt. Cho nên tụng một thời kinh, thí dụ tối tụng Tịnh độ rồi xuống giải y.
lau mặt lau mày xong xuôi rồi, vô làm cái gì nữa, theo hiện tại? Mở Ti Vi
xem, xem cho tới khuya, tắt rồi ngủ. Khuya thức dậy tụng một thời nữa, còn
nếu hơi nhọc nhọc vì thức khuya coi Ti Vi, thôi thì mở máy cho tụng cũng
được. Như vậy mình cũng đủ. Ngay chùa có chuông có mõ cũng đủ rồi. Như vậy
cái tu của mình riết rồi không biết tu làm sao. Chỉ còn cái hình thức tu,
chớ tâm niệm không còn gì nữa hết. Đó là một cái rất là đáng buồn.
Tôi khi vào
chùa cũng bị dạy như vậy. Nghĩa là nếu thuộc hai thời công phu rồi mỗi
ngày đêm tụng đủ hai thời đó là đủ đền ơn đàn na thí chủ. Không còn gì
phải lo nữa hết. Thấy khỏe quá! Mình tu đâu có gì nhiều. Thành ra không
bao giờ mình có cái thao thức làm sao cho mình được giác ngộ, làm sao cho
mình được giải thoát. Không bao giờ mình nghĩ cái đó. Cứ tụng hai thời là
đủ bổn phận rồi. Bổn phận thầy tu là có bao nhiêu đó. Còn lâu lâu có chồng
thêm chút nữa thì đi cúng đi kính thêm chút Phật sự. Đó là một cái điều
rất là buồn. Nhưng mà quí vị thấy, đã đặt hai thời khóa tụng thành một
nghi lễ tu của toàn Tăng Ni, rồi các Ngài biến chế thêm có âm nhạc vào đó.
Cho nên nào mõ, nào trống, nào kèn, riết rồi tùm lum hết. Mình đọc sách
Phật, kinh Phật thấy Phật dạy hết sức là rõ ràng. Người xuất gia sau khi
đi khất thực về thì phải vào trong rừng tọa thiền hoặc ở chỗ vắng vẻ tọa
thiền. Chớ không bao giờ dạy mình ở chỗ ồn náo.
Bây giờ vô
chùa tu, tới giờ tụng kinh có đủ hết. Ồn thôi là ồn, ồn náo. Cho tới đi
niệm Phật, vừa đi vừa niệm. Tôi nhớ những năm tôi ở chùa Phật Quang, có
một số chú chóp, đi mắt cứ ngó trên trời đánh keng keng, vừa đi vừa niệm.
Niệm một cách kêu bằng cho qua hết buổi, hết giờ vậy thôi. Nhìn thấy như
vậy rồi mình hiểu nghĩa tu ra làm sao? Tu là hê ha như vậy để cho hết giờ,
hết ngày, hay là tu có cái gì chí quyết. Có cái nghị lực nào để giải thoát
sanh tử, chớ chẳng lẽ tu mà hê ha như vậy. Bây giờ nếu quí vị đi tới chùa,
có mấy chú điệu nhỏ nhỏ đó, nhìn thấy họ đi tụng kinh thấy tức cười liền.
Như vậy mà nó là một cái nề nếp cả hơn thế kỷ nay, mà có ai dám sửa đâu.
Hễ sửa là có tội. Vì đó là mình không tuân theo các vị Tổ.
Bởi vậy tôi
thấy chính khi chúng ta ứng dụng hai thời khóa tụng, làm một công phu tu
hành cho Tăng Ni, thì Phật giáo đi xuống không thể tưởng tượng. Chính đời
nhà Thanh là đời Phật giáo Trung Quốc bị thoái hóa một cách rất là đáng
thương. Rồi chúng ta lại theo đà đó, để rồi mình chịu thoái hóa luôn. Đó
là một cái thật là buồn. Như vậy cái lý do thứ nhất mà từ thế kỷ thứ 19
đến nay, Phật giáo Việt Nam bị thoái hóa, là lấy hai thời khóa tụng làm
công phu tu hành của Tăng Ni. Đó là cái điểm thứ nhất.
Điểm 2: Tăng
Ni chúng ta sau này đa số là lấy sự đi cúng đám gọi là Phật sự. Phật sự là
đi cúng, phải không? Nếu một Phật tử nào, gia đình cha mẹ qua đời thì Tăng
Ni tới tụng cúng xong rồi về, đó là làm Phật sự rồi đó. Phật sự của mình
là cái việc đó. Như vậy tu là lấy hình thức hai thời khóa tụng. Phật sự
thì lấy việc cúng đám làm Phật sự. Quí vị thấy như vậy có đau không? Nếu
đạo Phật như vậy thì còn gì là tinh ba của đạo Phật nữa. Mà hiện giờ chúng
ta đang ở trong cái quỹ đạo đó. Ai cũng như vậy hết, phải không? Tương đối
ở đây mình hơi cải cách một chút, chớ còn chùa nào thì cũng phải đi đám,
phải đi cúng. Nếu không đi đám, đi cúng thì không có gạo ăn. Cho nên rồi
lấy cái đó làm Phật sự, mà cũng lấy cái đó làm kế sinh nhai cho mình. Cho
nên gần đây tôi được nghe một số người họ nói: "Mấy vị đầu trọc đó, là làm
cái nghề thầy tu". Làm cái nghề thầy tu nghĩa là sao? Là chúng ta mượn cái
hình thức này để đi cúng, đi tụng, để lấy tiền, lấy phương tiện làm sự
sống. Chớ không có phải là cao siêu, không phải là quí báu gì hết. Chúng
ta vì sự sống mà làm thầy tu, chớ không phải vì cái giải thoát, vì giác
ngộ. Đó là một cái rất đau lòng cho giới tu sĩ của mình.
Đó là điều thứ
hai mà tôi thấy chúng ta đang mắc phải. Bởi vậy riết rồi quá thực tế, một
số quí thày khi mời đi cúng có giá biểu đàng hoàng, phải không? Nếu đi
mười thầy phải bao nhiêu tiền. Đi năm thầy phải bao nhiêu tiền. Tụng một
thời bao nhiêu tiền. Tụng hai thời bao nhiêu tiền. Như vậy thì đúng là
nghề thầy tu, phải không? Không nghi ngờ gì nữa hết. Đó, như vậy để thấy
cái thoái lùi của giới tu sĩ mình. Rất là đáng buồn.
Điểm ba: Rồi
tới một điểm nữa là điểm thứ ba. Từ thế kỷ thứ 19 mãi tới ngày nay, đa số
tu sĩ của mình đi tu, có những người do thất chí hoặc là thất tình, phải
không? Không thất chí thì thất tình. Hoặc là những người chán đời, bị
người ta hất hủi quá rồi chán. Hoặc là bị nghèo khổ. Hoặc là bệnh hoạn.
Cho nên vào chùa ẩn dương nương Phật cho qua ngày. Đó là một điều mà quí
vị nếu chúng ta coi lại những tuồng hát cải lương trước kia. Hay là những
cuốn tiểu thuyết, mà diễn tả những người tu, hầu hết đều như vậy. Vậy thì
đạo Phật giá trị như thế nào mà người tu sĩ lại có những cái nhìn, có
những lập trường quá yếu ớt như vậy?
Nếu người tu
sĩ do thất chí, thất tình, chán đời, nghèo khổ, bệnh hoạn mà đến chùa tu
đó, thì thật ra đạo Phật không còn giá trị gì nữa hết. Chỉ là một cái chỗ
dung thân cho một số người không có phương tiện sống. Hay một số người bi
quan chán đời, chớ không phải là chỗ tu để cứu độ chúng sinh.
Đó là những lý
do mà tôi nhìn thấy như vậy. Khi nhìn thấy như vậy rồi, tôi nghĩ rằng, nếu
muốn cho Phật giáo Việt Nam có một sức sống mạnh mẽ hơn, cao siêu hơn, quí
báu hơn thì chúng ta phải làm sao gầy dựng cho người tu sĩ cũng như người
cư sĩ thấy được cái giá trị Phật giáo là cao siêu, là quí báu. Cho nên tôi
mới cố tình khôi phục Phật giáo đời Lý đời Trần, mà nhất là đời Trần.
Trọng tâm chúng ta nhìn là nhìn thẳng vào đời Trần. Tại sao vậy? Bởi vì
quí vị thấy, ở Ấn Độ một ông Hoàng Thái Tử, vì nhìn thấy cuộc đời sinh,
lão, bệnh, tử là nghiệp dĩ của chúng sinh, không ai thoát được. Không ai
giải thoát nổi cái sinh, lão, bệnh, tử đó. Đó là một cái mà mọi người đều
đầu hàng, thì chính Ngài, Ngài không chấp nhận sự đầu hàng đó. Mà quyết
tâm đi tìm một con đường, tìm ra một hướng để giải thoát được cái sinh,
già, bệnh, chết đó, để cứu độ tất cả chúng sinh không còn bị liên miên đi
trong luân hồi sinh tử.
Đó là một ý
chí siêu phàm, Ngài xem thường cung vàng điện ngọc. Tất cả những phú quí,
những sung sướng của thế gian như là trò chơi. Ngài đều từ bỏ để đi tìm ra
đạo. Đạo Ngài tìm ra là cốt làm sao cứu thoát cho chúng sinh khỏi cái
sinh, già, bệnh, chết đó. Bởi vậy bài kệ mà tôi thấy trong kinh A Hàm, bài
kệ đó đức Phật nói, khi mới sinh ra Ngài chỉ trời chỉ đất nói làm sao? Cái
câu:
Thiên thượng thiên hạ,
Duy ngã độc tôn.
Nhất thiết thế gian,
Sinh lão bệnh tử.
Chính cái bài
kệ này, khi xưa tôi đi giảng, bị một ông bác sĩ hỏi tôi, tôi điếng vía,
đầu hàng. Ông hỏi: "Thưa thầy, thường thường trong kinh Phật nói kệ là bốn
câu, tại sao khi Thái tử ra đời, chỉ trời chỉ đất nói có hai câu hà? Thiên
thượng thiên hạ, là một câu. Duy ngã độc tôn là câu thứ hai. Có hai câu
hà. Còn hai câu nữa, thưa thầy ở đâu?"
Qúi vị thấy ở
đâu không? Lúc trước thì chúng ta cũng quen giảng theo giáo lý Đại Thừa,
thấy có hai câu thì nói hai câu, đâu có ngờ còn hai câu nữa mà tìm không
ra. Tôi phải thú tội là tôi chưa thấy hai câu sau, thôi để về tôi nghiên
cứu lại. Chớ thật là mình thuộc có hai câu đầu thôi. Nhưng mà sau này khi
nghiên cứu trong kinh A Hàm thấy rõ ràng là bốn câu. Hai câu sau tức là:
Nhất thiết thế gian,
Sinh lão bệnh tử.
Nghĩa là sao?
Trên trời dưới trời chỉ có ta là hơn hết. Tại sao hơn hết? Vì tất cả thế
gian ta là người thoát khỏi sinh, già, bệnh, chết. Khỏi tất cả sinh, già,
bệnh, chết. Cái đó là cái cao siêu nhất. Chớ không phải cái bản ngã là cao
siêu. Thoát được sinh tử, cái đó là cao siêu. Đó là nhìn theo con mắt Phật
giáo nguyên thủy. Nhưng mà các Ông Tổ Việt Nam mình cũng như Trung Hoa
dùng có hai câu đầu thôi.
Thiên thượng thiên hạ,
Duy ngã độc tôn.
Bởi vậy mới
nói "Duy ngã độc tôn" chỉ có ta là trên hết. Có người họ đặt câu hỏi lại:
"Tại sao đức Phật Ngài chủ trương thuyết này là vô ngã?" Phải không?
Chủ trương đạo
Phật là vô ngã mà Ngài lại vỗ ngực xưng ta là hơn hết. Như vậy có mâu
thuẩn không? Đó là một điều hết sức là mâu thuẩn. Nhưng trong giáo lý Đại
thừa thì giảng khác. Vì khi đó họ hỏi, tôi dẫn trong kinh Kim Cang tôi chỉ
cho họ thấy. Vì trong kinh Kim Cang có bài kệ. Bài kệ để nói về cái ngã
đó:
"Nhược dĩ sắc kiến ngã,
Dĩ
âm thanh cầu ngã
Thị nhân hành tà đạo,
Bất năng kiến Như Lai."
Tức là nếu
dùng sắc tướng mà thấy ta, dùng âm thanh mà tìm ta thì đó là hành đạo tà,
không thể thấy Như Lai. Như vậy chữ "Ngã" bên Đại thừa, nhìn ngã là chỉ
cho Pháp thân. Pháp thân là cái ngã tuyệt đối. Không còn cái gì bì kịp.
Cho nên trên trời dưới trời chỉ có cái ngã đó là hơn hết. Vì vậy các Ngài
bên đây thấy câu đó đủ rồi, không thêm hai câu sau. Dùng pháp thân là cái
bất sinh bất diệt, là trên tất cả, nên các Ngài bỏ hai câu sau đi. Hiểu
như vậy thì quí vị mới biết tại sao mà các kinh điển Phật, các Tổ có khi
nói đủ bốn câu, khi lại nói hai câu.
Như vậy muốn
nhắc lại rằng chủ trương của đạo Phật là chủ trương giải thoát sinh tử.
Giải thoát sinh tử cái đó mới là cái cao siêu tuyệt vời. Mà muốn giải
thoát sinh tử hoặc là mình chứng Niết bàn không còn bị sinh tử nữa. Hoặc
là mình ngộ được Pháp thân, là cái bất sanh bất diệt, là hết sinh tử. Cho
nên bên hệ Nguyên Thủy lấy Niết bàn là chỗ hết sinh tử. Còn bên Phật giáo
phát triển lấy ngộ Pháp thân là chỗ không còn sinh tử, không bị sinh tử.
Như vậy nói
tới đạo Phật là nói cái siêu thoát vượt ra ngoài tất cả sinh tử khổ đau
trong vòng trần tục này. Còn ở trong vòng trần tục, dù sang cả đến đâu
cũng là đau khổ. Dù cho có địa vị cao siêu như là vua chúa cũng vẫn ở
trong sinh tử, là đau khổ. Vì vậy chỉ thoát khỏi sinh tử mới là hết đau
khổ. Vì vậy Thái tử, Ngài bỏ ngôi để đi tu. Đi tu như vậy để thấy rõ rằng
tu để được giác ngộ thoát ly sinh tử. Nó cao siêu hơn tất cả cái gì thế
gian có. Dù quý như ngôi vua, sang trọng như ông vua cũng không bì được
cái cao siêu đó. Như vậy mới thấy được giá trị của đạo Phật là phi thường
hay là siêu xuất thế gian. Đó là chỗ mà đức Phật Ngài nhắm, Ngài đạt đến.
Bây giờ nếu Phật giáo Việt Nam chúng ta làm công việc ở trong sanh tử để
rồi được sống an ổn, sung túc mà gọi đó là tu, là mục đích của mình tu,
thì đâu có thể nào đúng với mục tiêu đức Phật đã dạy.
Cho nên tôi
nhìn kỹ Phật giáo Việt
Nam
chỉ có đời Trần là xứng đáng để cho chúng ta đề cao, để cho chúng ta học
hỏi. Bởi vì đời Trần, chính vua Trần Nhân Tông khi còn là Thái tử, Ngài đã
trốn đi một lần rồi bị cha bắt về. Sau khi làm xong bổn phận một ông vua
đối với dân, với nước. Rồi Ngài giao ngai vàng lại cho con (tức là nhường
ngôi), rồi ngài đi tu. Vậy thì ngai vàng đối với Ngài hay là tất cả sự
sang cả ở trong triều đình, Ngài thấy không có giá trị gì. Chỉ có giải
thoát, sinh tử mới là cái cao siêu, mới là cái giá trị trên hết. Cho nên
các Ngài mới xem ngai vàng như dép rách. Xứng đáng với cái ý nghĩa mà
trước kia ở Ấn Độ, một vị Thái tử bỏ ngôi đi tu. Thì ở Việt Nam, một ông
cũng bỏ ngôi đi tu. Nó là một cái tinh thần siêu thoát, như vậy đáng cho
chúng ta học hỏi. Vậy thì ngôi vua mà ngài coi không ra gì, huống nữa là
danh lợi thế gian tầm thường. Giàu có, sang trọng, quyền quý đối với Ngài
là thường, có nghĩa gì đâu. Do đó người đi tu là mang một ý chí siêu phàm,
quyết tâm làm một việc mà thế gian ít có người làm được. Đó là giá trị của
tăng bảo. Chớ còn nếu tu mà để có một nghề sống được an ổn thì đó là một
hình thức của kẻ lợi dụng Phật pháp, chớ không phải là người tu. Nói thẳng
là như vậy. Vậy thì chủ trương của tôi, quí vị mới thấy muốn nâng giá trị
tăng lên đúng ý nghĩa siêu thoát của mình mà tôi phải khơi dậy Phật giáo
đời Trần. Để cho tất cả chúng ta nhắm tới để bắt chước, để tu theo. Đừng
bị tất cả danh lợi tạm bợ của thế gian dụ dỗ, rù quến mình. Mình tu là làm
một việc gì cao siêu, vượt ngoài tất cả các tầm thường đó. chớ không phải
là chuyện rất là tầm thường mà thế gian đang ham mê, đang đeo đuổi. Đó là
lý do tại sao tôi chủ trương khôi phục Thiền tông đời trần.
Bây giờ nói
tới chủ trương của tôi. Mình tu Phật thì mình phải làm gì trước? Tôi chủ
trương mình tu Phật thì trước hết là phải tìm hiểu được lý do gì mà Thái
tử đi tu? Ngài chứng đạo là chứng cái gì? Và dạy đệ tử, dạy thế nào? Chúng
ta phải nắm cứng cái đó thì chúng ta mới có chỗ nhắm. Mục tiêu để mình
hướng thẳng vào đó mà đi theo. Chớ mình tu Phật mà không biết ông Phật tại
sao đi tu. Không biết ông chứng được cái gì. Rồi không biết ông dạy thế
nào. Thì chuyện đi tu của mình không còn ý nghĩa nữa.
Như vậy trước
hết chúng ta phải hiểu đức Phật. Câu chuyện trong sử kể hết sức là đơn
giản. Là Ngài Thái tử đi dạo bốn cửa thành thấy cảnh sinh, già, bệnh,
chết. Rồi Ngài thức tỉnh, quyết chí đi tu. Đó là lý do.
Nhưng nếu mình
nói rằng thấy cảnh sinh, già, bệnh, chết Ngài đi tu, thì người ta đặt câu
hỏi lại. Như vậy thấy sinh, già, bệnh, chết thì bây giờ chúng ta có thấy
không. Quí vị có thấy sinh, già, bệnh, chết không? Thấy chừng bao nhiêu
lần? Chắc chúng ta thấy nhan nhãn hàng ngày. Cái hiện tượng sinh, già,
bệnh, chết có trước mắt chúng ta nhan nhãn, mà sao chúng ta chưa chịu đi
tu? Mà Ngài thấy có một lần là Ngài đi tu. Như vậy cái đi tu của Ngài là
để làm gì? Đó là lý do chúng ta phải đi sâu vào trong đó.
Bởi vì với con
mắt Ngài, thấy người sinh ra, người già v.v... (nói người sinh ra thì hơi
xa, không có thiết thực). Mà tôi thấy trong sử kể đoạn Ngài đi coi dân
chúng hạ điền, làm lễ hạ điền với vua cha. Khi đi coi Ngài thấy người dân
đánh trâu cày, luống cày lên rồi có những con trùng, con dế. Rồi thấy có
bầy chim sáo, chim cưởng đáp xuống, mổ trùng dế ăn. Trên bầu trời có những
con chim cắt bay lượn, rình rình coi chim cưởng, chim sáo nào vô ý, nó
chụp, nó xé phải không? Chịu bao nhiêu hiện tượng đó để diễn tả sanh là
khổ.
Thật ra, nếu
chúng ta chịu khó nhìn. Tôi nhớ năm tôi còn ở Chơn Không, ở trên thất,
chung quanh là cây cối rậm rạp. Tôi ngồi trên tảng đá, nhìn thấy con chim
sâu, nó nhảy từ nhánh này qua nhánh kia kiếm mồi. Bất thần nó gặp con sâu,
con sâu không có lông xanh xanh. Nó mổ một cái quật qua quật lại hai ba
cái, con sâu chết, nó nuốt ọt, nó chạy đi tìm một cái nữa. Như vậy một
ngày nó nuốt chừng bao nhiêu con sâu đủ cho nó sống? Chắc tối thiểu cũng
một chục con, phải không? Mà con sâu khi bị nó gắp vô thì run run. Nhìn
thấy con sâu run run, nó đập qua đập lại hai ba cái cho chết, rồi nó nuốt.
Mình nghĩ một ngày nó giết mười con sâu để nó sống là mười cái đau khổ,
phải không? Mười cái đau khổ của chúng sinh của mười chúng sinh. Mình thấy
như vậy mình cảm thấy như con chim sâu tàn nhẫn quá. Nhưng mà nhớ lại, nếu
chúng ta ở quê, những năm về xưa đi tát đìa hay là xả đập, đi bắt cá thì
có cả giỏ này qua giỏ kia. Đem lên rồi bỏ vô trong lu, trong hủ rọng. Rồi
bửa nào ăn thì sao? Lôi ra, rồi cầm cây đập. Đập đầu nó, nó run run. Vậy
mà hài lòng lắm, đập con này rồi đập con kia. Như vậy một ngày mình đập
bao nhiêu con đủ cho một nhà ăn? Một con chết là một cái đau khổ vô cùng
cho nó, mà mình cứ đập đều đều vậy. Có những người còn tàn nhẫn hơn nữa,
kiếm cái cây thật nhọn về, bắt con cá xâu vô nó run run vậy đó rồi đem
nướng.
Như vậy kiểm
điểm lại cuộc sống của chúng ta, một ngày chừng bao nhiêu chúng sinh đau
khổ cho chúng ta? Nhìn lại, thấy rõ ràng chúng ta sống trong cái khổ đau
của những chúng sinh khác, chớ không có trong cái an lành chút nào hết.
Chúng ta được an lành là bao nhiêu chúng sinh khác phải khổ đau. Như vậy
cuộc sống là khổ hay là vui? Từ thuở bé tới già mình tích lũy bao nhiêu
cái khổ đau? Cộng lại chừng bao nhiêu? Chắc là cái kho cất khoảng chục căn
cũng đầy nữa, phải không? Cái đau khổ của chúng sinh qua sự sống của mình
đó nếu mà dồn lại cái kho mười căn cũng đầy nữa. Cái khổ có đầy cả mười
căn, chừng mình nhắm mắt thì cái khổ đó làm sao? Nó chập trên đầu mình, nó
lôi mình đi, phải không? Rồi mình sẽ khổ hay sẽ vui? Đó là tôi nói để quí
vị thấy cái cuộc sống của con người là sống bằng cái đau khổ của những
chúng sinh khác, chớ không phải sống trong cái an lành cho mình cho người.
Đó là cái phần sinh. Rồi già khổ, bệnh khổ, chết khổ. Cái đó là cụ thể
không nghi ngờ được. Như vậy thì đức Phật theo trong sử nói, khi Ngài
thấy người già thì Ngài liền nghĩ sao? Ngài thấy người già thì biết ta
cũng sẽ già. Cho nên thấy người già Ngài không dám khinh, không dám cười,
mà biết mai kia ta cũng như vậy.
Rồi thấy người
bệnh, biết ta cũng sẽ bệnh. Rất là thương người bệnh.
Thấy người
chết, biết mình cũng sẽ chết, không thoát khỏi.
Qua thấy hiện
tượng đó thì biết mình đều phải như vậy hết. Cho nên không còn lòng dạ nào
ở đó thụ hưởng cái sung sướng, cái giàu sang, mà quyết tìm những phương
pháp nào để thoát khỏi những đau khổ mà Ngài đã chứng kiến. Đau khổ đó là
đau khổ của sinh, già, bệnh, chết. Như vậy lý do Ngài đi tu, chúng ta thấy
hết sức là rõ ràng. Bởi vì muốn thoát khỏi sinh, già, bệnh, chết. Tức là
thoát khỏi cái vòng sanh tử luân hồi. Do đó Ngài quyết tâm đi tu.
Từ chỗ đó mà
sau khi đi tu rồi, quí vị thấy trong sử kể, Ngài đi tới học với các ông
tiên, dạy tu thiền định. Ông thì dạy Ngài tu chứng được Tứ thiền. Ông thì
dạy Ngài tu chứng được Phi Phi Tưởng Thiên. Nhưng Ngài thấy chưa giải
quyết được vấn đề Ngài thắc mắc. Bởi vậy Ngài không thể chấp nhận ở mãi
chỗ đó. Mà Ngài phải đi tìm, đi chỗ nào để tu, mà (để) giải quyết thắc mắc
của Ngài. Đó là điều hết sức rõ ràng.
Vì vậy mà Ngài
đi tìm, mà trước khi đi tìm, Ngài thấy thời đó ở Ấn Độ người ta tu khổ
hạnh. Nhiều người khổ hạnh tuyệt vời. Nghĩa là cái khổ hạnh coi như mình
khó làm được, thì Ngài cũng phải thực hành mọi khổ hạnh đó, để thử coi có
thể tìm ra được manh mối thoát khỏi luân hồi hay không. Nhưng cuối cùng
cũng không được. Vì vậy Ngài mới trở lại ăn uống. Ngài ngồi dưới cội Bồ
Đề, rồi khi ngồi dưới cội Bồ đề, lúc đó Ngài liền được giác ngộ. Trong cái
giác ngộ của Ngài, tôi chỉ nói đơn giản là tam minh thôi.
Quí vị thấy,
đầu hôm Ngài chứng được Túc Mạng Mình. Đến khuya Ngài chứng được Thiên
Nhãn Minh, rồi tới gần sáng Ngài chứng được Lậu Tận Minh. Chỉ có ba cái
minh đó là đủ để nói lên cái khao khát tìm kiếm của Ngài.
Bởi vì Ngài
thấy rằng, người ta tại sao sinh ra, để rồi già, rồi bệnh, rồi chết. Như
vậy mới có trong đời này, hay đã có từ bao lâu rồi? Cái thắc mắc đó, đêm
thứ 49 đầu hôm, chứng được Túc Mạng Minh thì Ngài nhớ lại tất cả đời trước
từ vô số kiếp, như chuyện mới xảy ra hôm qua. Hôm qua mình làm cái gì, hôm
nay nhớ lại rõ ràng. Cũng như vậy vô số kiếp đời trước, Ngài chứng được
Túc Mạng Minh rồi Ngài nhớ lại không còn ngờ vực gì hết. Như vậy chứng
được Túc Mạng Minh, Ngài giải quyết được kiếp người không phải chỉ mới có
lần này, mà đã có vô số kiếp rồi. Rồi theo nghiệp tuần hoàn luân chuyển
cho tới đời này, chớ không phải mới có ngang đây. Đó là sau khi chứng được
Túc Mạng Minh.
Rồi đến canh
ba Ngài chứng được Thiên Nhãn Minh. Thiên Nhãn Minh trong kinh cũng gọi là
sinh tử trí. Tức là cái trí thấy được sự sinh tử của con người. Khi chứng
được Thiên Nhãn Minh rồi, trong kinh diễn tả Ngài nói rằng: "Ta như người
đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường, thấy người qua lại, thấy người
đi đường bên này, người đi đường bên kia, kẻ đi hướng Nam, người đi hướng
Bắc. Thấy rõ ràng."
Cũng như vậy
sau khi chứng được Thiên Nhãn Minh, Ngài biết chúng sinh sau khi chết đây,
sanh nơi kia, tùy theo nghiệp dẫn. Dẫn sanh cõi lành, dẫn sanh cõi dữ, dẫn
sanh nơi nào thấy rõ ràng, không còn nghi ngờ gì nữa hết. Như vậy nhờ
chứng được Thiên Nhãn Minh, Ngài mới biết rõ con người sau khi chết không
phải là hết, phải không? Sau khi chết, rồi theo nghiệp, hoặc đi sanh cõi
lành, hoặc đi sanh cõi dữ trong lục đạo luân hồi, không phải là chấm dứt.
Như vậy Ngài
giải quyết được hai nghi vấn. Nghi vấn trước thân này, chúng ta có cái gì
về trước hay không? Và cái nghi vấn thứ hai là sau khi chết, chúng ta còn
hay mất. Ngài thấy tường tận hết. Đó là hai vấn đề đối với kiếp người
trước và sau.
Rồi cuối cùng
đến canh năm, Ngài chứng được Lậu Tận Minh. Lậu có nghĩa là rơi rớt. Lậu
có nghĩa là nhà rách, nhà bị lủng, nước nó chảy, chảy gọi là lậu. Tức là
mọi cái rơi rớt lại trong tam giới này không còn nữa thì gọi là Lậu Tận
Minh.
Như vậy sau
khi chứng được Lậu Tận Minh, Ngài thấy rõ con người tại sao do cái nghiệp
gì mà sanh ra đây? Rồi muốn không còn sanh nữa phải làm sao? Tức là lý do
gì con người có mặt và muốn hết sinh tử, con người phải làm thế nào? Thì
Ngài thấy tường tận điều đó. Bởi thấy tường tận điều đó, cho nên ngay đó
Ngài cũng dứt sinh tử.
Tôi nói như
vậy là để cho quí vị biết tổng quát, chớ còn trong đó, vì chứng được Lậu
Tận Minh là đạt được sở nguyện của Ngài, là ra khỏi sinh tử luân hồi. Bởi
ra khỏi sinh tử luân hồi cho nên Ngài thấy được bởi nguyên nhân nào đưa
người ta tới sinh tử. Cái nguyên nhân nào đưa người ta thoát ly sinh tử.
Ngài thấy rõ ràng không nghi ngờ nữa. Vì vậy mà bài thuyết pháp đầu tiên
của Ngài với năm anh em Kiều Trần Như là bài pháp Tứ Đế, phải không? Gọi
là Tứ Diệu Đế.
Bài pháp đó có
hai cái nhân quả. Hai cặp nhân quả hết sức rõ ràng. Cặp nhân quả thứ nhất
là nhân quả của sinh tử. Cặp nhân quả thứ hai là nhân quả của sự giải
thoát sinh tử.
Nhân quả của
sinh tử thì nhân gì mà có quả khổ? Đó sinh tử là khổ. Dù ở địa vị nào cũng
là khổ. Vì vậy cho nên cái khổ đó nó là cái quả. Mà nhân của nó là cái gì?
cái khổ quả từ cái tập nhân. Mà tập nhân tức là: Tham, sân, si, mạn, nghi,
ác kiến. Từ sáu cái đó làm gốc. Từ tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến là
cái nhân để tạo thành cái quả khổ hiện tại. Như vậy Ngài thấy nhân và quả
sinh tử một cách rõ ràng.
Rồi bây giờ
muốn thoát ly sinh tử thì phải làm sao? Thì Ngài chỉ, muốn thoát ly sinh
tử thì phải Diệt. Diệt cái gì? Diệt cái tập nhân, thì phải có phương pháp.
Cho nên Diệt Đế là dứt sạch cái sinh tử. Muốn dứt sạch sinh tử thì phải có
phương pháp, đó là Đạo Đế.
Đạo Đế là nhân
mà Tập (Diệt?) Đế là quả. Từ cái phương pháp tu để dứt tham, sân, si, mạn,
nghi, ác kiến đó, phương pháp tu đó mình tu thành công thì cái nhân sanh
tử dứt. Nhân sanh tử dứt thì gọi đó là Niết bàn. Hết sanh tử.
Như vậy rõ
ràng từ chỗ Ngài băn khoăn, thắc mắc. Tìm phương giải quyết thắc mắc đó,
cho nên khi Ngài tu, Ngài chứng được rồi, thì Ngài giải quyết xong cái
thắc mắc của Ngài. Mà thắc mắc của Ngài là thắc mắc của nhân loại, phải
không? Nhân loại ai là con người có một chút suy tư đều thắc mắc như vậy.
Mình có mặt ở đây là một lần hay là đã nhiều lần rồi? Chết rồi mình đi
đâu? Còn hay hết? Đó là những cái thắc mắc.
Rồi giả sử
mình cao siêu hơn chút nữa, là bây giờ làm sao thoát ly cái sinh tử này.
Đó là ba câu hỏi hết sức là quan trọng của con người. Vì vậy mà Ngài tu.
Ngài giải quyết được cho Ngài là cũng giải quyết được cho tất cả chúng
sinh. Như vậy đường lối tu của Ngài từ chỗ lý do ngài đi tu, rồi tới chỗ
chứng đạo, là đạt được sở nguyện, trong khi Ngài phát tâm đi tu. Như vậy
thì quí vị mới thấy nó có một sự liên hệ thủy chung. Tức là trước sau nó
liên hệ cụ thể, chớ không phải chuyện làm tùy hứng, tùy thời, mà có lý do
cụ thể như vậy. Cho nên nên mình biết lý do Phật đi tu rồi. Mình biết lý
do chỗ mà Phật đã chứng là chỗ gì. Hai cái đó mình nắm vững rồi.
Bây giờ tới
Ngài dạy đệ tử thế nào. Trong thời đức Phật, nếu quí vị đọc kỹ kinh Phật,
sẽ thấy tất cả những bài kinh rất quan trọng đó, để cho chúng ta tu. Đó là
tôi nói trong 37 phẩm trợ đạo, theo hệ nguyên thủy. Trong 37 phẩm trợ đạo,
quí vị còn thuộc không?
Trước hết là
Tứ Niệm Xứ, rồi Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ý Túc v.v... Ngũ căn, Ngũ Lực, Thất
Bồ Đề Phần. Những cái đó nếu quí vị đi sâu vô thì đều là phản quan hết. Là
soi sáng lại mình. Tức là nói về Tứ Niệm Xứ: Quán thân bất tịnh, quán thọ
thị khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã.
Như vậy là
quán ở đâu? Quán ngay lại mình. Như vậy là phản quan lại mình, chứ không
có tìm ở đâu. Nghĩa là phải soi lại, tìm để mà phá lần tham, sân, si, mạn,
nghi, ác kiến đó, phải không? Tất cả các phương pháp đều quay lại để phá.
Phá tất cả cái chấp đó. Phá được những cái chấp đó rồi mới đi đến chứng
quả Tu Đà Hoàn, Tư Đà hàm, A Na Hàm, A La Hán. Tức là hết sinh tử, thì dạy
đệ tử tu cũng thoát ly sinh tử, không có chút nghi ngờ gì hết. Đường lối
Ngài dạy như vậy. Mà phản quan như vậy tức là tu gì? Là tu thiền, chớ đâu
có tu nào khác phải không?
Như vậy Phật
ngồi Thiền để thấu suốt được lý do sinh tử và giải thoát sinh tử. Thì dạy
đệ tử cũng phải ngồi thiền, để soi xét lại, để rồi dứt cái mầm sinh tử,
được thoát ly sinh tử. Trước sau nó đều như nhau, không khác. Mình bây giờ
là con cháu Phật thì mình phải tu làm sao? Cái điều đó không phải mình chủ
quan, nhưng điều đó là điều không chối cãi được, phải vậy không? Đức Phật
đã làm, đệ tử Ngài làm, thì mình bây giờ làm theo là hợp 100 % không có gì
là nghi ngờ hết.
Còn bây giờ
Phật dạy phản quan mà mình phóng quang. Phóng ra ngoài, như vậy có hợp hay
không? Đó là điều tôi muốn nói để cho quí vị hiểu rằng chúng ta phải nhìn
như vậy để đối chiếu, để so sánh lại, mới biết việc mình đúng hay không
đúng. Chớ còn cứ thấy mình đi vô chùa, thầy mình làm vậy, rồi mình làm
vậy. Không cần biết thêm cái gì nữa hết. Như vậy đời của mình tu chỉ là
bắt chước người trước mình, chớ không phải là tìm tận cội nguồn cái đạo
mình tu. Cho nên chúng ta tu, trước hết chúng ta phải tìm cho ra cái manh
mối gì mà đức Phật đi tu? Rồi Ngài đạt được kết quả ra sao? Đem kết quả đó
dạy lại đồ đệ như thế nào? Mình phải nắm vững cái đó, rồi chừng mình ứng
dụng tu mới không có sợ lệch lạc, không có sợ sai chạy. Chớ còn mình không
nắm vững, rồi cứ nghe ai bày cái gì đó, rồi bắt chước tu, rốt cuộc rồi
mình tu cái gì chứ chưa hẳn là tu theo đạo Phật. Đó là điều tôi nhắc cho
tất cả phải thấy rõ vậy.
Những cái này
quí vị đọc lại trong kinh thấy tường tận, cụ thể rõ ràng. Nhưng mà ngoài
pháp ba mươi bảy phẩm trợ đạo đó, chúng ta thấy thời đức Phật còn một
người đồ đệ lớn là ai? Ngài Ca Diếp, phải không? Ngài Ca Diếp, Ngài hơi
phá cái lệ đó. Tức là Ngài vượt ngoài cái phương pháp quán thường đó. Ngài
Ca Diếp lại là một người, coi như sau Phật Niết bàn rồi lãnh đạo để mà
trùng tụng lại những lời của Phật, kiết tập thành kinh, phải không? Chủ
tọa vụ đó, (người thứ hai là người trùng tụng lại lời của Phật cho chúng
nghe) là Ngài A Nan. Hai vị đó là hai vị Tổ sau thời đức Phật. Những vị đó
truyền bá tiếp nối ở Ấn Độ. Tới vị thứ 28 là vị Tổ sang Trung Hoa, là Tổ
Bồ Đề Đạt Ma.
Như vậy chúng
ta tìm hiểu ở Phật rồi, chúng ta phải tìm hiểu ở Tổ nữa chứ, phải không?
Chứ chẳng lẽ mình biết Phật rồi, Phật tịch thì không còn gì hết. Cái đó
mình chưa nắm vững, cho nên tới phần thứ hai chúng ta phải tìm coi Tổ dạy
như thế nào. |