CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ ỨNG DỤNG TU HÀNH CỦA THIỀN VIỆN TRÚC LÂM

H.T THÍCH THANH TỪ

ĐƯỜNG LỐI TU TẠI THIỀN VIỆN TRÚC LÂM HIỆN NAY VÀ MAI SAU NHƯ THẾ NÀO? (tt)

Như vậy quí vị ngồi thiền thấy vọng tưởng là quí vị thua nó hay là thắng nó? Thấy là thua hay thắng? Tuy thấy nó, nó còn đi, mình chưa dẹp được nó nhưng đã thấy nó, là có một bước thắng nó rồi. Thắng nó cho nên mình mới biết nó mà không theo. Chớ mình không thắng thì đâu có biết.

Như vậy hiện giờ người mê chạy theo vọng tưởng. Vọng tưởng dấy lên mình theo nó, thì gọi đó là người mê. Còn bây giờ vọng tưởng dấy lên, mình thấy biết là vọng tưởng, đó là người gì? Người giác. Như vậy thì quí vị thấy vọng tưởng là quí vị đã giác rồi. Tại sao lại buồn phải không? Phải hiểu cho thật tường tận ý nghĩa thì việc làm quí vị mới không sợ. Mới thấy có sức hăng hái. Chớ còn không cứ nói: "Sao tôi ngồi thiền thấy vọng tưởng không, chán quá!" Đó là chưa có hiểu được. Bởi vì chúng ta bình thường vọng tưởng dấy lên, xúi chúng ta cái gì, chúng ta làm theo cái nấy. Dẫn chúng ta đi đâu chúng ta theo đó. cho nên gọi chúng ta là mê. Bây giờ vọng tưởng dấy lên chúng ta thấy. Chúng ta làm chủ, không theo nó, để cho nó đi mặt nó, thì đó là chúng ta đã giác. Vọng tưởng đi cả hàng mà mình vẫn thấy, không theo nó. Đó là mình giác rồi.  Tôi nói thí dụ, như có chú ăn trộm, chú lại làm quen rồi rủ mình, anh đi với tôi hay là chị đi với tôi. Đi làm cái này mau có tiền lắm. Nghe nói vậy rồi mình đi theo. Mình đi theo chú ăn trộm tức là mình bị dụ dỗ. Mà bị dụ dỗ là mình mê hay mình giác tỉnh? Theo kẻ gian dụ dỗ là mê. Còn bây giờ chú ăn trộm tới, 5 chú, 10 chú lên rủ mình đi. Mình không đi mình cười. Thôi tôi biết chú là ăn trộm. Thì mình tỉnh hay mê? Như vậy mình đang tỉnh. Mình đang tỉnh, đang giác, hay quá chừng rồi. Có gì nữa phải buồn, phải không?

Như vậy thấy vọng tưởng không có nghĩa là buồn, không có nghĩa là thối chí, mà thấy vọng tưởng chúng ta mừng rằng chúng ta đang giác. Đó là một điều nói cho quí vị yên lòng trong lúc tu. Chớ còn không thì quí vị cứ sợ. Sợ vọng tưởng quá! Sao tu 5 năm, 10 năm rồi mà vọng tưởng vẫn còn, chưa có hết. Thật ra không phải bắt nó hết, mà chỉ làm chủ được nó, không theo nó, đủ rồi. Đó là cái thiết yếu.

Như vậy nói đó để quí vị thấy chúng ta tu là để sạch vọng tưởng là lóng lặng từ từ nó hết, chớ không phải chận đón tiêu diệt nó. Khi mình hết vọng tưởng thì chân thật đã hiện ra. Như trong đây đức Phật nói Ngài hàng phục được tất cả. Tức là hàng phục được nội tâm. Ta đã rõ biết tất cả. Tức là rõ biết tất cả những vọng tưởng. Rồi ta không nhiễm một pháp nào. tức là không theo vọng tưởng. Ta xa lìa tất cả. Tức tham sân si không còn gì hết. Diệt dục mà giải thoát, tất cả những thói ham muốn đều sạch hết, như vậy được giải thoát. mà giải thoát thì tự mình chứng ngộ, chớ không phải ai đem lại cho mình. Mà đã tự mình chứng ngộ thì ai là thầy, phải không? Không ai là thầy hết. Thầy chỉ là người dẫn đường. Chỉ đường buổi đầu. Còn đạt được kết quả là chính mình. Mình là người đi thẳng vào trí vô sư. Ngộ được trí vô sư rồi nhập được trí vô sư.

Như vậy đó là chủ yếu của người tu Phật không có thầy mà ngộ đạo. Cái trí vô sư đó có là cái sẵn có ở đức Phật. Mà đức Phật là con người, chúng ta là con người. Mà đức Phật có trí vô sư thì chúng ta có không? Bởi vậy Phật mới tuyên bố: "Ta là Phật đã thành. Các ngươi là Phật sẽ thành". Như vậy là quá rõ rồi.

Phật thấy Ngài có trí vô sư cho nên Ngài dứt hết mấy cái này, Ngài liền được ngộ đạo không ai dạy. Cái ngộ đạo đó tức là thể nhập được trí vô sư của Ngài. Mình bây giờ dẹp hết những cái vọng tưởng này thì trí vô sư cũng hiện. Như vậy Phật có, chúng ta có. Cho nên Phật mới tuyên bố Ngài là Phật đã thành, chúng ta là Phật sẽ thành. Như vậy câu đó để nói lên rằng, Ngài đem lại cho chúng ta một lòng tin cao quí đẹp đẽ tuyệt vời. Cuộc đời con người là một cuộc đời vô thường sinh diệt khổ đau. Bây giờ mình còn có cái chân thật, bất sanh bất diệt, mà đức Phật đã có, đã được. Chúng ta đã có mà chưa được là chúng ta chưa trở về đúng như Phật. Chưa được nhưng mình tin rằng mình đã có. Phật có thì chúng ta cũng có.

Như trong đây, Tăng hoặc là Ni, giả sử như 50 người, mà có người nào đó nói rằng: "Tôi có một trí biết được cái hay cái dở của mọi người". Người đó nói có cái trí biết được cái hay cái dở của mọi người, thì tất cả những người chung quanh tin rằng, mình có cái trí đó không? Thì nếu huynh đó có thì tôi cũng có. Nhưng mà giả sử người đó có là tại vì họ sớm, họ khéo tu, họ khéo chuyển những sai lầm, cho nên họ được trí đó. Mình đây khéo chuyển, khéo tu cũng được. Người khác cũng vậy.

Bởi vậy nên đức Phật, Ngài có vô sư trí, mà Ngài khéo tìm, đi thẳng đến. Cho nên gọi là nhập được. Như vậy Ngài đi thẳng đến trí vô sư Ngài nhập được. Muốn đi thẳng vào để nhập trí vô sư thì phải làm sao? Phải buông bỏ. Phải ruồng đuổi hết tất cả các thứ sanh diệt, vọng tưởng. Đuổi nó hết thì Ngài nhập cái đó.

Còn bây giờ chúng ta có đi đúng đường của Ngài hay không? Ngài đi thẳng, Ngài ruồng đuổi, dẹp bỏ hết những điên đảo vọng tưởng. Còn ngày nay chúng ta lại đi theo điên đảo vọng tưởng. Như vậy Phật đi đường gì? Chúng ta đi đường gì? Phật đi đường giác mà chúng ta đi đường mê phải không? Như vậy chúng sinh không đi theo hướng của Phật. Chúng sinh theo vọng tưởng để tạo nghiệp lành, dữ v.v... thì đó là đi đường mê. Còn Phật dẹp sạch vọng tưởng, đi thẳng tới vô sư trí, đó là đi đường giác. Như vậy ai tu mà biết đi thẳng con đường đó là đi theo đường của Phật. Còn đi theo lối khác tức là không phải đi theo đường Phật. Đó, rõ ràng như vậy.

Như vậy khi nào chúng ta nghe theo vọng tưởng dụ dỗ, chạy theo nó, làm những việc này việc kia, thì khi giựt mình, chúng ta thấy làm sao? Nãy giờ chúng ta mê, bị vọng tưởng lôi kéo. Bây giờ chúng ta mê bị vọng tưởng lôi kéo, khi chúng ta gần chết thì sao, cái gì lôi kéo? Đó là cái thật đáng sợ. Tất cả chúng ta khi còn có đủ sức khỏe. Tâm tính còn sáng suốt, thì cái sống hiện tại đây chúng ta biết đè nén những cái xấu, cái dở. Biết cố gắng làm cái hay, cái tốt. Nhưng khi chúng ta già yếu, không còn nghị lực nữa thì tất cả những cái cái gì chúng ta tích lũy ở nội tâm mình, những cái buồn, giận, thương, ghét v.v... những cái đó càng nhiều, thì lúc đó nó trổi dậy.mà nó chỗi dậy thì chúng ta theo nó. Theo nó cho nên nhắm mắt thì nó dẫn chúng ta đi. Đi luân hồi là đi theo cái đó. Cho nên chúng khéo tu là phải làm chủ được nó. Làm chủ nó thì khi chúng ta yếu rồi, tinh thần không còn mạnh, không còn sáng nhưng cái tập khí cũ hết. Hết thì chúng ta mới đi con đường sáng suốt được. Còn không thì chúng ta lệ thuộc vào sự hướng dẫn, lôi kéo của nó. Đó là cái hết sức là thiết yếu.

Như vậy chúng ta hiểu được ý nghĩa này thì khi nói đến tu là chúng ta phải trở về với tánh giác. Đó là tôi nãy giờ dẫn trong kinh cho quí vị thấy. Vô sư trí tức là tánh giác hay chỗ khác gọi là Phật tánh đó.

Nhưng các Thiền sư, nhất là Thiền sư Toàn Khoát, nói với Ngài Tuyết Phong một câu này, tôi thấy nó quá hay, nó thấm thía làm sao. Khi Ngài Tuyết Phong kể lại những nơi Ngài đến, Ngài nghe các vị thiện tri thức dạy, Ngài nhận được, Ngài hiểu được. Khi trình bày cho Ngài Toàn Khoát nói câu này. Nói rằng: "Từ cửa vào không phải của báu trong nhà". Cái câu đó nó quá hay. "Từ cửa vào không phải của báu trong nhà", quí vị nghĩ làm sao? Của báu trong nhà là sẵn trong tủ, trong rương phải không? Nằm trong tủ trong rương của mình mới gọi là của báu trong nhà. Còn người ta đem ở ngoài vô, làm sao nói của báu trong nhà được.

Bất cứ từ một vị thầy, từ một thiện tri thức nào đó mà mình nhận được một ý hay, mình nói đó là mình ngộ, đó là mình đạt đạo, thì cái đó chỉ là hữu sư trí thôi. Chưa phải là thật cái trí của mình. Trí của mình, trí vô sư đó, là phải tự mình sau khi lóng lặng được cái tâm vọng tưởng rồi, tự nó sáng, tự nó phát ra. Cái đó mới thực là của mình. Đó là cái trí vô sư.

Như vậy chúng ta mới thấy từ Phật đến các Thiền sư có khác không? Phật đã kể cho chúng ta thấy rõ Ngài hàng phục nè! Ngài giết nè! Ngài không nhiễm tất cả các pháp. Rồi Ngài diệt hết tất cả dục vọng. Ngài đến giải thoát. Đó là Ngài tự tu, tự chứng. Tự tu, tự chứng thì còn ai là thầy. Như vậy cái đó là vô sư trí. Tự nơi mình nó hiện ra. Vậy thì vô sư trí đó không phải do ai dạy, ai chỉ, mà chính do mình. Hiểu được chỗ đó rồi chúng ta mới thấy Phật, Tổ đều đưa chúng ta đến chỗ cứu cánh chân thật. Đó là cái của báu nhà mình đó. Của báu nhà mình tức là không có cái gì do bên ngoài đem đến hết mà nó sẵn ở trong con người chúng ta. Như vậy đã nói là sẵn có, thì tôi sẵn có, tất cả quí vị cũng sẵn có. Không ai thua ai. Mà chỉ có điều là người biết trở về và người chưa biết trở về. Hoặc người trở về được hai phần đường và người mới bắt đầu trở về. Nó khác ở chỗ đó thôi. Chớ không phải người này có người kia không. Mà ai cũng bình đẳng. Ai cũng có như nhau.

Như vâỵ chúng ta mới thấy cái giá trị tuyệt vời của đạo Phật là cái đạo chỉ cho tất cả chúng ta bình đẳng, có tánh giác, không ai hơn không ai kém. Bình đẳng trên tánh giác. Như vậy chúng ta là người học Phật, tu Phật, giả sử được duyên tốt, sớm ngộ, sớm đạt đạo, thì chúng ta dám khinh người này người kia không? Mình đạt đạo sớm là duyên của mình tỉnh sớm. Người kia muộn thì duyên họ tỉnh muộn. Chớ ai cũng có thể đạt đạo được hết. Chớ không có một người nào không đạt đạo.

Như vậy từ câu này chúng ta mới thấy đạo Phật nhìn tất cả mọi người, dù cho theo tôn giáo nào, theo nhóm nào, một hội nào v.v... họ cũng đều có Phật tánh. Họ đều có tánh giác như mình hết. Không ai thua mình, không ai đáng cho mình khinh khi. Mà ai cũng đều như nhau, bình đẳng không khác. Như vậy chúng ta bình đẳng ở trong con người tu hành như nhau. Mà cũng bình đẳng với tất cả người bất cứ ở một lãnh vực nào, cũng đều bình đẳng như nhau. Không bao giờ dám nói tôi theo đạo Phật là giác, còn huynh kia theo đạo khác là mê, không phải, ai cũng có tánh giác, mà chỉ biết trở về sớm hoặc trở về muộn hay chưa chịu trở về thôi, phải không? Người sớm, người muộn, người chưa chịu trở về. Mai kia người ta tỉnh, người ta trở về thì cũng giống hệt mình, không khác gì hết. Đó là một cái nhìn tường tận, thấu đáo của đạo Phật, giúp cho cho chúng ta có một cái tâm đối với tất cả mọi người không có dám tự cao, không dám khinh miệt ai hết. Đó là một điều hết sức thiết yếu.

Nãy giờ tôi nói về lóng lặng vọng tưởng để mà nhận ra bản lai diện mục của mình. Hỏi tại sao phải lóng lặng vọng tưởng? Tôi đã nói rồi. Bởi vì một cái quan trọng nữa là, vọng tưởng nó che lấp tánh giác của mình. Cho nên mình có tánh giác mà không bao giờ thấy.

Tôi thí dụ như đêm rằm Trung Thu này. Đêm rằm Trung Thu thì quí vị biết đêm rằm có trăng hay không? Trên trời lúc nào không trăng, phải không? Đêm rằm thì trên trời lúc nào không trăng, nhưng mà tại vì mây. Mây nó dầy, nó đen kịt. Nếu mây dầy, đen kịt thì chúng ta thấy trăng không? Chúng ta không thấy mặt trăng là tại không có mặt trăng hay là tại mây? Ờ! Tại mây. Thì cũng như vậy, mây như hồi nãy tôi dụ, mây cũng như vọng tưởng, từng lớp, từng lớp. Chúng ta bây giờ thấy được vọng tưởng là nhờ hữu sư trí. Như vọng tưởng che phủ vô sư trí của mình đi, cho nên mình muốn tìm vô sư trí, tìm không ra. Chỉ thấy chú vọng tưởng kéo từng giây, từng giây tới. Nó che hoài hoài thì không thấy được vô sư trí.

Bây giờ đây chúng ta muốn thấy được vô sư trí, chỉ khi nào vọng tưởng mỏng hoặc nó bớt đi. Như đêm rằm mà chúng ta thấy trên bầu hư không, thấy mây đen kịt, nó cứ liên tục, liên tục thì không bao giờ chúng ta thấy ánh sáng mặt trăng. Nhưng bỗng một lúc nào đó, có một cụm mây qua rồi, nó có khoảng trống thưa. Khoảng trống thưa đó chúng ta thấy sao? Có lóe ánh sáng phải không? Nếu mà thưa dài dài chúng ta nhìn thấy mặt trăng. Còn thưa mà sơ sơ chúng ta thấy một chút ánh sáng.

Đó là nói như vậy để quí vị thấy rằng vọng tưởng nó che phủ làm cho chúng ta không thấy được tánh giác. Cũng như mây che phủ chúng ta không thấy mặt trăng. Ngày nay chúng ta muốn thấy được tánh giác, muốn nhận ra tánh giác, thì tự nhiên chúng ta phải tìm cách để lóng lặng vọng tưởng xuống. Điều đó không thể thiếu được. Mà tìm cách lóng lặng vọng tưởng là nói tới điều mà chúng ta phải ứng dụng tu. Tức là lóng lặng vọng tưởng bằng cách nào? Là câu thứ hai tôi nói khi nãy. Nhưng mà bây giờ nói tới vọng tưởng nó đang che lấp tánh giác chúng ta. Giống như là mây, đang che khuất mặt trăng. Như vậy chúng ta muốn thấy được mặt trăng, mà cái muốn thấy mặt trăng đó là con mắt. Cũng như vậy chúng ta muốn nhận ra, tìm cho ra được bản lai diện mục hay là cái vô sư trí, phải không? Thì đó cái mình muốn tìm đó là hữu sư trí. Nhưng khi phăng tìm nó lại bị dội, bị dừng lại, chận lại vì cái vọng tưởng. Vì cái vọng tưởng mà chận lại. Bây giờ chúng ta phải làm sao cho vọng tưởng này bị mòn, bị mỏng, được tan đi thì vô sư trí hiện đủ. Khi chúng ta tìm nhận ra được vô sư trí rồi thì cái hữu sư và vô sư không còn hai nữa. Cũng như khi chúng ta thấy mặt trăng rồi thì trong bầu trời chỉ có một mặt trăng, chứ không có cái gì khác. Sự che phủ này lâu nay chúng ta bị mê lầm, chúng ta không biết, nên chúng ta chấp nhận sự che phủ đó là chúng ta. Cho nên muôn kiếp không thấy được vô sư trí hay là cái tánh giác. Chính vì vậy mà trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật cũng nói về cái nghĩa khách trần, tôi thấy nó quá hay..

Bây giờ tôi hỏi quí vị, khi mình ngồi thiền mình thấy vọng tưởng. Có người nào không thấy không? Nếu không thấy vọng tưởng là đang theo nó, phải không? Còn thấy được vọng tưởng là mình thấy. Mình thấy thì vọng tưởng là cái bị thấy. Còn cái hay thấy không phải là vọng tưởng, phải không? Cái bị thấy là vọng tưởng. Mà cái hay thấy không phải là vọng tưởng. Như vậy cái hay thấy được vọng tưởng đó, cái đó không phải là vọng. Mà nó là một cái sáng suốt, một cái trí tuệ mà tôi nói nãy giờ đó. Là cái hữu sư trí mới đó. Nhờ có hữu sư trí mới biết có vọng tưởng mới thấy được vọng tưởng. Bởi thấy vọng tưởng nên vọng tưởng không phải là mình. Vì nó là cái bị thấy. Có bao giờ nói tôi thấy bình hoa, mà nói thấy bình hoa, nói bình hoa là tôi được không? Bình hoa là cái bị thấy phải là cái bên ngoài. Mà tôi là cái hay thấy. Như vậy thì nói thấy bình hoa thì bình hoa không phải là tôi. Bây giờ thấy vọng tưởng thì vọng tưởng là tôi được không? Nhưng bây giờ quí vị có bị nó dẫn không? Nó không phải là mình thì tại sao lại bị nó dẫn. Đó là mê phải không? Bởi mê nên chạy theo nó, rồi nó dẫn mình.

Như vậy chúng ta tu là thấy được vọng tưởng, biết nó là cái bị mình thấy. Cho nên trong kinh Lăng Nghiêm Phật mới nói "Khách Trần". Khách là sao? Trong đó Phật dạy rõ. Nghĩa là như người có việc đi tới nhà nghỉ. Dừng lại ở nghỉ một đêm, người nghỉ một đêm, sáng họ quảy hành lý họ đi. Người tới nghỉ rồi đi thì gọi đó là khách. Còn người chủ nhà nghỉ đó có đi không? Không đi. Đó là chủ.

Như vậy cái thấy vọng tưởng nó có đi không? Nó có sanh diệt như vọng tưởng không? Vọng tưởng qua mất, qua mất cái này tới cái kia thì đó là khách. Còn cái thấy vọng tưởng không phải là khách, mà có thể tạm nói là chủ, phải không?

Như vậy thì đó là một cái thí dụ cho chúng ta thấy hết sức là rõ. Tất cả vọng tưởng là cái bị thấy. Là không phải chúng ta. nó là cái bị chúng ta biết, chúng ta thấy. Như vậy đừng lầm cho nó là mình. Vọng tưởng gồm hết: Tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến rồi đủ thứ. Những cái đó đều là loại vọng tưởng. Như vậy mình biết nó là cái bị mình biết, thì mình không có lầm mê, chạy theo nó. Đó là tôi thí dụ khách.

Còn trần thì Phật nói thí dụ: Như sáng sớm mặt trời lên từ phương Đông, có ánh sáng soi vô trong nhà theo kẻ hở. Mình nhìn chỗ kẻ hở ánh sáng soi vô đó sẽ thấy. Mình thấy cái gì? Thấy bụi trong hư không lăng xăng, lăng xăng, lăng xăng. Như vậy bụi trong hư không lăng xăng, lăng xăng đó, Phật gọi là “Trần”. Bụi là cái lăng xăng, là cái động. Động cho nên cái tướng sinh diệt. Còn cái hư không chứa bụi đó, thì cái hư không đó có động không? Không động. Mà không động cho nên không sanh diệt.

Cũng như vậy chúng ta thấy vọng tưởng lăng xăng, đến đi. Còn cái thấy, hay thấy, nó không có đến đi. Như vậy quá rõ rồi. Nghĩa là ngay nơi đó chúng ta đã biết cái gì hư, cái gì thực. Ngay nơi bản thân mình, trong những giờ phút ngồi tu, thấy rõ không có nghi ngờ.

Như vậy tất cả chúng ta biết rõ rồi thì bây giờ phải làm sao cho vọng tưởng lắng xuống đây? Muốn vọng tưởng lắng xuống, thì tôi đặt câu hỏi, lóng lặng vọng tưởng bằng cách nào? Thì đây có những cách:

Cách thứ nhất là biết rõ vọng tưởng tiếp nối, là nguồn gốc của sanh tử. Nhìn xem sự sanh diệt của nó thôi không cần làm gì nữa. Nghĩa là thấy rõ vọng tưởng là cái gốc của sinh tử, nó liên tục tiếp nối như vậy. Nó là cái gốc của sinh tử, thấy rõ nó. Nó hiện bao nhiêu thấy bấy nhiêu, thấy rõ ràng. nhìn tường tận nó, không có lệ thuộc, không có theo, không có diệt. Bởi vì chúng ta quan niệm sai lầm rằng "Diệt vọng tưởng". Đó là quan niệm rất sai lầm. Đã vọng thì dối. Dối làm sao mà diệt được. Cũng như mây là không thật, chúng ta muốn đập nó cho nó nát, không được. Cho nên nói tới vọng tưởng là nói cái khéo lóng lần lần cho nó lặng xuống. Chớ không có chạy theo.

Bởi vậy cho nên đầu tiên là chúng ta có cái nhận xét tường tận. Vọng tưởng là cái nguồn gốc của sinh tử. Còn niệm khởi là còn sinh tử. Biết rõ như vậy, không còn nghi ngờ gì hết. Chúng ta biết như vậy rồi, chúng ta không có lệ thuộc, chúng ta không có chạy theo. Còn nếu mình không biết, mình cứ nghĩ rằng vọng tưởng là mình, thì mình lệ thuộc, mình chạy theo. Đó là cái bước đầu để đi vào lúc tu lóng lặng vọng tưởng.

Rồi tới bước thứ hai là chúng ta phải thấy, niệm trước vừa lặng, niệm sau chưa sanh. Khoảng hở trống là hiện thân của bản lai diện mục. Quí vị nhớ, niệm trước nó dấy lên, dấy lên rồi nó lặng. Sau có niệm nữa. Nhưng mình được 3 phút, 5 phút niệm thứ hai. Thì cái khoảng 3 phút, 5 phút đó là cái gì, thì cái không phải vọng tưởng, mà mình thấy vọng tưởng này lặng, vọng tưởng kia sanh. Lúc đó chỉ còn có cái thấy của mình, phải không? Chỉ còn cái thấy của vọng tưởng, cái thấy để thấy vọng tưởng. Cái thấy đó là đã hiện thân cả cái bản lai diện mục rồi. Còn cái gì, có gì mà buồn.

Như vậy thì cứ vọng tưởng này lặng, cái hở trống hoặc là nửa phút hoặc 1 phút, mình thấy được khoảng lặng đó thì mình cười, hay là mình hiện tiền. Như vậy đó là một bước tiến để cho chúng ta không còn sợ. Nói mình tu sao không có kết quả. Quí vị thấy có kết quả chưa? Có ai ngồi mà cứ liên tục không có hở một chút nào không? Chắc có hở. Hở  nhiều, hở ít, phải không? Nghĩa là có cái này lặng, rồi một chút cái kia khởi lên.

Tại vì mình có cái khổ, cứ thấy vọng tưởng mà không thấy mình. Cũng như thấy tay chứ không thấy cái thấy, phải không? Mình cứ quên mình mà chạy theo vật. Cũng như quên mình mà chạy theo vọng tưởng. Bởi vậy nên vọng tưởng có thì tưởng như là mình có. Vọng tưởng lặng tưởng như mình không có. Như bây giờ mình thấy rõ ràng, vọng tưởng có, vọng tưởng lặng. Mà khi vọng tưởng lặng, trong khi chưa có cái thứ hai, thì khoảng đó là ai, ai đang hiện hữu? Ai hiện hữu lúc đó? Như vậy thì còn gì mà sợ, còn gì mà nghi. Nghĩa là vọng tưởng không có. Tôi nói ví dụ không có vọng tưởng là không có khách. Không có khách mà ai ngồi thấy được vọng tưởng không có. Thì ông chủ hiện tiền. Như vậy đó là bản lai diện mục đang có mặt chớ đâu phải là không có. Nó đang có mặt mình không biết. Như vậy quí vị thấy, chúng ta nhận biết được như vậy đó là chúng ta đang tu, mà vui với cái tu. Nghĩa là chỉ cần lâu lâu hé một chút mừng, hé một chút là mừng. Chớ còn mình tại bây giờ cứ điểm mặt vọng tưởng không hà. Bởi vậy nên từ khi ngồi cho tới khi ra nhớ vọng tưởng. Hết chú này tới chú kia, tới chú nọ. Không bao giờ biết có mình. Bây giờ phải nhìn lại. Nghĩa là khi vọng tưởng này lên, rồi lặng, tới vọng tưởng rồi khoảng hở giữa này, lúc đó mình đang hiện tiền. Như vậy mình hiện tiền nhiều hơn là vọng tưởng chớ, phải không? Như vậy thì quí vị mới thấy, mình tu là có kết quả thực tế, chớ không phải mình đang làm chuyện không công vô ích. Có kết quả thực sự chớ không phải là không công.

Bởi vì lâu nay nhiều khi tôi nghe quí vị than, nói sao mà từ vô ngồi tới ra, tới xả, thấy vọng tưởng không hà. Bởi vì tại nhìn nó thì thấy nó, phải không? Giả sử bữa nay mình thấy 100 chú trong 2 giờ đồng hồ. Mai mình thấy có 90 chú hà. Mà cũng là thấy vọng tưởng. Mốt còn có 70 chú cũng là thấy vọng tưởng. Bởi vì mình cứ thấy vọng tưởng, là quên mình. Bây giờ mình phải thấy, khi không có vọng tưởng là lúc đó mình đang hiện tiền. Như vậy cộng lại những khoảng hở đó, dồn lại coi nhiều hơn vọng tưởng hay không? Như vậy mình hiện ra nhiều hơn là vọng tưởng. Như vậy là thấy mình. Tại quên mình cái kiểu thấy tay. Cho nên hết tay rồi không thấy đó. Rồi cứ có đưa tay có thấy, không đưa tay là không thấy. Cứ như vậy mà mình cứ thấy tay hoài. Mà không thấy cái hay thấy thấy tay. Mình quên cái hay thấy vọng tưởng, cho nên khi vọng tưởng hở, khoảng nào cái khoảng hở là chủ đang hiện tiền. Bởi vì đâu có cái gì làm cho mờ. Còn vọng tưởng lên, thấy nó cho nên mờ, quên cái mình đi. Đó là cái lẽ thật cho tất cả quí vị hiểu. Rõ ràng không có nghi ngờ. Như vậy là tu đó. lóng lặng như vậy đó là tu.

Rồi một điểm thứ ba nữa, mình phải thấy rõ, nhận đúng sự thật, vọng tưởng là hư dối, không theo. Không theo vọng tưởng là đang sống với cái chân tâm bất sanh bất diệt. Nghĩa là mình không theo vọng tưởng là mình đang sống với cái chân tâm hay là đang sống với cái chân tánh, thực tánh của mình. Không theo vọng tưởng là đang sống với cái thực tánh của mình. Chớ không có gì lạ hết.

Tại sao nói không theo, bởi vì thấy nó, nó đi rồi thôi, thì cái thực tánh mình nó hiện tiền. Như vâỵ mình đang ngồi trong cái tánh giác. Mình đang sống với cái tánh giác, chớ mình không phải đang sống với vọng tưởng. Như vậy thấy vọng tưởng để biết mình; chớ không phải thấy vọng tưởng để rồi biết vọng tưởng, thấy vọng tưởng để biết khi có khi không, và mình luôn luôn là hiện tiền. Đó là cái ý biết vọng tưởng, nhận chân nó là hư dối không theo, thì đó là đang sống với chân tâm bất sanh bất diệt của chính mình, chớ không có gì hết. Đó là 3 điểm ứng dụng để cho chúng ta tu. Không có nghi ngờ gì.

Rồi đến chặng thứ ba đây là dứt sạch tập khí muôn đời. Từ cái thứ hai đến cái thứ ba này là cái tinh thần Thiền tông rồi đó. Đi thẳng trong Thiền tông. Trong Thiền tông khi mình nhận được mình có cái bản lai diện mục rồi. Giả sử lóng được vọng tưởng xuống, lặng rồi, thì lúc đó là lúc mình xong việc hết, mình đã thành công viên mãn chưa? Tuy là mình thấy vọng tưởng không còn, nhưng mà vẫn còn phải tu, phải cố gắng, phải dứt hết tập khí.

Chữ tập khí ở đây, nói cho quí vị dễ hiểu, chữ tập là nhóm hợp. Khí là cái hơi. Những tập khí là những hơi, nó nhóm hợp lâu thành ra một cái gì thấm sâu ở trong. Nên trong sách, trong kinh hay thí dụ, như tay chúng ta nắm một con cá gì mà tanh nhiều. Chúng ta nắm chừng 5 phút buông ra thì tay hôi ít phải không? Nắm tới 10 phút, nắm tới 1, 2 giờ đồng hồ buông ra thì tay làm sao? Nếu nắm con cá hôi nhiều, tanh nhiều, tới 2 giờ đồng hồ, khi chúng ta buông cá ra, rồi lấy nước rửa, rửa sạch, đưa tay vô mũi ngửi, còn tanh không? Cái nhớt, cái dơ nó hết, nhưng còn hơi của nó đó vẫn còn thấm. Bởi vậy cho nên phải rửa xà bông 5, 3 lượt nó mới hết. Vì vậy cái còn thấm mà không có hình tướng, cái đó gọi là tập khí. Chỉ có cái hơi thôi. Hơi mà nó vương, thấm sâu quá thì cái hơi đó khiến cho mình khó mà quên. Khó mà làm chủ được. Vì vậy nên nói tập khí.

Tôi nói thí dụ như trong kinh Ngài Ca Diếp là một vị đại A La Hán trong thời Phật. Ngài được Phật tán thán vô cùng. Thế mà khi thần A Tu La đến đánh nhạc trong hư không, cái làm sao? Ngài đứng dậy, Ngài múa.

Một vị A La Hán là giới hạnh nghiêm chỉnh vô cùng thì đâu có dám ca múa. Ca múa là phạm phải không? Như vậy trong cái đó là không có thể làm. Mà khi  nghe đánh nhạc rồi Ngài bất chợt đứng dậy múa. Các vị khác hỏi Phật tại sao Ngài Ca Diếp đạo đức như vậy, mà lại còn múa theo tiếng nhạc. Phật nói đó là tập khí nhiều đời của Ngài Ca Diếp. Nói vậy để quí vị biết cái tập khí.

Thí dụ: Bây giờ ở thế gian người nào là nhạc sĩ, ca sĩ, rồi bây giờ xuất gia đi tu. Vô chùa giữ giới rất nghiêm chỉnh. Giả sử hôm nào đó có mấy người ca sĩ, nhạc sĩ tới, họ đánh nhạc, họ ca những bài hơi giựt mạnh đó, thì mấy người đó làm sao? Chân có nhịp không?

Như vậy để thấy cái tập khí mạnh lắm. Nó bất chợt chớ không có dụng ý gì hết. Nó phát ra mình không ngờ. Cho nên khi mình tu, mình ngộ được chân tâm. Mình nhận ra được cái bản lai diện mục rồi, đừng tưởng như vậy đã xong. Mà còn phải nhiều năm để lóng sạch cái tập khí. Tập khí lóng được rồi, sạch rồi thì chừng đó mới là xong việc. Còn chưa lóng sạch thì chưa xong việc đâu.

Nên gần đây cũng có một ít người tu, lâu lâu cũng lố dạng một chút gì đó. Họ thấy, họ tin rằng họ thấy được cái thật. Thấy được rồi hài lòng. Ngang đó muốn tung hoành. Càng tung hoành thì gặp cảnh dễ sân thì cũng nổi sân. Gặp cảnh đáng buồn thì cũng buồn. Là tại vì cái tập khí chưa hết. Rốt cuộc một thời gian rồi cũng như ai. Cái gì mình thấy nó bị mờ.

Bởi vậy nên tu, khi ngộ rồi, còn phải nhiều năm nổ lực tu nữa để cho sạch tập khí. Chúng ta phải nhớ Ngài Trần Tôn Túc nói làm sao? Ngài dặn rằng:

-Việc lớn chưa sáng như đưa ma mẹ. Việc lớn đã sáng như đưa ma mẹ.

Mới nghe thì như mâu thuẫn "Việc lớn chưa sáng" tức là chúng ta chưa ngộ được bản lai diện mục của mình. Đó là chưa sáng việc lớn thì lúc đó phải đem hết tâm lực tu hành, giống như người đưa đám ma mẹ. Lúc đó không còn cái niệm gì khác hơn là nghĩ tưởng tới mẹ. Thì cái này cũng vậy, chúng ta tu chưa được ngộ đạo thì không còn cái gì khác hơn là phải chăm chăm tu hành để cho được ngộ đạo. Đó là "Việc lớn chưa sáng" như đưa ma mẹ.

Nhưng mà "Việc lớn đã sáng" tại sao cũng "Như đưa ma mẹ?" Đã sáng tức là ngộ rồi. Ngộ rồi thì chuyện xong rồi, còn gì mà như đưa ma mẹ. Đó là nói rằng khi mình ngộ rồi nhưng tập khí chưa có hết, chưa có sạch. Chúng ta phải cố gắng dẹp sạch. Chúng ta phải cố gắng dẹp sạch cái tập khí. Lúc đó cũng là luôn luôn chăm chỉ nhìn ngó, vừa có một cái máy động thói quen cũ, là mình phải dẹp liền, bỏ liền, chớ không có hờ hững, không có lơ là. Cũng như đưa ma mẹ vậy.

Bởi vậy ai mà nói ngộ rồi thong thả, tự do hoành hành, thì tôi lắc đầu thôi. Chớ không có tin. Phải là 5 năm, 10 năm để tất cả tập khí mình nó sạch. Thí dụ như mình quen cái nóng. Ngộ đạo thì ngộ mà cái nóng nó vẫn còn. Gặp việc thì nó cũng nổi dậy. Bây giờ phải làm sao dòm chừng, xem xét, tìm kiếm cho nó kỹ, cho nó thấu đáo. Khi gặp việc trái ý, có nó ló dạng như thế nào, nó còn tới cỡ nào, mình nhìn cho kỹ, thấy cho tường tận thì chừng đó mình biết, mình đánh giá nó còn nặng hay còn nhẹ. Chừng nào gặp những cảnh trái ý 100% mà mình vẫn thản nhiên tự tại thì chừng đó mình mới gật đầu cười. Tới đây mình mới là tự tại, mới là tự do. Đó mới là lúc buông thỏng tay vào chợ được. Chớ còn trước kia chưa, chưa có phải là người buông thỏng tay vào chợ. Hiểu vậy thì quí vị mới thấy cái chủ yếu của sự tu hành. Chớ không thì chúng ta lại không biết tu tới đâu để mà dừng, tới đâu mà được thảnh thơi. Tưởng rằng mình thấy được cái đó là mình được thảnh thơi rồi. Chưa đâu, còn tâp khí nó nặng nề lắm. Mình phải ráng theo dõi, dẹp trừ nó.

Cho nên cái câu của Ngài Trần Tôn Túc nhắc đó, là cái câu rất quan trọng đối với người tu. Bởi vì đa số người tu chúng ta cứ hài lòng rằng mình đã biết mình, đã thấy có cái chân tâm, có cái Phật tánh. Rồi cứ hài lòng, rồi đem nói, đem dạy mà chính bản thân mình chưa có sạch tập khí. Cho nên khi đụng việc thì mọi cái gì dở, cái gì xấu, nó cũng hiện ra rõ ràng. Chưa có hết. Rồi mình nói mình ngộ đạo. Người ta nghe, người ta khen. Nhưng mà gặp cảnh đó rồi người ta thấy:

-Ủa! Sao thầy cũng giống như tôi. Thầy nói thầy ngộ, mà sao gặp cảnh trái tôi giận, thầy gặp cảnh trái thầy cũng giận. Vậy có khác gì đâu.

Người ta đánh giá cái ngộ không có giá trị. Người ta tưởng ngộ cũng như không ngộ vậy thôi. Đó là một cái rất là nguy hiểm. Cho nên ai vội vàng cứ tưởng rằng như vậy mình đã xong. Thì đó là cái nguy hiểm. Làm mất hết giá trị quí báu của người tu. Nên mình thấy được rồi mà mình còn phải bao nhiêu năm để rèn luyện nữa. Chừng nào tất cả cái gì nghịch cảnh, thuận cảnh đến với mình, mình vẫn thản nhiên tự tại. Không có bận bịu, không có dính một chút xíu nào, như vậy mới thực là thứ thật .

Đó là chuyện không phải dễ. Bởi vậy nên tôi nói quí vị phải thuộc lòng bài kệ mà tôi đã dẫn nhiều lần ở trong sách:

            Đốn ngộ tuy đồng Phật

            Đa sanh tập khí thâm

            Phong đình ba thượng dũng

            Lý hiện niệm du xâm.

Đó là bài kệ rất là thực tế. Hết sức là thiết yếu. "Đốn ngộ tuy đồng Phật" nghĩa là chỗ mình thấy giống như Phật rồi. Phật thấy làm sao, mình cũng thấy như vậy. Phật nói cái gì mình hiểu hết. Như vậy đốn ngộ đồng Phật rồi.

Nhưng mà khác với Phật ở chỗ "Đa sanh tập khí thâm". Nhiều đời cái tập khí sâu dầy quá đi. Bởi vậy nên Phật ngộ như vậy, rồi đi tới đâu bị người ta hành hạ, mắng chửi Ngài vẫn thản nhiên. Còn mình cũng ngộ, mà đi tới đâu bị người ta mắng chửi thì mình nổi sân đùng đùng, phải không? Như vậy đó tuy cái thấy thì đồng mà tới gặp việc lại khác. Nó không giống. Là tại vì tập khí chúng ta quá sâu dầy.

"Phong đình ba thượng dũng" tức là gió dừng rồi. Chúng ta ra biển thấy đó, một trận dông thổi qua, sóng dưới biển dậy ầm ầm. Trận dông qua rồi (nó qua rồi tức là hết) nhưng mà 15 phút, 20 phút sau sóng vẫn còn ầm ầm, chưa có hết, phải không? Cũng như vậy khi chúng ta ngộ đạo thì cái mê nó hết rồi nhưng mà tập khí nhiều đời vẫn còn. Sức mạnh nó vẫn lôi kéo, thúc đẩy ta, chúng ta không làm chủ được. Như vậy cho nên phải nỗ lực, phải tu hành, chớ không lôi thôi được. Đó là một điều rất thiết yếu.

Kế đó nữa "Lý hiện niệm du xâm". Lý đó là chỉ cho tánh giác, tính thật mà nãy giờ tôi chỉ cho quí vị thấy, một cái khoảng hở của niệm này niệm kia đó, là cái tánh giác có hiện tiền trong đó. Cái đó mình nhận ra được rồi nhưng mà niệm này niệm kia cứ liên tục, cho nên chưa có dừng, chưa có hết.

Như vậy thì chúng ta tuy được một cái phúc duyên lớn, thức tỉnh giác ngộ. Nhưng mà thức tỉnh, giác ngộ rồi, chưa phải là chúng ta hết tất cả những cái thói quen, những cái tật xấu của muôn đời còn để lại. Cho nên chúng ta phải nỗ lực, phải tu hành, chừng nào những thói quen, những tật xấu đó hết, chừng đó chúng ta mới yên lòng mà ngồi chơi ở dưới cội cây. Hay là nói theo những thuở xưa là ngồi thổi sáo trên lưng trâu chẳng hạn. Mình bao giờ được như vậy thì chừng đó mới yên ổn, mói làm mọi Phật sự không có trở ngại. Đó là lời kệ mà chư Tổ hồi xưa đã kinh nghiệm dạy chúng ta phải nhớ, không có nên quên.

Nhưng bây giờ trong khi muốn làm sạch tập khí đó, phải làm sao đây? Đó là một câu hỏi. Muốn sạch tập khí đó phải làm sao cho nó sạch. Ơí đây chúng ta dẫn lời của Tổ Lâm Tế dạy. Tổ Lâm Tế dạy làm sao? "Tùy duyên tiêu cựu nghiệp", rồi gì nữa? "Nhậm  vận trước y xiêm". Đó là chúng ta tu để lặn hết những cái thói quen, tập khí cũ.

            Tùy duyên tiêu cựu nghiệp,

            Nhậm vận trước y xiêm.

Đó là việc làm Phật làm Tổ mà Ngài nói với ông Thường Thị đó, phải không? Chúng ta ở đây dạy làm Phật làm Tổ bằng cách là "Tùy duyên tiêu cựu nghiệp". Tùy duyên tiêu cựu nghiệp là làm sao? Nói thì dễ, thuộc lòng cũng dễ mà hỏi làm sao thì không biết.

"Tùy duyên tiêu cựu nghiệp". Chữ duyên đây là chỉ cho mọi sự việc xảy đến với mình. Mọi sự việc xảy đến với mình, tốt xấu, hay dở, phải quấy mọi cái đó nó đến với mình. Mà đến với mình đó, tỷ dụ như cái xấu đến với mình, mình phải làm sao? Làm sao gọi là tùy duyên? Xấu đến với mình, rồi cái tốt đến với mình, mình phải làm sao là tùy duyên. Như vậy tốt đến thì nhận đó là tốt. Xấu đến thì nhận đó là xấu. mà không có cái niệm mừng được cái tốt. Giận bị cái xấu. Thì đó  là biết tùy duyên. Cái gì nó đến thì cứ đến, rồi qua.

Còn mình bây giờ thì sao? Tốt đến thì vui, xấu đến thì buồn, phải không? Bởi vậy cho nên chưa phải là tùy duyên. Tùy duyên thì không có dính, không có mắc.

Giống như các vị chư Thiên mà rải hoa tở trong hội của Ngài Duy Ma Cật đó. Nắm hoa chư Thiên rải hoa trúng các vị A La Hán nó dính. Qua các vị Bồ tát rớt tuốt. Rớt tuốt đó là tùy duyên đó. Còn dính là còn kẹt, còn chấp. Chấp là không phải tùy duyên. Như vậy tùy duyên này nó quá rộng, mà nó quá hay. Sống tùy duyên là tốt đến, xấu đến, hay đến, dở đến, phải đến, quấy đến, cái gì đến, đến thì cứ đến nhưng mà không dính một cái gì hết. Đó là cuộc sống tùy duyên.

Quí vị kiểm lại mình coi có tùy duyên được chưa? Chừng nào mà tất cả cái đó đến tự tại, không có một chút gì vướng bận, không có một chút gì nhiễm ô, thì đó mới thực là tùy duyên. Mà tùy như vậy, lâu ngày cái nghiệp cũ lần lần nó hết. Mà nghiệp cũ hết đó là do mình khéo tùy duyên. Bởi vì cái nghiệp cũ mình đâu phải mình có mặt mới đời này, mà tới vô số kiếp rồi, thì bao nhiêu thứ: nào thương nào ghét nào đủ thứ nó còn. Nó còn ở nơi người này, người kia với mình liên hệ. Cho nên khi mình sống thì gặp cái duyên tốt là cái nghiệp cũ tốt của mình còn, cho nên họ xử tốt với mình. Gặp cái duyên xấu là cái nghiệp cũ xấu của mình thuở trước còn, cho nên mình bị người ta xử xấu. Thì tất cả cái tốt xấu đó nó đến mà không dính cái gì hết thì còn gì mà trả vay, phải không? Không còn trả, không còn vay, như vậy mới là tiêu được nghiệp cũ. Chớ còn nếu còn trả còn vay thì hết tiêu. Nó tăng chớ nó không có tiêu.

Đó, cái ý tùy duyên nó là như vậy. Nên nghe một câu nói nó nhẹ lắm, đơn giản lắm, dễ thuộc lắm. Mà sống được như câu đó hết sức là cay. Nó phải là công phu, phải là nhiều thời gian làm mới được. Đó là nói cái để tiêu nghiệp cũ.

Bây giờ cái hiện tại là gì? "Nhậm vận trước y xiêm". Còn hiện tại đối với cuộc sống bây giờ thì chữ "Nhậm vận" tôi dịch làm sao quí vị nhớ không? Nhậm vận tức là hồn nhiên. Nghĩa là mình mặc áo, ăn cơm, làm tất cả công tác một cách hồn nhiên. Không có cái niệm tham, sân, si gì chen vô hết. Nghĩa là sống trong hiện tại thì hồn nhiên, không có thêm một cái gì để tạo thành nghiệp mới. Rồi hồn nhiên cho nên tâm mình không có một cái ý, tham, cái ý sân, ý phiền hà, ý thích thú gì hết. Nó thản nhiên tự tại đối với cuộc sống ngay bây giờ. Ăn cơm, mặc áo nó như vậy hết. Đó là chỉ cho mình sống hiện tại, không gây thêm nghiệp để cho vị lai.

Vậy thì nghiệp cũ là do mình biết tùy duyên cho nên nó hết. Nghiệp mới thì mình hồn nhiên không gây. Như vậy tức là hết nghiệp. Cũ trả mà mới không vay thì hết nợ không? Thì đó là hết nợ. Chỉ có hai câu đó thôi, tôi nghiệm, tôi thấy quá hay. Như vậy thì cái này có tu không? Mình thìnói tu là phải công phu thế này, công phu thế kia. Ngài thì "Tùy duyên tiêu cựu nghiệp", nghe thảnh thơi quá.

"Nhậm vận trước y xiêm" nghĩa là hồn nhiên mặc áo, ăn cơm, tự tại vậy đó. Như vậy, nhưng mà tự tại trong cái không tạo nghiệp mới. Hồn nhiên trong cái không tạo nghiệp mới. Tùy duyên để trả nghiệp cũ. Nhớ cái đó. Nghiệp cũ trã hết là nợ trước xong. Nghiệp mới không vay, thì nợ sau không có. Không tự tại giải thoát là gì? Quí vị thấy bao nhiêu đó là cả một vấn đề tu hành rất là quan trọng. Như vậy cái phần này quí vị thấy rõ rồi đó.

Rồi bây giờ tới cái phần b. Tôi gọi là hai chặng đường. Trên là tôi nói ba chặng phải không? Ba chặng, chặng thứ nhất là gì?

Chặng thứ nhất là tu Quán sổ tức, tùy tức và biết vọng. Cái đó mới là biết thôi. Qua chặng thứ hai là lóng lặng vọng tưởng, nhận ra bản lai diện mục. Đó rồi đến chặng thứ ba này là dứt tập khí muôn đời.

Đó là ba cái chặng lớn. Những chi tiết nhỏ tôi đã nói rồi. như vậy thì ba chặng đó tôi gọi là tiệm tu đốn ngộ. Tiệm tu nghĩa là mình y theo lời Phật dạy mà tu từ từ. Từ từ rồi tới cuối cùng mình ngộ được cái bản lai diện mục. Rồi sau mình dứt sạch tập khí.

Đó là đi thứ tự từ thấp lên cao, cho nên gọi là tiệm tu mà đốn ngộ. Thì cái đó phù hợp với trong kinh. Khi nãy tôi đã kể giáo lý hạnh quả đó. từ mình học giáo lý của Phật rôì ứng dung tu hành. Từ ứng dụng tu hành rồi đạt kết quả. Mà đạt được kết quả của người tu là cái quả gì? là cái quả ngộ được, nhập được cái bản lai diện mục. Hay là cái vô sư trí. Cái vô sư trí mình nhập được, vô sư trí đó là kết quả. Cho nên tu thành Phật là ngộ được vô sư trí của mình hay giác ngộ được cái không sinh không diệt chính của mình, con người thực của mình.

Bởi vậy cho nên đức Phật, quí vị nhớ Ngài rất là bình thường. Ngài tu Ngài thành Phật thì Ngài cũng sống như tất cả mọi người cũng ăn cũng mặc v.v... Nhưng mà cái mê của mọi người là chạy theo vọng tưởng tạo nghiệp luân hồi. Ngài giác, Ngài không tạo nghiệp. Ngài trở về cái tánh giác viên mãn của Ngài. Sống an trú trong đó.

Ngài được giác ngộ viên mãn, tự tại giải thoát. như vậy đường mê, đường giác đó là cái chỗ chủ yếu của đạo Phật. Chớ không phải thần thông, không phải phép lạ, phải không? Thần thông phép lạ không phải là trọng tâm của đạo Phật. Trọng tâm của đạo Phật là biết rõ cái hư dối, tạm bợ để mình đừng bị nó lôi dẫn tiếp tục trong cái hư dối. Đó là thoát ly sinh tử. Rồi nhận ra được cái thể bất sanh, bất diệt là cái giải thoát. như vậy đó là cái trọng tâm của Phật dạy.

Cho nên trong kinh nói rằng “Khai thị ngộ nhập”, tức là chỉ cho chúng ta thấy được nơi chúng ta có cái thật. Ngộ được cái đó rồi chúng ta ứng dụng để thể nhập cái đó. mà thể nhập cái đó gọi là giác ngộ. Cho nên mình học Phật mình mới thấy rằng, trọng tâm của đạo Phật là đi từ cái mê sang cái giác. Mà giác được viên mãn là thành Phật. Còn giác từng phần là Bồ tát hay La Hán. Cho nên tôi khuyến khích quí vị phải ứng dụng tu từ cái đếm hơi thở, rồi theo hơi thở. Những cái đó rất là tầm thường nhưng để mình giác ngộ rằng, cái thân này chỉ là tạm bợ, sống trong cái hơi thở ra vào thôi. Không có bền, không có lâu, không có thực. Đó là mình giác ngộ. Rồi biết được bao nhiêu thứ tâm vọng tưởng của mình, đều là cái tướng hư dối không thật, không để cho nó lôi dẫn. Đó là giác ngộ mà giác ngộ đó là giác ngộ thân, giác ngộ tâm đó là từng phần. Vì vậy mà gọi nó là tiệm tu. Nó đi từng bước từng bước. Giác cái này rồi giác cái kia cho tới sao được viên mãn. Còn nếu đi xa hơn nữa thì tới giác ngộ hoàn toàn, tức là sạch hết tập khí được viên mãn giác ngộ, thì đó là cái chỗ chân thật cứu cánh.

Như vậy đối với người tu đến đó mới gọi là xong bổn phận của mình. Chớ chưa đến đó là chưa xong.  Quí vị nghe đoạn này thì thấy rõ ý nghĩa thâm trầm của sự tu.

Để tiếp với bài giảng kỳ trước trong phần ba, là đường lối tu. Tôi đã có chia ra ba chặng đường. Ba chặng đường đó là phần trước nói về tiệm tu đốn ngộ. Bây giờ tới phần thứ hai là hai chặng đường là đốn ngộ tiệm tu. Bởi vì người tu có khi vào đạo với tâm tư chưa có dính mắc gì đạo lý hết hay chưa thấm nhuần vì đạo lý. nhờ tu từ từ, học từ từ rồi mới hiểu. Như vậy từ cái tu học từ từ tiến lên, đó gọi là tiệm tu. Rồi từ tiến lên đó được chứng ngộ, thì gọi đó là đốn ngộ. Còn có những người do túc duyên nhiều đời, chỉ cần gặp một duyên lành, duyên tốt bỗng dưng được ngộ đạo.

Như trường hợp của Lục Tổ Huệ Năng. Chỉ nghe nói một câu hay là nghe một bài kinh người ta tụng, tới cái câu mà nó thích hợp với sở nguyện tâm tư của Ngài, nghe tới đó Ngài ngộ.

Như bây giờ mình nghe thiên hạ tụng Kim Cang chừng bao nhiêu lần? Có ai ngộ không? Còn Ngài mới nghe tụng Kinh Kim Cang, Ngài liền tỉnh ngộ đi tu. Như vậy đó là do túc duyên đời trước nó đã sẵn đủ. Bởi vậy nghe một câu liền ngộ.

Hoặc giả có những trường hợp khác như Ngài Tổ Huệ Khả. Chỉ nghe Tổ Bồ Đề Đạt Ma bảo:

- Đem tâm ra ta an cho.

Ngài sửng sốt một chút. Ngài nói:

- Tìm tâm không thể được.

Bỗng dưng Tổ nói:

- Ta an tâm cho ngươi rồi.

Ngay đó Ngài biết đường vào. Chỉ một buổi đối đáp hay là đôi ba câu đối đáp liền được ngộ đạo, thì những vị đó đều là cái túc duyên nhiều đời, chớ không phải bỗng dưng mà được. Chúng ta đến với đạo, mỗi người có cái duyên khác nhau. Người thì sâu dầy, cho nên đến với đạo học ít biết nhiều. Trong nhà Thiền gọi là “Nhất văn thiên ngộ” đó. Một phen nghe là cả ngàn lần ngộ hay cả ngàn đều ngộ. Còn có người học hoài mà không thuộc, không hiểu. Đi nghe giảng kinh thì gục lên, gục xuống, không thấm vào đâu hết. Thì đó là cái túc duyên làm sao? Người ta nghe giảng kinh liền thấm, hiểu, vui lên. Còn có người nghe giảng kinh ngồi một hồi gục lên, gục xuống. Hết giờ đi ra, không biết gì hết. Thì đó là túc duyên sâu hay cạn? Sâu đó chớ. Sâu là túc duyên si mê. Túc duyên si mê sâu cho nên bây giờ nghe không thấm nỗi. Còn cái người túc duyên đạo lý sâu đó, người ta nghe cái người ta tỉnh, sáng lên. Bởi vậy người giảng nhìn xuống chúng, biết ai duyên sâu duyên cạn.

Một câu người ta rất là khó hiểu, nhưng người đó nghe cái hiểu được, rồi thấy vui lên. Còn có người giảng hoài mà nhìn thấy lúc nào cũng thấy cúi đầu gục không đó thì thôi biết rồi. những người đó chỉ tu chớ còn chưa thể nào thấm nhuần đạo lý được. Đó là để nói cái túc duyên. Chữ túc là đời trước. Duyên là duyên của đời trước. Nghĩa là ai đã có cái duyên lành sâu dầy đời trước, đời này hoặc là nghe một câu kinh, hoặc là nghe một lời giảng, hoặc là một câu hỏi, mình liền tỉnh ngộ. Biết được nơi mình có cái chân thật bất sanh bất diệt (từ chuyên môn gọi là Bản lai diện mục). Nhận chân được điều đó.

Như vậy với hạng người này trong ba phần ở trên, là từ cái tu đếm hơi thở hay theo hơi thở, rồi tới biết vọng, là cái chặng số một đó. Người này họ không mắt kẹt chặng đó. họ đi thẳng vào ngay cái biết mình có cái chân thật. Họ biết mình có cái chân thật rồi làm gì? Đã biết mình có cái chân thật rồi làm gì? Đã biết mình có cái thật, thì mọi cái giả mình không theo phải không? Không theo cái giả, đó là sống được với cái thật. Như vậy lối sống của hạng người này, thì ngay khi họ ngộ rồi, thì từ đó về sau, đối với tất cả cái duyên sinh diệt, giả dối, các Ngài không có dính, không có kẹt. Cứ luôn luôn đi đứng, nằm ngồi, đều sống trở về. Nói một cách trở về đó là nói gượng, chớ sống ngay cái thể chân thật, không có kẹt, không có dính.

Như vậy chúng ta mới thấy cái câu của Ngài Trần Nhân Tông, Ngài nói ở câu cuối bài “Cư Trần Lạc Đạo” đó. Nghĩa là nói làm sao? “Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền”. Như vậy ngộ được cái chân thật của mình rồi thì đối với tất cả cảnh bên ngoài mình đều không bị đuổi theo, không bị dính mắc. Thì gọi đó là vô tâm. Như vậy đó là Thiền. Thiền của những vị này nó không có hạn cuộc ở trong cái phương pháp, ở trong cái thế ngồi v.v... mà luôn luôn đi, đứng, nằm, ngồi, đối duyên xúc cảnh đều không bị dính, không có mắc kẹt. Đó là cái chủ yếu của tu. Đốn ngộ tiệm tu đó. Đó là phần thứ nhất do túc duyên.

Phần thứ hai là từ từ tất cả cái tập khí nó được lóng sạch, lắng sạch hết. Những tập khí thuở trước, muôn đời nó còn lại đó, từ từ sẽ lắng sạch. Muốn lắng sạch, có khi các Ngài cũng chịu khó một chút. Thí dụ: Khi đối duyên xúc cảnh thì không dính, nhưng mà khi ngồi thiền thì sao? Ngồi thiền thì đâu có duyên đâu có cảnh. Cho nên khi ngồi thiền thì thấy rõ vọng tưởng không có theo.

Mấy điểm: thứ nhất là không chạy theo. Thứ hai là không chối bỏ nó. Chạy theo nó tức là bị nó lôi cuốn. Chối bỏ nó tức là thấy nó là một cái gì thật. Cho nên không có hai cái tâm trạng đuổi theo và chối bỏ. Thấy nó thì thấy nó, cười chơi thôi. Rồi tự nó buồn nó lặng xuống. Chớ không phải như mình, phải ruồng, phải đuổi, phải la lối om sòm vậy. Vì các Ngài đã thấy rõ tất cả cái đó là cái chân thật rồi.

Cũng như bây giờ chúng ta nhìn lên trên hư không, đêm rằm thì có mặt trăng sáng ngời. Trên hư không bỗng lát có đợt mây bay qua. Lúc đó mình làm gì với đợt mây? Mình mới làm sao? Nghĩa là mình không có thể muốn dẹp đợt mây, mà mình cũng không có thể chạy theo đợt mây, phải không? Bởi vì mình nhìn thấy mặt trăng sáng ngời ở trên, mà mình muốn thấy mặt trăng thì mây bay qua thì cứ lặng lẽ để nó bay qua, không đuổi theo nó. Nếu đuổi theo mây thì còn nhớ mặt trăng không. Nhất định là quên mặt trăng. Còn nếu mà từ chối muốn dẹp bỏ mây, thì dẹp được không? Chỉ là cái rối loạn. Bởi vậy trường hợp các vị này tu khi đã thấy được mặt trăng rồi thì mây nó bay qua, để thản nhiên nó qua. Một đợt mây này, đợt mây thứ hai, thứ ba qua. Bởi vì mình đã thấy mặt trăng rồi thì cứ cho nó qua. Khi nó qua hết, thì mặt trăng được sáng tỏ, chớ không cần phải tìm cũng không cần chạy đuổi cái gì hết. Đó là cái trọng tâm tu của những vị mà đốn ngộ tiệm tu là như vậy. Phải tu là do tập khí muôn đời nó còn, nó sót lại mà nếu mình không có công phu lâu dài thì làm sao nó hết. Bởi vậy cho nên chúng ta không ngạc nhiên khi thấy các Tổ thuở xưa, sau khi ngộ đạo rồi mà lên núi ẩn tu mấy mươi năm. Đó là một lẽ cụ thể. Nếu ngộ mà nó sạch hết đó tất cả tập khí, thì khỏi cần tu. Nhưng ngộ rồi mà tập khí vẫn còn, cho nên các Ngài phải ở ẩn đâu đó để nhìn, để thấy nó. Đừng cho nó lôi cuốn, rồi từ từ nó lặn, từ từ nó sạch. Nghĩa là mình giữ không cho mắc kẹt ở hai thái độ. Một là đuổi theo, hai là cố dẹp bỏ. Đuổi theo, dẹp bỏ đều là hai cái bệnh đối với những hạng này. Mà những hạng này chỉ là thấy tường tận cái chân thật của mình, lâu lâu bị những cái hư dối nó phủ qua. Thấy nó rồi nó tan mất, chớ không có cần phải cố gắng dẹp bỏ gì hết. Đó, cho nên gọi là các Ngài được tự tại, các Ngài không dính mắc ở hai bên. Còn mình bây giờ tu, mình dính bên này mình kẹt bên kia. Là vì mình chưa có tự tại. Hiểu như vậy thì trên đường tu sẽ không có gì trở ngại.

Đó là tôi nói gọn về hai chặng đường: Chặng thứ nhất là do túc duyên nhận ra được cái bản lai diện mục của mình. Chặng thứ hai là lắng sạch tập khí muôn đời bằng cách biết có cái thật rồi thì mọi cái vọng tưởng hư ảo để cho nó qua một cách tự nhiên, không đuổi theo, không cố gắng dẹp bỏ gì hết. Đó là chặng thứ hai.

Còn nếu mình bây giờ mới vô tập tu mà thấy vọng tưởng để thản nhiên thì sao? Thì nó kéo chạy hoài mà không biết chạy tới đâu nữa. Bởi vì mình chưa biết mình có cái thật, cho nên rồi cứ thấy vọng tưởng là một cái tâm niệm thật của mình. Do đó cho nên mình dính, mình kẹt theo nó. Nếu không có rầy không có trách đó thì nó kéo mình chạy luôn luôn.

Tôi nói thí dụ, khi mình đang ngồi, cái nhớ hồi chiều huynh đó huỷnh nói cái câu đó nặng quá. Nói câu đó nặng với mình. Nhớ câu đó nặng thì lúc đó nếu cứ để tự nhiên thì sao. Nói nặng như vậy bây giờ phải xử sao, phải đáp lại sao cho vừa. Rồi hồi dẫn mình rầy lộn. Rầy lộn trong lúc ngồi thiền phải không? Vì vậy cho nên chưa có thấy được chân thật thì khi mà nó vừa có cái niệm đó liền quở trách. Điên đảo, đừng có theo. Làm như vậy để cho nó dừng lại. Dừng lại thì đổi mặt đổi mày. Rồi cái khác nó nhảy lên nữa. Nhưng mà nó đỡ, nó không dẫn mình đi tới trong cuộc hơn thua bởi những ý niệm mình nhớ chuyện đã qua. Như vậy tuy rằng một buổi ngồi thiền cứ rầy hoài, thấy như nó không có lợi ích nhưng mà thực tình mình đang có cái thế làm chủ.

]

 

THIỀN TÔNG VIỆT NAM