CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ ỨNG DỤNG TU HÀNH CỦA THIỀN VIỆN TRÚC LÂM

H.T THÍCH THANH TỪ

ĐƯỜNG LỐI TU TẠI THIỀN VIỆN TRÚC LÂM HIỆN NAY VÀ MAI SAU NHƯ THẾ NÀO?

Bây giờ tới phần thứ ba là nói về đường lối tu. Đường lối tu ở Thiền Viện Trúc Lâm. Tuy rằng trước đến giờ tôi đã dạy nhiều, nhưng tôi chưa phân biệt rành rẽ cho tất cả quí vị nắm. Bữa nay tôi nói cho rõ ràng rồi quí vị biết. Chia làm hai phần. Phần thứ nhất là có ba chặng đường. Phần thứ hai là có hai chặng thôi. Ba chặng và hai chặng nghe rất là nôm na, phải không? Nhưng cái quan trọng là giá trị thực hành của mình.

Bây giờ trước hết tôi nói về ba chặng. Ba chặng này có nghĩa là tiệm tu, đốn ngộ. Trong tiệm tu đốn ngộ này chia làm ba chặng.

Chặng thứ nhất: Tu quán sổ tức, tùy tức và biết vọng không theo. Nói cái này quí vị nghe đơn giản, tầm thường làm sao. Bởi vì người vào đạo mà chưa có cơ hội trực ngộ thì bây giờ phải cho họ đi từng bước, thứ lớp. Mà muốn từng bước theo thứ lớp cho họ dễ tu, trước tiên mình phải dạy họ quán sổ tức.

Quán sổ tức nghĩa là sao? Tức là đếm hơi thở chớ không có gì lạ hết. Việc làm này thấy như trẻ con vậy. Hít vô cùng, thở ra sạch, đếm một. Hít vô cùng, thở ra sạch, đếm hai. Hít vô cùng, thở ra sạch, đếm ba. Nhớ một, hai, ba tới mười bỏ. Rồi đếm một, hai, ba đến mười bỏ. Nếu đến bảy tám quên, đếm lại một. Làm như chuyện trẻ con vậy, phải không? Tại sao phải làm như vậy? Tôi giải thích cho quí vị hiểu. Bởi vì tất cả chúng ta luôn luôn bị vọng tưởng thôi thúc, nên sáu căn lúc nào cũng đuổi theo sáu trần. Thí dụ bây giờ nhìn thấy hoa, nhìn thấy hoa được rồi. Nhưng vọng tưởng không cho mình ngừng ngay đó. Nó dạy mình phải làm sao nữa? Nó thúc mình coi hoa này đẹp không, phải không? Nghĩa là nhìn thấy hoa, chưa vọng tưởng thì hoa là hoa. Nhưng vọng tưởng không cho phép mình ngừng ở đó. Nó thúc mình coi hoa này đẹp không. Rồi nó thúc mình nhìn, phân tích một hồi, nói đẹp. Đẹp rồi từ đó về sau thích, thích hoa này. Rồi giả sử phân tích nói hoa này xấu, xấu thì ghét không ưa.

Như vậy vọng tưởng thôi thúc chúng ta, không cho chúng ta dừng ở một điểm nào hết. Mà bắt chúng ta liên tục liên tục phân tích. Kế đó nhìn hoa rồi, nhìn tới người, tới vật cũng làm như vậy, phải không? Bây giờ giả sử ai đó phát tâm tốt. Họ nói bây giờ tôi sắm cho thầy một chiếc xe đạp để thầy làm chân đi đường. Khi họ nói sắm chiếc xe đạp, mình bị vọng tưởng dấy lên, chắc là mua xe đạp mới đẹp. Tưởng tượng như vậy, vọng tưởng nó cho mình cái hình ảnh trước. Nên khi người ta đem chiếc xe đạp lại liền quan sát. Quan sát nếu giống như vọng tưởng của mình thì chịu. Nếu nó khác với vọng tưởng mình thì sao? Buồn, xe này không đúng ý của tôi. Ý tôi tức là vọng tưởng chớ gì. Vọng tưởng nó vẽ ra, nó phải vậy vậy đó. Mà bây giờ không đúng ý nó thì nó đâm buồn. Mình không tốn xu con nào để mua hết mà vẫn buồn, phải không? Quí vị mới thấy, vọng tưởng nuôi ở đâu đó, nó không cho mình dừng ở một điểm nhất định nào, bởi vậy buồn rồi, tuy nhiên có cám ơn cũng nhè nhẹ thôi, chớ còn không được vui lắm. Đó là một chuyện cái gì được thấy đều bị vọng tưởng chi phối hết.

Rồi giả sử như có ai đó đang ở thiền viện, mà có ai gọi điện thoại lên, nói xin gặp thầy A một giờ, hai giờ gặp thầy A. Khi nói gặp thầy A, nói vậy rồi có dừng ngay đó không? Từ khi được điện thoại tới 1giờ thì lúc đó có bao nhiêu thứ vọng tưởng? Ông đó gặp mình để làm gì? Người đó quen mình hay chưa quen? Đủ thứ hết. Nó dẫn mình chạy dài, dài dài, không biết bao nhiêu thứ nghĩ. Trong khoảng thí dụ: 12giờ hẹn 1giờ. Trong một giờ đồng hồ đó chừng bao nhiêu thứ vọng tưởng nhảy ra? Chừng bao nhiêu? Ít ra cũng 50-100 phải không? Nó khiến, nó lảng vảng hết cái này đến cái kia. Như vậy vọng tưởng bao phủ hết, không cho mình phút giây nào an ổn. Vọng tưởng nó xúi dục mình chạy ra ngoài. Chạy ra nghe, chạy ra thấy, chạy ra ngửi, chạy ra nếm v.v... Tôi nói rất là gần, nhiều khi quí vị cũng tu chút chút rồi, khá khá rồi đó, vậy mà thấy hoa, hoa nào trổ đẹp đó, thấy vậy chịu chưa? Chưa, muốn để lỗ mũi gần, ngữi coi thơm không? Thấy bằng mắt chưa chịu, còn muốn ngữi bằng mũi nữa. Có khi phải rờ nữa. Đó nó không cho mình dừng. Hoa là hoa, thấy đủ rồi mà không chịu. Tay nâng nâng mới chịu, nâng hoa rồi ngữi hoa. Thấy, nâng, ngữi, đủ thứ hết.

Như vậy mới thấy rằng bao nhiêu thứ vọng tưởng nó cứ đẩy, đẩy mình chạy theo cảnh. Như vậy trong sáu căn chúng ta cứ bị vọng tưởng thôi thúc chạy ra ngoài không dừng. Bởi chạy ra ngoài không dừng, mà bây giờ muốn dừng phải làm sao đây?

Phương tiện đầu tiên bắt nó phải ngó trở lại. Mà ngó trở lại thì ngó bằng cách nào? Phải mượn hơi thở, hít vô. Hễ nghe nó chạy tới đâu cùng, nhớ nó chạy cùng, tức nhiên mình đâu có ra ngoài được, phải ngó theo nó. Ngó theo nó bằng trí chớ không phải bằng mắt. Hơi thở hít vô theo cùng. Thở ra cho hết. Tức nhiên mình chạy vô chạy ra theo nó. Chạy vô chạy ra theo nó thì đâu còn chạy ra ngoài phải không? Đó là một phương tiện. Chớ còn bây giờ biểu ngó vô làm sao ngó được. Nó cứ thúc mình chạy ra không hà! Cho nên rồi mượn phương tiện hít vô thở ra, phải ngó coi nó chạy tới đâu cùng. Ra tới đâu hết. Rồi nhớ đếm một, hai. Những chuyện trò con nít đó, nó làm cho mình quên chạy ra ngoài. Quên chạy ra ngoài thì vọng tưởng bớt không. Đó, vọng tưởng nó bớt. Nghĩa là chừng nào nhớ hơi thở vô ra, nhớ số một tới mười đều đặn không gì hết. Tức là quên hết tất cả cái ngoài rồi. Nhớ có bao nhiêu đó. Như vậy là mình phản quan chớ có gì. Quí vị phải phản quang không? Phản quang có phương tiện, chớ không phải phản quan như Tổ Huệ Khả, phải không?

Có phương tiện nghĩa là mình mượn hơi thở vô ra để mà mình nhìn lại mình. Nhìn cho tường tận. Thấy hơi vô tới đâu, ra tới đâu, thấy rõ. Bởi vậy nên ban đầu đếm là làm hai việc: Một là nhớ số. Hai là nhớ hơi thở. Cho nên quên chạy ra ngoài để cho vọng tâm khỏi thôi thúc sáu căn chạy đuổi theo sáu trần, mà phải xoay lại ngó vào trong. Đó là  phương tiện phản quan đầu. Nhưng khi mình nhớ số, nhớ hơi thở, nó đã thuần thục rồi, không còn chạy ra ngoài lăng xăng nữa thì bây giờ phải bớt đếm số, mà chỉ còn theo hơi thở thôi. Hơi thở vô tới đâu biết, ra tới đâu biết. Cứ theo hơi thở vô ra, vô ra. Đó gọi là tùy tức. Hai trường hợp này mình phải nương hơi thở để tập phản quan cho quen. Quen cho nhuần nhuyễn phương pháp phản quan. Tức là xoay ánh sáng ngó lại mình. Nhuần nhuyễn rồi mình liền tới cái thứ ba là dấy niệm không theo. Dấy niệm là khởi nghĩ gì đó, là không theo... chỗ này quí vị nghe thấy nó dễ như nó rất là khó. Khó ở chỗ người nào tu thi khi họ biết mọi thứ vọng tưởng, tức là mọi ý niệm lăng xăng đó. chúng ta thường thì ý niệm lăng xăng, cho đó là tâm mình. Tâm mình nghĩ cái này. Tâm mình nghĩ cái kia. Tâm mình nghĩ cái nọ. Sống mình nó là làm sao? Là tạp nhạp. Bởi vậy có khi làm lành có khi làm dữ. Mới ngồi nói đạo lý với huynh đệ thì ngồi nói vẻ thánh thiện lắm. Coi như ta ngộ đạo tới nơi rồi. Nhưng mà đi ra khỏi người nói chuyện này, tới người nào khác đó, người đó họ hay gút mắc hay chọc ghẹo. Tới họ nói chuyện một hồi, họ tìm chuyện này chuyện kia họ chọc ghẹo mình, nổi bực lên, lúc đó thánh thiện nữa không? Lúc đó cọp sói nó nhào vô rồi đó, nó làm dữ lên, hùng hổ lên. Như vậy coi như mới là ông thánh, rồi bây giờ là con cọp. Rồi đủ thứ con nhảy tới nhảy lui hoài.

Như vậy cả đời sống bị các thứ tạp nhạp chỉ huy mình. Lộn xộn không ra cái gì hết. Vậy đó cũng vẫn đầu hàng nó, nó dẫn chạy ngược chạy xuôi đủ thứ. Hiện tại bị tạp nhạp chi phối thì nhắm mắt cái tạp nhạp đó dẫn mình đi. Đời hiện tại khổ vì nó, vị lại cũng bị nó làm mình khổ nữa. Đó là cái gốc luân hồi sinh tử.

Bởi vậy nói tu là tu cái gì? Phản quan để thấy những tạp nhạp đó là không thật, không theo nó. Không thật không theo nó, tức là dừng lại tất cả những tạp nhạp. Tất cả những tạp nhạp dừng lại rồi, thì có một phút giây nào đó mình sẽ thấy cái hoàn toàn thanh bạch, hoàn toàn thuần thiện sẽ hiện ra với mình. Đó là cái nhân để mình hết đau khổ, hết trầm luân. Như vậy muốn giải thoát sinh tử, trước hết chúng ta phải biết cái gì là manh mối của sinh tử. Manh mối sinh tử là những vọng tưởng đó. Những cái đó là manh mối của sinh tử làm đau khổ hiện đời và đau khổ muôn đời sau nữa, nếu chúng ta cứ theo nó. Vì vậy muốn nói tu là mình phải chận ngay manh mối tạo nghiệp. Manh mối đó dừng rồi thì nghiệp theo đó mới hết.

Cho nên cái bước thứ hai tức là hết theo hơi thở thì biết vọng không theo. Nghĩa là thấy rõ nó. Chữ biết đây nghĩa là thấy, thấy rõ nó. Thấy không phải bằng mắt, mà thấy bằng trí tuệ. Nó là hư dối, không theo nó. Như vậy khi mà mình thấy rõ nó là hư dối. Không theo lần lần nó sẽ tan biến. Rồi từ tan biến đó chúng ta mới thấy rõ cái chân thật. Tôi nói thí dụ: như một hôm nào đó, sáng tất cả mây mù che phủ cả bầu trời. Nếu mây mù che phủ bầu trời thì mặt trời chúng ta không thấy. Nếu mây mù tan từ từ, tới chừng nào tan sạch thì bầu trời sáng sủa hiện ra, phải vậy không? Như vậy bầu trời sáng sủa có sẵn từ khi mặt trời lên nhưng vì bị mây mù che chúng ta không thấy. Bây giờ tạo duyên gì cho mây mù tan đi, thì bầu trời sẽ trong và sẽ sáng.

Đó là để thí dụ: một khi bao nhiêu thứ vọng tưởng che mờ trí tuệ trong sáng của chúng ta thì khi nó tan đi, trí tuệ trong sáng hiện ra. Trí tuệ trong sáng hiện ra rồi, đó là chúng ta thấy được mình có cái chân thật. Mà cái chân thật đó mới là cái để thoát ly sinh tử. Như vậy bước đầu của mình tu đó, thấy hết sức là tầm thường nhưng đi xa hơn thấy hết sức là giá trị.

Bây giờ nói tới cái ban đầu lại để quí vị biết mà ứng dụng. Khi chúng ta quán hơi thở, hơi thở vô, hơi thở ra thấy rõ như vậy. Chúng ta còn thêm một chút nữa sẽ thấy càng hay. Chúng ta liền nhớ rằng hơi thở vô ra, mà vô ra, vô ra nó là thường hay vô thường? Nó là vô thường. Hít vô trả ra, hít vô trả ra, làm việc không có lâu dài, không có chắc chắn. Vô rồi ra, vô rồi ra. Cái không lâu dài không chắc chắn đó nên dùng từ là vô thường, phải không? Hơi thở là vô thường nhưng sự sống của chúng ta lại nương cái gì? Mạng sống mình lại nương hơi thở. Như vậy hơi thở vô ra, vô ra không có dừng một chỗ nào hết. Không có dừng một giây phút nào hết. Như vậy nó vô ra vô ra tức là nó đang vô thường sinh diệt. Mà mạng sống lại nương vào hơi thở, thở dừng thì mạng sống không còn. Như vậy mạng sống mình, cái lẽ thật của nó làm sao? Nó thật là vô thường, phải không? Nó hết sức là vô thường. Còn hít vô thở ra là còn sống. Hít vô thở ra, không hít lại là chết ngay. Như vậy hơi thở là cái vô thường, mà mạng sống lại nương hơi thở, thì mạng sống thật là vô thường.

Thấy mạng sống thật là vô thường, mình có giác ngộ chút nào chưa? Mình giác hay mình mê? Còn mình bây giờ giác hay mê? Tất cả chúng ta ít có ai nghĩ rằng, thở ra không hít vô thì chết liền. Nhớ mãi vậy. Có ai nghĩ vậy không? Ai nhớ vậy không? Hay là cứ tưởng mình ít ra cũng 70, 80  mới chết, chớ không có chết bất thần đâu, phải không? Cứ tưởng tượng mình 80, 90 tuổi mới chết. Cứ tưởng tượng vậy. Tưởng tượng nó là một ảo tưởng, chứ không phải là thực tế, phải không? Thực tế là thở ra mà không hít vào là chết. Cái đó là thực tế. Còn cái 70, 80 tuổi là ảo tưởng mà chúng ta luôn luôn xây dựng ảo tưởng để làm chỗ tựa, để yên lòng. Yên lòng là mình còn lâu lắm mới chết. Cho nên lâu lâu cũng ngồi tu có khổ khổ một chút, thôi nằm ngủ cho nó khỏe. Tội gì hành xác quá vậy, phải không? Đâu nghĩ mình chết liền. Nghĩ còn dài lắm, còn lâu lắm.

Đó là một cái nhân mê muội, tạo thành ảo tưởng để khiến cho mình cứ an ổn rằng mình còn sống lâu. Mà cứ tưởng mình sống lâu là ảo tưởng. Thực tế là thở ra không hít vào là chết. Cái đó là thực tế. Thực tế tức là chân lý phải không? Mà người ta chịu thấy chân lý không? Nghĩa là tất cả chúng ta sống với ảo tưởng không hà! Chớ không có sống với chân lý. Còn nếu ai được thấy rõ chân lý này thì sao? Giả sử có ai kêu tên mình chửi, nói thở ra không hít vô là chết rồi, ở đó cãi lẫy làm chi, phải không? Chỉ cần nhớ bao nhiêu đó là hết cãi lẫy, hết hơn thua. Còn bây giờ ngồi mà phân bua hơn thua để rồi đi thưa đi kiện đó, thì đó là không thấy hơi thở, không thấy mạng sống trong hơi thở, phải không? Như vậy thở ra không hít vào là chết. Cái chết nó sẵn sàng bất cứ lúc nào, chỉ có cái gì đó chận lại là chết liền. Như vậy có gì đâu mà bền. Có gì đâu là thật. Mà thấy đó là thấy chí lý, thấy chân thật.

Bởi vậy tôi nhắc lại trong kinh Tứ Thập Nhị Chương, Đức Phật hỏi các Thầy Tỳ Kheo:

- Mạng người sống trong bao lâu?

Các vị Tỳ Kheo người thì trả lời: "5 hôm, 3 hôm". Rồi có vị Tỳ Kheo trả lời:

- Sống trong bữa ăn.

Tất cả những người đó, Phật nói:

- Ông chưa thấy đạo.

Thầy Tỳ Kheo chót nói:

- Mạng người sống trong hơi thở.

Phật khen:

- Ông đã thấy đạo.

Thấy đạo tức là thấy chân lý. Thấy được lẽ thật. Mà chân lý ở xa hay ở gần? Quí vị thấy ta cần đi tìm ở đâu không? Ở ngay nơi mình nè! Nó không có xa, phải không? Cần nhìn cho tường tận rồi mình thấy như vậy. Thấy rõ ràng, đừng có ảo tưởng, thấy rõ ràng thì chân lý hiện ở trước ta. mà chỉ cần thấy được cái lý vô thường của hơi thở, đủ cho quí vị tu chưa? Đủ tu chưa? Bao nhiêu đó tu hay quá chừng rồi. Nghĩa là thấy được điều đó thì tất cả lòng tham có còn không? Chúng ta tham cái này, tham cái nọ là cứ nghĩ mình còn sống dai, nghĩ mình còn sống lâu, phải không? Còn bây giờ thấy thở ra không hít vào thì chết. Vậy thì sự sống chết có bao lâu. Nên hồi ở Chơn Không khi thấy được lẽ này, tôi mới làm một bài kệ, rất là ít chữ để cho dễ nhớ. Tôi đặt tên nó là "Mạng Sống". Tôi nói: "Mạng sống trong hơi thở", đó là một lẽ thật. "Trong nhịp đập quả tim", tim ngừng đập thì cũng rồi. Tim đập thịch thịch thì sống, ngừng cái chết. Lỗ mũi thở ra hít vào thì sống, thở ra không hít vào là chết. Sự sống của mình hết sức là đơn giản. Cái chết kề cận bất cứ lúc nào.

Bây giờ muốn định nghĩa lại thế nào là mạng sống. "Sự vay mượn liên tục". Cứ vay mượn, mượn ra, mượn vào. Thở ra mượn vào. Cứ vậy liên tục là sống. Dừng lại là chết. Mượn, trả rồi mà chán quá không mượn lại thì chết thôi, chớ không có gì hết, thấy không? Nhưng mà người ta có chán không? Hay là thích. Thích mượn lại, sợ trả mà không mượn lại lắm. Cho nên cứ ráng mà sống. Như vậy sự sống của chúng ta rất là tạm bợ, chỉ là hơi thở thôi. Như vậy khi chúng ta quán hơi thở, hơi thở vô ra, thì đồng thời chúng ta thấy mạng sống mình nó cũng ngắn ngủi như cái hơi thở ra mà không trở lại vậy. Ra mà không trở lại là chết. Mạng sống của con người cũng ngắn ngủi, tạm bợ như vậy. Thấy như vậy là các vị đã giác ngộ được cái lý vô thường, của thân rồi, phải không? Giác ngộ thật sự đó. quí vị thấy cái giác ngộ này có lạ lùng gì đâu. Có mầu nhiệm gì đâu. Nhưng khi quí vị giác ngộ được cái lý vô thường này thì quí vị sẽ dễ tu 100 phần. Tất cả cái gì dụ dỗ, rù quến quí vị cũng không nhiễm hết. Bởi vì thở ra rồi không hít vô là chết rồi, bận tâm cái gì nữa. Chỉ còn chuyện còn thở còn hít đó thì ráng tu thôi. Chớ không có cái gì khác. Nhớ như vậy, nghĩ như vậy thì chúng ta đã tiến được một bước đáng kể. Tức là thấy được cái thân vô thường từ hơi thở.

Rồi tới cái thứ 2 (3?) nếu tất cả ý niệm dấy lên, vừa dấy vừa khởi đó, thì mình biết là vọng tưởng. Vọng tưởng là cái tưởng hư dối. Bởi vì mình nhìn lại thì nó mất. Đó là tưởng hư dối. Bây giờ nó tưởng cái gì đi nữa thì cũng là hư dối thôi. Lâu nay mọi người chúng ta cứ nghĩ cái khởi niệm, suy tính là tâm của mình, tưởng nó là tâm của mình. Bởi vậy tất cả cái đó mình đều ôm nó vào để thành một khối. Khối tâm tạp nhạp, khối tâm tạp nhạp đó nó bao bọc, nó vây quanh, nó lôi kéo mình chạy theo nó. Cho nên mình cứ khổ. Hết cái khổ này rồi cái khổ kia, luôn luôn không dừng không hết. Bây giờ mình biết rõ bản chất nó là hư dối.

Nói thí dụ: Bây giờ có một khối nước đá bằng 1kg để trên cái dĩa. Mình đem bình nước sôi lại chế lên thì sao? Chế lên nó tan hết. Như vậy khối nước đá tan thì người ta nói nước đá, mình phải nghĩ sao, nước đá thật hay nước đá không thật. Cái thể cứng của nước đá là thật hay không thật. Cái cứng đó chỉ là cái giả tưởng nên chế nước sôi nó tan, nó không thật.

Cũng như vậy, bao nhiêu vọng tưởng dấy lên nếu theo nó, chấp nó thì tưởng nó như thật. Tôi nói thí dụ, bây giờ mình khởi nghĩ phải làm việc đó mới là hay, mới là tốt. Mình nghĩ phải làm đúng như vậy là hay, là tốt. Có người nào cãi: "Không được, làm vậy chưa hay, làm cách kia mới hay hơn". Cái gì mình khởi nghĩ mình cho đó là cái nghĩ của mình đúng. Cho nên người nói làm cách khác, mình nói đó là trật. Rồi có cãi nhau không? Cãi nhau. Từ cãi nhau đó, chúng ta cho cái nghĩ chúng ta là đúng, là thật. Thì đó là chúng ta chấp cứng nó rồi, phải không? Bởi chấp cứng nó cho nên người khác nói khác chúng ta không chấp nhận, không chịu. Chớ nếu chúng ta biết cái nghĩ của mình là hư dối, là vọng tưởng, không thật, thì ai có nói khác thì cái khác cũng là hư dối không thật, thì có gì đâu quan trọng phải không.  Mà mình cứ tưởng mình thật, rồi người khác tưởng thật, cho nên đụng với nhau.

Vì vậy tất cả vọng tưởng nó tạo thành cái nghiệp. Cái nghiệp chống đối thù nghịch. Bây giờ mình biết vọng tưởng là không thật. Vọng tưởng không thật thì vọng tưởng có phải tâm mình không? Nó không thật thì đâu phải tâm mình. Lâu nay mình chấp vọng tưởng là tâm mình. Cho nên thấy được vọng tưởng là không thật tức là thấy được tâm vô ngã, phải không? Cái tâm vô ngã. Bởi vì luôn luôn chúng ta có cái bệnh, khi chúng ta suy gẫm vấn đề gì, mình cho đó là đúng, là chân lý. Cái suy gẫm mình cho là đúng là chân lý, thì cái suy gẫm đó cũng phải là chân lý. Mà chân lý thì không thể được. Bởi vì nó không có hình, không có tướng, không có thể thật, nó chỉ là hư dối. Bởi nó hư dối cho nên mọi cái nghĩ đó, nó cũng biến chuyển. Nó không bao giờ cố định hết. Vì vậy chúng ta nghĩ nó thật chừng nào, thì chúng ta càng mê lầm sâu dầy chừng nấy. Nên phải dùng từ, tất cả cái nghĩ cho nó cái tên là vọng tưởng. Vọng là dối. Tưởng là tưởng tượng. Tất cả cái tưởng tượng này là hư dối, không thật. Thấy được như vậy, biết được như vậy thì phá được cái cho những cái tưởng đó là tâm của mình. Như vậy thấy nó là hư dối, là phá được chấp ngã của tâm.

Vậy thì chỉ cần 3 phần này: Dùng hơi thở, sổ tức, tùy tức là phá được cái chấp thân thường rồi. Biết được vọng tưởng là phá được chấp tâm là ngã. Từ đó chúng ta có được bước tu và căn bản biến tâm này là hư dối không thật, thì dừng được tạo nghiệp. Biết tâm hư dối không thật, dừng được sự chấp trước. Cho nên thấy được vọng, biết nó không theo, thì đó là một cách tu rất là đơn giản, mà rất là cụ thể. Nó đưa chúng ta tiến tới chỗ phá chấp ngã của tâm mà chúng ta không ngờ.

Đây là một vấn đề phải khai thác cho đầy đủ, để quí vị hiểu, đừng có lầm lẫn trên đường tu. Cho nên tôi phải nói thật kỹ. Bởi vì không thể nào tránh khỏi, sẽ có một số người kết luận rằng mình nói thân là vô thường, chỉ trong hơi thở, thì người ta sẽ kết luận rằng mình bi quan phải không? Sẽ bi quan. Bởi vậy tôi sẽ giảng sau một lần nữa cho quí vị thấy tường tận, biết cuộc sống trong hơi thở mà không bi quan. Đó là cái đặc biệt của nhà Phật.

Đã giảng xong đường lối tu. Đường lối tu ở đây chia làm ba chặng. Hoặc là chia làm 2 chặng.

Trước giải thích về 3 chặng. Chặng 1: Tu quán sổ tức, tùy tức và biết vọng. Chặng 2 là lóng lặng vọng tưởng nhận ra bản lai diện mục. Chặng này là tối quan trọng. Nên khi nói về chặng này, tôi sẽ đi rộng ra cho tất cả quí vị thấy rõ ý nghĩa của đời tu chúng ta.

Nói đến tu thiền, thì ở đây không phải là chúng ta tự thán hay là chủ quan mà có thể chúng ta khẳng định rằng: người tu thiền là người rất can đảm, rất vĩ đại, rất là thực tế. Ba cái rất: rất can đảm, rất vĩ đại, rất thực tế. Nói như vậy thì quí vị cũng thầm nói Thầy chủ quan. Tại tôi tu thiền nên khen tu thiền. Mà tôi nói đây là một lẽ thật, không có chủ quan gì hết. Tại sao vậy? Bởi vì nói đến tu thiền, trước nhất chúng ta phải có đại can đảm. Can đảm làm cái gì? Có lẽ một số quí vị thầm nghĩ rằng: "Can đảm ngồi chịu đau" Phải không? Can đảm ngồi chịu đau, nhưng không đó là một cái nhỏ tí xíu thôi, chưa đáng gọi là can đảm. Mà can đảm ở đây có nghĩa là những cái gì lâu nay chúng ta thấy là quý, thấy là cái sở thuộc của mình, bao giờ chúng ta cũng bảo vệ, mà ngày nay chúng ta dám ruồng bỏ hết. Không phải can đảm thì không thể nào làm được.

Tôi nói như vậy là để trở lại. Vì đây là lóng lặng vọng tưởng. Như từ trước đến giờ, quí vị nhớ một khi nào, ai có làm trái ý, mình nổi sân lên. Nổi sân lên có bạn đồng tu, đồng học tới nói: "Huynh tu mà sao còn sân?" Thì mình sẽ nói sao? Cái việc làm như vậy đáng sân không?" Thấy không? Bảo vệ nó. Nghĩa là cái sân mà mình cảm thấy là đáng, nên. Rồi ai làm cho mình ghét, thì khi ai hỏi: "Huynh tu hành mà còn ghét làm chi". Thì nói sao? "Cái tư cách nó thấy dễ ghét quá không ghét sao được". Phải không? Nghĩa là cái nóng giận, cái ghét, thương, buồn, tức gì đó, có ra rồi đó, mình liền bảo vệ nó. Cho đó là cái phải của mình, cái đúng của mình. Cho nên khi một ý kiến gì, chúng ta khởi nghĩ, nói ra nếu có ai không đồng ý, phản đối thì chúng ta nổi sân đùng đùng. Vì cho rằng ý kiến của mình là chân lý. Cái mình đã bắt lệ thuộc vào mình, hay là mình thừa nhận nó là mình, thì luôn luôn mình bảo vệ tối đa, không bao giờ dám thừa nhận cái nghĩ của mình là sai, cái giận mình là bậy, cái thương mình là sái. Không bao giờ mình dám nghĩ như vậy. Mà cái gì cũng đúng hết. Ai hỏi, ai chỉ trích là mình bào chữa để bênh vực nó.

Như vậy quí vị nghĩ như ở thế gian, người ta có đứa con 5, 7 tuổi, 5, 10 tuổi, nó làm cái gì mà hàng xóm giận, đi mắng vốn. Mình có một bề cho nó là bậy hết không. Lúc nào mình cũng binh nó. Vì mình thấy nó là của mình, cho nên mình dùng mọi cách để bênh vực. Dù có nhận lỗi cũng nhận ít ít thôi, nhẹ nhẹ thôi. Chớ không bao giờ dám nhận thẳng. Như vậy bởi mình thương nó cho nên mình không bao giờ dám để cho nó là một đối tượng đáng ghét với mình.

Cũng như vậy những tâm niệm buồn, giận, thương, ghét v.v... Ở nơi mình, mình đều thấy nó là của mình, là cái mình quí, mình yêu mến nó. Cho nên khi nó phát ra với ai, người ta chỉ trích thì mình cực lực phản đối. Hay là đem hết sức để bênh vực. Chớ không bao giờ mình thừa nhận ý niệm, tư tưởng đó là sai, là bậy. Không bao giờ có cái đó.

Như vậy cái mà mình đã quí đã yêu như vậy, mà ngày nay ngồi lại tu, mình thấy nó làm sao? Mình thấy nó là đồ vọng tưởng. Đồ vọng tưởng là đồ bỏ đi phải không? Hư dối không có nghĩa lý gì. ruồng bỏ nó không một chút nào tiếc thương. Nhiều khi nó nổi lên còn bực bội nữa phải không? Mình còn giận nó nữa. Mình không muốn cho nó nổi lên. Như vậy cái rất yêu rất quý ngày trước mà ngày nay mình can đảm ruồng bỏ,không phải đại can đảm là gì. Đó là một điều rất quan trọng.

Đại can đảm như vậy, người ta liền đặt câu hỏi, tất cả những tâm tư hiểu biết lăng xăng của mình đó, ngày nay mình ruồng bỏ hết, để rồi mình đi tới cái gì. Như vậy cái mà mình ruồng bỏ để rồi đạt đến một cái gì, phải là cao siêu, phải là vượt bực. Chớ không thể ruồng bỏ cái này rồi trở thành cái rỗng không vô ích

Như vậy tới cái thứ hai là cái vĩ đại. Tôi nói vĩ đại đó cho quí vị thấy. Tại sao tôi dám nói là vĩ đại?

Bởi vì tất cả chúng ta hiện giờ sinh ra rồi ai cũng như ai. Lớn lên rồi có một cuộc sống bình thường. Tới già, tới bệnh, tới chết. Cái được của thế gian nhiều lắm là được địa vị, danh vọng, quyền thế. Địa vị cao nhất như là địa vị ông vua, địa vị ông Tổng Thống chẳng hạn. Thì địa vị ấy cũng là tạm bợ, rồi tan hoại. Có cái gì của thế gian được mà không tan hoại đâu. Tất cả cái thế gian người ta cho là cao quí, cái đó là lớn lao, nhưng khi chúng ta nắm được, chúng ta đạt được rồi thì bản thân chúng ta cũng đi đến tan hoại. Như vậy mọi cái bại hoại mà chúng ta được, chúng ta theo đuổi, nghĩ nó có giá trị bao nhiêu. Đem hết cuộc đời 60, 70 năm để tìm, để mong đạt được, nhưng mà đạt được một cái, là cái vô thường bại hoại. Đó, như vậy nó có gì là vĩ đại đâu.

Còn đàng này chúng ta lóng lặng vọng tưởng, thì chừng đó ngay trong con người chúng ta, chúng ta tìm ra được cái bản lai diện mục, là cái chân thật muôn đời không bao giờ sinh diệt, không bao giờ bại hoại. Như vậy cái đó không phải là vĩ đại đối với thế gian là gì, phải không? Bởi vì thế gian tìm được điều gì dù to lớn mấy, dù cao sang mấy, cũng là cái tướng bại hoại. Còn chúng ta ở đây một phen tìm được thì cái đó muôn đời muôn thuở không bại hoại. Không phải là vĩ đại là sao? Đó là cái thứ hai. Tôi cho rằng cái mà chúng ta thực hành, chúng ta tìm kiếm, hết sức là vĩ đại.

Nói như vậy người ta lại có nghĩ, biết đâu bản lai diện mục mà chúng ta đang tìm đang kiếm nó là một cái không tưởng, một cái vô cớ chẳng hạn. Điều đó sẽ làm cho nhiều người sẽ hoang mang. Nhưng tôi quả quyết rằng, cái chúng ta đang tìm đó, là một cái thực tế, một cái cụ thể. Chớ không phải là không tưởng, không phải là ảo tưởng gì hết. Tại sao? Thì đây, chúng tôi dẫn một câu chuyện nhỏ xíu trong kinh cho quí vị thấy.

Như trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật quở tất cả những người tu, luôn luôn bị chạy theo ngoại cảnh, ngoại vật mà quên mất mình. Khi đó chư Tăng hoang mang, không biết mình chạy theo ngoại vật, ngoại cảnh như thế nào. Và mình quên mất mình ra sao.

Bởi vậy trong một đoạn qua phần Thất Xứ Trưng Tâm trong kinh Lăng Nghiêm, Phật liền đối trước Ngài A Nan, Phật đưa tay lên hỏi Ngài A Nan: -Ông thấy không? Thì Ngài A Nan trả lời sao? -Thấy. Mà giả sử bây giờ hỏi tất cả quí vị, đem với cái tâm thật thà bây giờ của mình, quí vị nói thấy hay không? Thấy. Rồi Ngài để tay xuống hỏi: -Thấy hay không? Tôi nói với tâm thật thà, với tâm thật thà mà của bình dị, của bình dân đó. chớ không phải của tâm có học kinh Lăng Nghiêm rồi. Tâm thật thà của người bình dân đó, khi lấy tay xuống, hỏi: "Thấy không?" thì Ngài A Nan, Ngài trả lời đúng với cái tâm của người bình dân. Trả lời rằng: Không thấy. Khi trả lời "không thấy” thì Phật liền quở: Đó là ông quên mình theo vật. "Quên mình theo vật", Ngài A Nan hoảng hốt quá: Con quên mình như thế nào? Phật mới giải thích cho thấy: Khi cái tay ta đưa lên thì ông nhìn thấy cái tay. Khi cái tay ta để xuống thì chỗ này ông nhìn không thấy cái tay. Như vậy thì cái tay ta có đưa lên, có để xuống nhưng cái thấy của ông có vắng thiếu lúc nào đâu. Có tay thì thấy có tay, không tay thì thấy không tay. Mà khi không có để tay đây thì ông nói là không thấy. Có phải là ông lấy cái tay làm cái thấy hay không? Phải không? Chớ còn cái thấy là có tay cũng thấy, không tay cũng thấy. Chớ đâu phải không tay mình mù phải không? Nhưng mà bây giờ có tay thì nói thấy, tay để xuống nói không thấy, thì có phải là mình chấp cái tay là cái thấy. Cho nên có nó mình nói là thấy, không nó là không thấy. Như vậy có phải là đem cái thấy mà chuyển qua thành cái tay. Như vậy có phải quên mình theo vật hay không?

Cái tay là vật ở ngoài mà cái thấy là cái của mình. Như vậy người ta nói đưa tay lên là thấy, để tay xuống là không thấy. Đó người ta nói thực tế hay không? Nói đó là đúng với thực tế không? Thế gian nói vậy đúng lắm đó. Thấy không? Có cái tay mới thấy không có tay nói không thấy.

Nhưng nói đó là không có thực tế chút nào hết. Đây Phật chỉ chúng ta cái thấy hằng hữu của chúng ta, có tay, thấy có tay, không tay, thấy chỗ này không tay. Cái thấy là cái hằng hữu, thì cái đó mới là thực tế, phải không? Nghĩa là Phật chỉ cái thực tế cho mình, mà cái thực tế đó là nó còn. Như vậy cái tay ở ngoài là ngoại vật ngoại cảnh. Mà vậy, cảnh là cái vô thường, chuyển biến. Nó có tướng mạo. Tướng mạo là vô thường, chuyển biến.

Còn cái thấy của quí vị tướng mạo làm sao? Quí vị diễn tả tướng mạo cái thấy coi. Nó không có tướng mạo, mà nó vẫn thấy. Như vậy cái thấy là cái không tướng mạo. Mà hằng có thì như vậy có phải là một cái không tướng mạo thường còn mà chúng ta quên đi. Như vậy Phật thực tế chỉ cho chúng ta biết rõ mình có cái thường còn mà mình đã quên nó để chạy theo cảnh sinh diệt.

Bây giờ trở lại cái thường còn. Đó là cụ thể chớ đâu phải là chuyện bâng quơ, chuyện ảo tưởng. Như vậy mà Phật còn sợ đại chúng chưa thấm, chưa thấu đáo. Cho nên Phật mới dạy Ngài A Nan lấy chuông ra. Rồi bảo đánh chuông cái boong, hỏi: Ông có nghe không? Ngài A Nan trả lời thật thà: Dạ! Nghe. Rồi tiếng chuông lặng xuống hỏi: Ông nghe hay không? Dạ! Không nghe. Đó bị Phật quở một phen nữa. Phật nói rằng: Tiếng chuông khi có đánh thì có tiếng chuông, thì ông nghe có tiếng chuông. Khi không đánh, không có tiếng chuông thì ông nghe không có tiếng chuông. Chớ đâu phải là không nghe. Rồi ông lại đem cái hay nghe mà gá vào tiếng chuông. Khi có tiếng chuông gọi là có nghe. Khi không có tiếng chuông gọi là không nghe. Có phải như vậy là quên mình theo vậy không?

Đó là tầng thứ hai. Như vậy tất cả chúng ta đều nằm trong bệnh đó hết. Giả sử ai kêu, gọi mình, gọi Lực, gọi rồi hỏi: "Nghe không". Nói: "Nghe". Khi không gọi, hỏi: "Có nghe không?". Không, phải không?

Như vậy chúng ta cứ lấy cái nghe. Mà cái nghe là ở tai mình nghe, chớ không phải tiếng. Tiếng và nghe là hai cái khác, phải không? Mà mình cứ cho cái nghe là cái tiếng. Thì có phải là quên mình theo vật không. Tiếng có sinh diệt, chớ nghe đâu có sinh diệt.

Như vậy Phật chỉ cho chúng ta thấy ngay nơi chúng ta và ngoại cảnh, cái gì có tiếng tức là có động. Mà có động là có sanh diệt. Cái đó thuộc về ngoại cảnh. Còn cái hằng nghe là cái không động. Mà không động lại không có tướng, cho nên nó không có sinh diệt.

Như vậy thấy, nghe v.v... nó hiển lộ cái chân thật mà tôi gọi là bản lai diện mục của chính mình. Cái đó nó thoát khỏi tất cả sinh tử. Thoát tất cả vô thường thì cái đó là cái quá siêu việt. Cho nên nói là vĩ đại, mà cái đó là cái thực tế, hằng hữu. Khi chúng ta đang ngồi đây nó vẫn có. Chớ không phải là chuyện mơ màng, chuyện ảo tưởng. Như vậy chỉ ra những cái đó là chỉ một thực tế, cụ thể. Chớ không phải là một ảo tưởng. 

Như vậy mới thấy rằng người tu Thiền là phải tìm cho ra cái chân thật của mình. Thì đó là việc làm hết sức thực tế, chớ không phải là chuyện tưởng tượng không đâu. Như vậy ý nghĩa tôi nêu lên, là người tu thiền rất can đảm, rất vĩ đại, rất thực tế. Quí vị có chịu không? Như vậy chuyện làm của mình không phải là chuyện làm của kẻ tầm thường. Bởi vậy cho nên ai nhút nhát, lười biếng, lôi thôi đó, làm không nổi. Phải can đảm, phải là người quyết chí, siêu phàm thì mới làm được việc đó. Nói như vậy để cho tất cả quí vị hiểu cái tầm vóc quan trọng của chúng ta đang làm. Đó là tôi nêu lên mục quan trọng đó.

Bây giờ trong phần lóng lặng vọng tưởng để nhận ra bản lai diện mục. Tôi có chia ra làm mấy mục. Hai mục lớn tức là tôi đặt câu hỏi. Tại sao chúng ta phải lóng lặng vọng tưởng? Đó là câu hỏi thứ nhất.

Tại sao chúng ta phải lóng lặng vọng tưởng? Cái câu này muốn trả lời nó, chúng ta phải đi thứ tự. Nếu nói đi rộng thì chắc giảng hết buổi này, rồi buổi nữa. Đây tôi cũng giới hạn một chút. Bởi vì tất cả trong kinh Phật đều lấy những điểm này. Người tu Phật phải đi từ bốn thứ: Giáo, Lý, Hạnh, Quả, hoặc là từ khai, thị, ngộ, nhập. Đó là tôi nói Kinh, dẫn kinh cho quí vị thấy. Giáo, Lý, Hạnh, Quả chúng ta coi như bốn, nhưng mà kỳ thực có ba thôi. Giáo, lý đó là thuộc về pháp của Phật dạy. Pháp của Phật dạy chúng ta nghe, hiểu, nhận chân được lẽ thật đó. Rồi chúng ta ứng dụng là Hạnh. Ứng dụng thành công gọi là Quả. Giáo, Lý, Hạnh, Quả thấy như bốn, nhưng phần giáo và lý chỉ có một. Lời Phật dạy mang tính chất thực tế, chân lý, cho nên gọi là lý. Giáo và lý tức là chỉ vào phương pháp Phật dạy thôi. Còn được nghe giáo lý đó, chúng ta thâm nhập, chúng ta ứng dụng để được kết quả. Ứng dụng tu hành là Hạnh. Tu hành được thành công là Quả. Như vậy người tu Phật nào cũng phải đi từ Giáo, Lý, Hạnh, Quả.

Như vậy tu thiền chúng ta đến với các vị thiện tri thức, dẫn lời Phật dạy, dẫn lời Tổ dạy, giảng chỉ cho chúng ta. Đó là phần giáo và lý Chúng ta nhận chân được rồi, chúng ta hạ thủ công phu tu, đó là Hạnh. Rồi từ cái tu đó chúng ta đạt được kết quả, đó là Quả.

Như vậy chỗ lóng lặng vọng tưởng đây, đó là sau khi chúng ta học giáo lý, chúng ta biết được những ý niệm lăng xăng. Nào là buồn, giận, thương, ghét hoặc là thù hằn, ngã mạn, cống cao v.v... tất cả những ý niệm đó, chúng ta chung gọi là vọng tưởng.

Tại sao vậy? Bởi vì những ý niệm đó, nó dấy lên rồi tan hoại mất đi. Giống cũng như là một cụm mây, đủ duyên nó hợp, rồi hết duyên nó tan. Hợp tan bất thường cho nên mây nó là hư dối. Vọng tưởng cũng vậy, nó dấy lên, thì khi dấy lên là có, nhưng rồi qua cơn thì nó mất, nó không còn nữa. Cho nên nó không thật. Bởi nó không thật cho nên chúng ta gọi nó là vọng, vọng là hư dối. Mà cái vọng đó là do tâm tưởng mà ra, nên gọi là vọng tưởng.

Như vậy vọng tưởng là không thật mà nó có trong nội tâm ta. nó dấy lên liên miên không dừng, không dứt. Những người mới tập tu thiền, khi mà không tu, ở ngoài, có thấy vọng tưởng không? Chắc không có thấy. Bị vì nó nghĩ mình thấy, nghĩ không có gì đâu vọng tưởng. Nhưng mà khi ngồi thiền rồi, thì thấy làm sao. Nó ồn ào, dấy động. Hết thằng này, tới chú kia, đi có dây có nhợ. Hết cái này tới cái kia, liên miên, liên miên.

Cho nên mấy người mới tập ngồi Thiền chán lắm. Ngồi thiền sao thấy vọng tưởng không hà! Không có thấy cái gì. Người ta ngỡ rằng mình ngồi Thiền thì mình phải được định. Mình phải phát hào quang gì đó. Mà bây giờ ngồi thiền thấy toàn vọng tưởng không. Chú này tới chú kia liên tục. Thấy vậy có chán không? Đa số thấy vậy hơi buồn. Tu làm chi ngồi thấy vọng tưởng không, không thấy lợi ích gì hết.

Như mà quí vị quên đó là một cái lợi ích lớn rồi. Bởi vì không ngồi thiền, chúng ta không thấy vọng tưởng. Không thấy cho nên không biết. Bởi không biết cho nên rồi chúng ta theo nó. Nghĩ cái gì chúng ta cũng chạy theo cái đó, rồi muốn tính toán cái gì, chúng ta chạy theo cái đó. cho nên cả ngày chúng ta chạy theo lăng xăng lộn xộn.

Giả dụ như chúng ta làm công tác một hồi mệt. Định ngồi nghỉ 15 phút cho khỏe. Mới ngồi nghỉ chừng 3 phút, thấy đằng kia có người nói chuyện xù xì  gì đó, thì vọng tưởng xúi, để coi họ nói cái gì. Rồi không được nghỉ, đứng dậy đi, phải không?

Nó xúi mình, mình tuân lịnh nó. Mình đi. Như vậy nó không cho mình được yên, cứ nó xúi mình cái gì mình làm theo cái nấy. Cho nên rồi cả ngày mình cứ loay hoay, loay hoay. Nhiều người tu cũng định lúc nào rảnh rỗi, ra ngồi dưới cội thông, ngắm trời ngắm mây cho tâm thanh tịnh. Nhưng mà ra ngồi dưới cội thông ngắm trời ngắm mây nó có cho đâu. Vừa ngồi đó cái nhớ bên kia. Hòi nảy mượn mình cái gì đó. Đứng dậy đi. Rồi nhớ chuyện gì thì nó sai mình chạy hoài, không cho ngồi yên.

Như vậy vọng tưởng là cái không có hình tướng. Nói không hình tướng là nói tương đối thôi. Chớ thật ra nó có tướng. Cái tướng của nó, từ ngữ chuyên môn gọi là pháp trần. Tức là cái bóng dáng của ngoại cảnh. Trần là cảnh ở bên ngoài. Pháp là chỗ mà nó còn in dấu trong nội tâm mình. Nó phát hiện ra. Như vậy thì nói tới vọng tưởng là nói tới bóng dáng, chớ không phải là không ngơ. Nó có bóng dáng.

Thí dụ như chúng ta đi. Đi ngoài đường, ngoài chợ, ngoài phố, chúng ta thấy. Mà cái này tới giờ tôi còn nhớ. Năm nào đó có dịp đi ngang chợ Bà Chiểu, không biết có chuyện gì cần đó. Rồi tôi ghé xuống đi lại phố. Thấy một người, không biết bị bệnh thế nào mà họ không đi, họ không bò, mà họ nằm họ trườn. Họ để miếng cao su ở dưới ngực rồi họ trườn, họ đi. Thấy đau khổ làm sao. Thấy cái đó đến giờ, cái bóng nhớ lại nó cũng hiện ra trước mắt.

Như vậy cái bóng khi mình thấy rồi, về nhà mỗi khi nhớ lại nó hiện ra. Cái đó gọi là pháp trần. Đó là cái bóng. Bóng đã in ở trong tâm của mình. Mà nói theo bây giờ là những dấu ấn đó. Nó in sâu ở trong đó. Quên không được. Như vậy pháp trần là những cái bóng, chớ chẳng phải là không ngơ. Nó là bóng. Bởi vậy nên khi mình nhớ lại chuyện quá khứ thì những cái bóng quá khứ hiện trở lại.

Còn chuyện hiện tại nó bóng không? Tôi nói cho quí vị thấy cái quan trọng của vọng tưởng. Vọng tưởng là gì? Vọng tưởng là nó ôn lại những cái gì của quá khứ đã qua. Khi ôn lại rồi, những cái bóng đó nó cứ trồi lên, trồi lên. Hết bóng người này tới bóng người kia. Làm cho mình liên miên không được an ổn. Đó là những cái bóng của quá khứ.

Còn nói hiện tại. Hiện tại thì nó hiện cái gì? Hiện tại thì nó nói chuyện. Thí dụ hiện tại, lát nữa làm cái gì đó. thì nghĩ lát nữa làm gì, trong nó nói à! Lát nữa làm gì, gì. Tức là nó kết hợp với hơi hám của mình, nó thành ra câu nói. rồi lát nghĩ nói cái này, nghĩ nói cái kia. Những cái khởi nghĩ đó là những cái nói mà tôi gọi là con người bất thường. Bởi vì người tu Phật dạy "Tâm bình thường là đạo, mà nó không bình thường". Tại sao nó không bình thường?

Thí dụ như quí vị đi ra trước mọi người, khi cái gì cần nói thì quí vị nói. Còn nếu khi chỗ nào không có người, quí vị đi quí vị nói với ai. Quí vị đi, quí vị làm thinh. Nếu vừa đi vừa nói lảm nhảm thì quí vị sẽ được người ta phê bình là gì? Là thằng điên phải không? Nghĩa là không có người mà mình tự nói lảm nhảm. Bây giờ đây điên tức là bất thường, bịnh tâm thần, đó là bất thường. Bệnh tâm thần, đó là bất thường. Mình bây giờ ngồi lại không có ai hết trơn, một mình, mà cứ khởi lên nói cái này khởi lên nói cái kia.

Thí dụ hai huynh đệ mới cãi nhau chuyện gì đó. Vô ngồi lại, lúc đó làm sao? Lát khởi câu phải nói như vầy hay. Phải không? Hồi nãy mình nói như vậy dở. Nói vậy thua người ta. Những cái đó nói với ai? Lúc đó nói một mình mà cứ nói. Nói một mình mà cứ nói, có phải là điên không? Là lảm nhảm, là bất thường. Cho nên tâm đó là tâm bất thường.

Như vậy chúng ta lúc nào, cũng ở trong cái điên rồ mà chúng ta không hay. Vì vậy mà tu để lóng cái bất thường đó xuống. Nghĩa là khi nào cần nói mới cho nó nói. Còn không cần thì cho nó yên. Đó là tôi nói cái hiện tại.

Vị lai có bóng không? Vị lai thì cũng không có bóng vì nó chưa tới. Nhưng chưa tới thì cũng trong cái nói đó đó. cũng nói nhảm đó. Hiện tại, vị lai là những cái nói nhảm. Vị lai là dự tính. Mai mình sẽ làm cái gì đó, gì đó. đi gặp ai v.v... mà khi khởi nghĩ như vậy là có câu nói ở trong rồi. Như vậy nó cứ nói hoài. Nói chuyện này hết rồi nói chuyện kia. Tất cả vị lai và hiện tại đều là cái nói. còn quá khứ là cái bóng.

Như vâỵ quí vị thấy, mình sống trong cái nói nhảm nhí và cái bóng vô ích, phải không? Như vậy chúng ta lặng hết những cái đó xuống, có lỗi lầm gì không. Những cái nhảm nhí, những cái vô ích thì cho nó lặng xuống. Chừng nào cần đã. Mai kia tới đó thì mọi việc mình giải quyết. Còn bây giờ chưa tới cứ ngồi nói lảm nhảm làm gì. Mà nhất là ngồi thiền, ai cho phép nói chuyện, phải không? Ngồi cứ nói lảm nhảm, mai kia làm sao? Mốt nọ làm sao? Cứ nghĩ như vậy, rồi cứ nói lầm thầm ở trỏng hoài. Đó là cái điên rồ của chính mình, mà mình không hay.

Vọng tưởng là như vậy đó. Nó là  cái hư dối, không thật, vô nghĩa nữa. Do đó phải cho nó lặng xuống, chớ không cho nó nhảm nhí như vậy. Muốn cho nó lặng xuống đó thì tự nhiện chúng ta phải có một công phu tu. Ngồi yên tỉnh táo để nhìn nó và ra lịnh cho nó có hay nó không.

Đó là tôi nói ý nghĩa vọng tưởng mà khi vọng tưởng lắng rồi thì nó sẽ còn cái gì? nó có cái gì? chớ còn lắng xuống hết trơn thì nó vô ích. Ở chỗ này tôi chỉ cho quí vị thấy, đức Phật tôi dẫn trong kinh Pháp Cú, có một đoạn đức Phật kể lại. Đức Phật kể lại rằng: "Ta đã hàng phục tất cả. Ta đã rõ biết tất cả. Ta không nhiễm một pháp nào. Ta xa lìa hết thảy. Diệt dục mà giải thoát và tự chứng ngộ thì còn ai là thầy".

Như vậy Ngài hàng phục được tất cả. Ngài không nhiễm một pháp nào. Ngài xa lìa tất cả. Diệt dục và giải thoát. Tự mình chứng ngộ thì còn ai là thầy (Ngài thành Phật chứng quả đó, ai dạy Ngài. Không có ai là thầy. Như vậy thầy Ngài là ai mà khiến cho Ngài chứng. Đó là chỗ rất quan trọng đối với đời tu chúng ta.

Khi chúng dẹp sạch vọng tưởng rồi thì cái chân thật nó hiện ra và cái sáng suốt tự nó sẵn có, chớ không phải ai chỉ, ai dạy chúng ta được cái đó. Cho nên nhà Thiền gọi đó là Vô sư trí.

Vô sư trí là trí không có thầy. Chúng ta học giáo lý, đó là Hữu sư trí. Rồi chúng ta thực hành được kết quả. Như vậy từ cái hữu sư trí đi tới kết quả là vô sư trí. Chúng ta, theo kinh Pháp Hoa, nhờ được Phật khai thị. Khai là mở. Thị là chỉ. Cái đó tuy là hai nhưng mà cũng là một. Tức là vạch bày cho người ta thấy là khai thị. Khi khai thị đó đương sự hay đương cơ ngộ được. Ngộ được cái lý chỉ cho mình đó. Nhận ra được cái đó thì gọi là ngộ. Ngộ rồi ứng dụng tu để nhập. Cho nên nói "Khai thị ngộ nhập".

Như vậy khai thị là gợi cho chúng ta thấy, chúng ta phát ra cái hữu sư trí. Nhờ khai thị nên cái hữu sư trí chúng ta phát hiện ra. Khi phát ra rồi mới ngộ được cái lý của Phật dạy. Đó là ngộ, ngộ được cái lý Phật dạy rồi ứng dụng tu, đó là nhập. Nhập cái gì? Nhập được cái vô sư trí.

Như vậy khi chúng ta biết vọng tưởng là cái hư dối không thật. Nó đang che đậy tất cả tâm tư, tất cả tâm chân thật của chúng ta. Bây giờ chúng ta biết nó rồi. Biết nó, nhờ giáo lý mà biết. Do đó nhờ khai thị mà chúng ta được biết nó. Khi biết nó rồi chúng ta lại nhận ra rằng nó lặng lẽ xuống. Vọng tưởng không còn thì cái chân thật cái vô sư trí hiện ra. Mà vô sư trí, trong kinh có chỗ nói là Phật tính. Có chỗ nói là chân tâm. Còn trong nhà Thiền thì gọi là Bản Lai Diện Mục. Tên tuy khác nhưng đều chỉ ra cái chân thật đó.

Như vậy khi chúng ta lặng hết vọng tưởng, thì cái chân thật hiện ra, gọi đó là nhập. Là chúng ta thể nhập được cái chân thật đó, gọi là nhập được cái vô sư trí. Như vậy tất cả người tu đều từ hữu sư trí rồi vào vô sư trí.

Trong lúc chúng ta ngồi thiền, chúng ta nhìn thấy những vọng tưởng nó dấy lên rất là ồn ào, rất là phức tạp. Liên miên không dừng. Thấy như vậy là chúng ta có được một cái hay gì chưa? Cái hay là cái chúng ta đã thấy được những đám giặc, phải không? Nó là những đám giặc. Bây giờ chúng ta thấy nó rồi, chúng ta biết nó rồi. Chúng ta không theo nó và cũng không đầu hàng nó.

Đó là cái bước tiến đầu tiên, tuy nó chưa lặng, chưa bớt chút nào, nhưng chúng ta  đã có được cái trí. Cái trí do hữu sư, tức là từ Phật dạy, Tổ dạy mà chúng ta biết. Có cái trí đó hiện đang nhìn nó, đang thấy nó. Như vậy mình nhìn thấy vọng tưởng thì cái vọng tưởng là cái bị mình thấy, bị mình biết. Mà bị mình thấy, bị mình biết thì cái gì thấy, cái gì biết? Đó là cái trí hữu sư đang thấy nó, đang biết nó. Mà đã là trí thì cái đó không phải là vọng tưởng. Không phải là hư dối nữa. Nhưng mà cái trí, đó tôi hay thường nói với quí vị, đó là cái dụng của trí. Nhưng ở đây mình có thể nói cho dễ hiểu là cái trí hữu sư. Cái trí đó nó là cái trí mới sinh ra từ những thiện tri thức. Do thiện tri thức hướng dẫn chỉ dạy, chúng ta phát sinh được trí đó, mới biết được vọng tưởng. Khi biết nó đang tiến tới đông đảo mà chúng ta vẫn có cái trí biết đó là chúng ta  đã sáng lên một phần rồi. Vì vậy mà không sợ vọng tưởng dấy, nó khởi. Chúng ta chỉ là sợ mình không có trí để biết nó thôi. Cho nên các Thiền sư hay dùng câu: "Không sợ vọng khởi mà chỉ sợ giác chậm" là vậy đó. Giác là trí, phải không. Nó khởi mà mình thấy nó đều đều thì đó là cái hay, cái tốt rồi.

]

 

THIỀN TÔNG VIỆT NAM