VỀ CHỖ NHẮM CỦA TÔI ĐỐI VỚI ĐỐI VỚI PHẬT TỔ NHƯ THẾ NÀO?
Chính trong 33
vị Tổ tôi đã giảng, đã chỉ cho quí vị rồi. Đây tôi chỉ nhắc lại vị Tổ mà
tôi chú tâm nhiều nhất là Tổ Bồ Đề Đạt Ma khi sang Trung Hoa.
Đây tôi nói để
cho quí vị thấy tinh thần siêu phàm của đạo Phật. Tổ Đạt Ma sang Trung
Hoa, Ngài dạy giáo lý một cách bình dị hay là kỳ đặc? Giáo lý của Ngài rất
là kỳ đặc. Bởi kỳ đặc cho nên khi Ngài tìm được một người đệ tử cũng phải
là kỳ đặc. Chớ còn đệ tử rất dung phàm đó thì không thể nào đảm đang được.
Sang Trung Hoa
sau khi gặp vua Lương Võ Đế. Ngài nói chuyện một hồi, thấy ông không thấm
nổi cái gì của mình muốn trao truyền cho ông. Thôi Ngài vượt sông đi tuốt
về bên Tung Sơn, vào trong chùa Thiếu Lâm, ngồi xây mặt vô vách thôi.
Không thèm dạy ai nữa hết. Thà là không dạy, phải không? Ngồi làm thinh,
còn hơn là dạy họ làm không được. Cho nên Ngài ngồi đó chờ.
Cho tới khi
Ngài Thần Quang tìm tới. Ngài Thần Quang tìm tới với cái Tâm kính trọng,
(không phải tự Ngài biết rõ mà kính trọng), mà theo sử nói là Ngài cũng
được nghe các vị Long Thần mách bảo, phải không? Cho nên Ngài tin rằng đây
là một nhà đắc đạo thật sự, từ Ấn Độ sang. Ngài hết lòng thành kính tới
cầu đạo. Bởi hết lòng thành kính cho nên mới thấy Ngài ngồi (đây có thể là
ngồi ngoài hành lang, như chùa mình ngồi hành lang đó), ngó mặt vô vách
(để cho thiên hạ đến ngó lưng Ngài thôi), không thèm nói cái gì hết. (mà
tại sao Ngài lại cầu kỳ như vậy. Thôi ta vô trong chùa ngồi cho khỏe. Mà
nếu ngồi trong chùa có ai tới muốn cầu cái gì thì làm sao Ngài thấy. Cho
nên ngồi ngoài hành lang).
Rồi Ngài Thần
Quang tới, thấy Ngài ngồi không ngó lại mình thì làm sao thưa hỏi. Thôi
chỉ còn cách tỏ ý chí kiên cường của mình đứng ở ngoài tuyết suốt một đêm.
Ngài vẫn tỉnh táo, vẫn cương nghị chớ không có chán nản. Suốt đêm như vậy.
Bây giờ đặt
câu hỏi lại. Ở đây có ai có cái khả năng, đó không? Có ai chịu không? Đừng
nói là tới muốn xin học đạo, mà tới không được tri khách hay không được
quí thầy tiếp là buồn rồi. Khinh mình quá mà. Học đạo cái gì? rồi thôi bỏ
đi. Còn tới không thèm tiếp, xây mặt vô vách, mà vẫn kiên trì đứng suốt
đêm, cho đến tuyết lên đến đầu gối mà vẫn kiên trì đứng như vậy đến sáng.
Quí vị thấy nếu là ngồi trong chùa đâu có thấy đứng ở ngoài đó, mà xây mặt
ra nói, hỏi, phải không? Nhờ hành lang cho nên ngoái lại nhìn hỏi: Ngươi
tới đây cầu cái gì mà khổ hạnh như vậy? Đó là cơ hội được thố lộ. Dạ! Con
tới đây cầu pháp môn cam lồ. Tức là pháp môn giải thoát sinh tử. Cho nên
tới xin Ngài dạy con pháp môn đó. Mình thấy như vậy thì thương quá rồi.
Được, thôi vô đây mời uống trà cho ấm. Vậy mà còn thêm một tát nữa, nói:
Cái pháp môn cam lồ của chư Phật, chư Bồ Tát ngày xưa đã xả biết bao nhiêu
thân mạng còn chưa cầu được, ngươi dùng một chút khổ hạnh này mà cầu được
sao.
Thấy thật là
buồn. Đứng suốt đêm ngoài trời mà còn chê. Thì thôi đi xuống kiếm con dao
chặt tay. Chuyện chặt tay có hay không thì không biết. Nhưng khi tôi thấy
Ngài tôi không thấy cụt tay. Cái này có thể là một ý nghĩa tượng trưng
thôi. Để cho thấy rằng giáo lý mà Ngài muốn dạy đó là chỉ cho người nào
quên thân, coi thường chết sống, Ngài mới dạy. Chớ những người nào còn quí
thân. Còn quí cuộc sống thì không bao giờ Ngài dạy. Người có khả năng đảm
đang được giáo lý này là người phải coi thường sinh tử. Xem nhẹ thân này
thì người đó mới có khả năng dạy, có khả năng lãnh hội được.
Như vậy chúng
ta mới thấy đức Phật đi tìm đạo tu hành, đem hết thân mạng của mình để
liều sinh tử, cầu mới được. Bây giờ Tổ Đạt Ma từ Ấn Độ sang Trung Hoa cũng
tìm người nào dám coi nhẹ sinh tử, thì người đó Ngài mới truyền. Người đó
mới có khả năng lãnh thọ. Như vậy mới xứng với pháp của Phật ngày xưa.
Trước sau có một cái cụ thể như vậy. Bây giờ Ngài truyền pháp gì cho Ngài
Huệ Khả, Ngài Huệ Khả trước là Thần Quang đó. Ngài tu mà tu theo trong
kinh. Cho nên ngồi thiền Ngài thấy tâm mình sao loạn tứ tung. Ngồi không
yên. Bây giờ được thầy nhận cho làm đệ tử đó là vinh hạnh quá rồi. Cho nên
Ngài mới xin: Bạch Hòa Thượng dạy cho con phương pháp an tâm. Cái chuyện
đó thì tất cả chúng ta đây cũng hỏi chừng ấy thôi. Bởi vì bao nhiêu loạn
tưởng trong khi mình ngồi thiền, mình khổ sở vì nó quá. Bây giờ gặp một vị
thầy, một vị minh sư, thì câu hỏi đầu tiên của mình là làm sao an được tâm
loạn tưởng đó. Đó là mấu chốt mà người tu nào cũng phải khẻ, phải tháo cho
được. Bởi vậy nên đem ra hỏi.
Tổ Đạt Ma từ
Ấn Độ sang Trung Hoa đi cả chín năm trời ngoài biển, tới đây người ta hỏi
câu chủ yếu đó, Ngài dạy làm sao. Tâm ta rối loạn, không an nhờ dạy phương
pháp an tâm. Ngài không dạy gì hết trơn, mà bảo: "Đem tâm ta an cho". Một
câu nói hết sức là tầm thường, phải không? Dường như không có giá trị gì
hết. Nhưng Ngài Thần Quang Ngài tin lời Tổ không phải là thường, cho nên
bảo: "Đem tâm ra ta an cho". Ngài liền xoay lại tìm. Tìm coi tâm lăng xăng
của mình. Bình thường ngồi nó lăng xăng đó, bây giờ đâu rồi. Tìm mãi một
hồi tìm không ra thì thành thật thưa: "Bạch Hòa Thượng, con tìm tâm không
được". Câu nói cũng hết sức là bình dị. Thấy sao nói vậy thôi. Tìm không
được. Tổ trả lời một cách nhẹ xìu rằng: "Ta đã an tâm cho ngươi rồi". Nhẹ
làm sao, phải không? Như vậy nếu mình nghe nói câu đó, mình sẽ làm sao?
Không biết an cách nào hết. Nhưng Ngài Thần Quang vừa nghe vậy thì Ngài
tỉnh ngay liền. Ngài biết được con đường vào, con đường an tâm. Tức là ngộ
được pháp an tâm.
Như vậy an tâm
có pháp không? Chính cái này là cái then chốt mà bây giờ chúng ta phải nắm
cho vững để tu. Điều đó tôi tư cách là Giảng sư đi, đừng nói Thiền sư, vì
thiền sư không có quyền nói, mà giảng sư mới có quyền nói.
Tâm chúng ta
bất an là vì nó đang phóng chạy, đua theo cái này, nắm bắt cái kia. Lăng
xăng , lộn xộn suốt ngày. Cho nên ngồi lại nó vẫn cứ chạy. Trong kinh
thường gọi là như khỉ, như vượn vậy đó. cứ chuyền nhảy, chuyền nhảy không
an. Cho nên người tu thiền khổ sở vì cái bất an đó. Bây giờ cầu xin phương
pháp, Ngài không chỉ phương pháp, Ngài bảo đem tâm ra. Nhưng cái lăng xăng
lộn xộn đó, khi mình tìm nó coi nó ở đâu, thì sao? Tìm mất hết trơn. Mất
tăm mất dạng, không thấy bóng dáng gì hết. Như vậy quay lại tìm nó không
còn bóng dáng, mà không còn bóng dáng thì an hay không? An chưa? Không
thấy bóng dáng nó thì lúc đó nó có chạy không? Thì tự nó đã an rồi.
Như vậy thì
biết rõ con đường phản quan lại, dừng nó thì nó mất. Bởi vì nó là không
thật, mà mình theo nó thì tạo nghiệp, theo nó thì gây nên khổ đau. Bây giờ
biết kiềm nó, soi sáng lại nó thì nó liền mất. Soi sáng lại nó, nó mất thì
có cái pháp gì? có cái pháp gì để soi sáng không? Chỉ là mình dùng trí tuệ
chiếu rọi lại. Chiếu rọi lại thì nó tự tan mất. Đó là an tâm. Như vậy nắm
được cái đó rồi thì gọi là Thiền tông. Thiền tông không có pháp cho người.
Không có pháp dạy cho người, mà chỉ cho chúng ta phản quan.
Trong kinh
Phật dạy chúng ta quán Tứ Niệm Xứ là phải quán thân bất tịnh, quán thọ thị
khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã. Chiếu rọi lại mình để thấy bốn
cái đó. Ở đây về thiền tông chỉ tất cả tâm đó, tâm lăng xăng chấp ngã đó
nó đang quấy nhiễu, ồn náo. Và chúng ta chiếu rọi lại nó thì nó mất, tức
là nó không thật. Như vậy chỉ phản quan nhìn tổng quát là nó đã mất rồi.
Thành ra không cần phải đi từng bộ phận, phải không? Cái kia thì đi từng
phần để phá cái chấp. Còn cái này đi thẳng vào cái gốc của nó. Là tất cả
những tâm vọng tưởng, cái nào cũng là hư dối không thật. Nhìn tường tận nó
thì nó hết. Như vậy đây là phương pháp hết sức là tổng quát. Từ cái tổng
quát đó nên người có ý chí thì tu mới được, chớ còn người hơi yếu đuối, họ
thấy sao khó quá. Vì vậy mà Ngài mới chọn, phải lựa người mà dạy.
Còn nếu dạy
từng phần. Thí dụ: quán thân bất tịnh, quán thấy nhơ nhớp, thì dễ thấy dễ
biết, đi từng bước, từng bước. Còn cái này nhìn lại tất cả tâm niệm mà nó
làm rối loạn cho mình đó. Nhìn lại coi nó ra làm sao. Nhìn lại thì nó mất.
Như vậy toàn bộ tham, sân, si theo đó mất hết. Nó không có thứ tự. Như vậy
cho nên gọi là đốn giáo, hay là đốn ngộ, là chỗ đó.
Như vậy chúng
ta mới thấy Tổ Đạt Ma sang Trung Hoa để mở màn cho một thời Thiền tông rực
rỡ ở Trung Hoa. Ngài chỉ rõ hướng đi. Ngài dạy tường tận như vậy. Và Tổ
Huệ Khả là người kế thừa, nắm vững được cái đó, cho nên Ngài ngộ đạo, Ngài
tu. Thì đó là chúng ta đã thấy rõ cái manh mối của Tổ trước. Như vậy Phật
đến Tổ chúng ta thấy cụ thể rồi.
Nhưng từ Trung
Hoa sang Việt
Nam,
bây giờ chúng ta thấy Tổ từ Việt Nam mình dạy cái gì? Đó là một điều hết
sức là thiết yếu. Ở đây tôi không thể dẫn nhiều những vị đời Lý, đời Trần
hết, mà tôi chỉ dẫn ngay Trần Nhân Tông.
Ngài Trần Nhân
Tông ngộ từ cái gì? Tức là ngộ cái câu của Tuệ Trung Thượng Sĩ bảo. Ngài
thưa rằng: "Yếu chỉ Thiền Tông là cái gì? Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ đáp
rằng, nguyên văn chữ Hán: "Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc".
Phản quan tự kỷ tức là soi sáng lại chính mình. Đó là bổn phận chính,
không phải từ ngoài vào. Đó là gốc của thiền. Thiền Tông Việt Nam lấy phản
quan làm gốc. Như vậy phản quan đó phát nguồn từ đức Phật. Phát nguồn từ
chư Tổ cho tới Việt Nam, không có sai chạy một ly một hào nào hết.
Như vậy nguồn
gốc Thiền Tông hay nguồn gốc tu thiền mà đức Phật giác ngộ nó có từ thời
đức Phật. Bởi vì đức Phật ngồi thiền phản quan nên mới ngộ đạo. Rồi chư Tổ
tiếp tục, các Ngài phản quan nên chứng đạo. Nghĩa là tìm lại tâm lăng xăng
có phải phản quan không? Đó là phản quan.
Bây giờ Ngài
Tuệ Trung Thượng Sĩ chỉ thẳng phản quan tự kỷ, nghĩa là soi sáng lại chính
mình. Thì đó là trọng tâm yếu chỉ của Thiền không còn gì nghi ngờ nữa hết.
Đó là để quí vị thấy đường lối rõ ràng từ Phật, Tổ Trung Hoa, đến Tổ Việt
Nam. Cái trọng tâm đó không có sai chạy. Như vậy chúng ta lấy đó làm mấu
chốt, làm kim chỉ nam để tu thì hết sức là hợp lý, chứ còn gì nữa. Do đó
mà tôi nói phải căn cứ vào các Thiền sư đời Trần, mà nhất là Ngài Trần
Nhân Tông. Ngài xuất gia rồi, Ngài chỉ dạy cho chúng ta thấy rõ con đường
đi mà ứng dụng tu. Như vậy chúng ta làm sống dậy Phật giáo đời Trần sẽ có
lợi ích gì cho cuộc truyền bá hiện tại hay không? Đó là câu hỏi, tôi muốn
đặt ra cho quí vị lưu ý một chút.
Nếu chúng ta
nhắc lại vua Trần Nhân Tông, Ngài nhường ngôi cho con mà đi tu. Đó là một
lợi ích lớn để cho tất cả người Việt Nam chúng ta thấy rằng, đạo Phật đối
với con mắt của vua Trần Nhân Tông là một đạo siêu thoát phi thường. Mọi
danh, lợi, địa vị, quyền thế của thế gian không cái nào bì nổi, phải
không? Không cái gì bì kịp với cái đạo siêu thoát đó. Cho nên Ngài bỏ để
đi tìm đạo cao siêu.
Như vậy chỉ
cái đi tu của vua Trần Nhân Tông là mình đã nâng cao giá trị đạo Phật lên
tới địa vị chân chính của đạo Phật. Đúng với ý nghĩa cao siêu của đạo
Phật. Chớ còn không thì người ta hiểu đạo Phật thế này, thế nọ, thế kia.
Nó không còn giá trị cao siêu nữa. Bây giờ một ông vua thấy được đạo lý nó
siêu thoát tất cả những địa vị thế gian, quyền lợi thế gian, không cái gì
bì nổi hết. Cho nên Ngài mới ruồng bỏ cái tầm thường đó để đi trên con
đường siêu thoát. Đó là một bước thứ nhất đem lại cho tất cả chúng ta có
một hãnh diện rằng, người Việt Nam tu Phật đúng với tinh thần cao siêu của
đạo Phật. Chớ không phải tu mà làm việc tầm thường, làm việc cầm chừng lấy
có. Mà tu là một cái gì siêu thoát phi thường. Đó cái thứ nhất.
Cái thứ hai
Ngài Trần Nhân Tông ngộ lý thiền, rồi tu thiền. Cho nên dù trong cuộc đời
Ngài có những chuyện, có những khi cần phải cầm quân đánh giặc v.v...
những tội lỗi. Nhưng mà đối với sự tu của Ngài khi ứng dụng tu Ngài đã nắm
vững được đường lối của Phật đã dạy. Do đó tất cả những gì là nghiệp
chướng Ngài có thể vượt qua dễ dàng. Và khi tu đến lúc Ngài gần tịch, Ngài
vẫn biết trước và nắm vững trong giờ phút ra đi. Đó là một cái mà chúng ta
thấy Ngài thật tình đạt được lý đạo. Chớ không phải là chuyện mơ hồ hay là
một cái gì tuyên truyền cho có.
Như vậy nói
đến Phật giáo đời Trần hay là vua Trần Nhân Tông, tức là Ngài Trúc Lâm Đại
Đầu Đà, thì chúng ta mới thấy hai ý nghĩa thâm trầm. Ý nghĩa thứ nhất là
nâng giá trị đạo Phật lên đúng ý nghĩa của nó. Thứ hai nữa là chỗ đạt đạo
của Ngài là thực sự, chớ không phải chuyện học lóm hay là bắt chước. Đó là
điều mà chúng ta thấy rõ ràng.
Do đó mà ba
điều tôi nêu lên trong chủ trương này. Trước hết là phải hiểu Phật. Hai là
biết được Tổ. Tổ Ấn Độ, Tổ Trung Hoa và Tổ Việt Nam. Các Ngài tu như thế
nào, chúng ta nắm cho vững cái đó rồi thì chúng ta mới ứng dụng để tu. Như
vậy cái tu của chúng ta mới không sợ lạc lầm. Chúng ta mới thấy rằng con
đường tu từ đầu đến cuối, từ trước đến sau, có được sự liên hệ cụ thể, chớ
không phải rời rạc chấp nối. |