ỨNG DỤNG SỰ TU HÀNH VÀO CUỘC SỐNG HIỆN TẠI NHƯ THẾ NÀO?
Bây giờ tới
phần thứ tư của bài này. Tức là ứng dụng tu Thiền vào cuộc sống hàng ngày.
Như vậy chúng ta đã biết tu trong khi ngồi thiền. Bây giờ chúng ta phải
biết tu trong khi sinh hoạt ở bên ngoài. Bởi vì thời gian ngồi thiền của
chúng ta rất là giới hạn. Ngồi giỏi lắm thì được 2 tiếng. Rồi ngày đêm
rảnh rang lắm ngồi ba thời thì được 6 tiếng (mà ngày đêm tới 24 tiếng lận.
Mà mình có 6 tiếng) thì mình tu được bao nhiêu. Mình tu được có 1/4 phải
không? 1/4 ngày đêm thôi. 24 tiếng bỏ ra 6 tiếng ngủ nghỉ, thì còn hai
mươi mấy tiếng? Còn 18 tiếng phải không? Còn 18 tiếng. Rồi trong 18 tiếng
đó mình được 6 tiếng ngồi thiền, thì còn bao nhiêu? Còn dư 12 tiếng. 12
tiếng đó để làm gì? Nghĩa là mình ngồi thiền ròng rặc có 6 tiếng. Còn hết
6 tiếng ngủ rồi, 6 tiếng như chết có biết gì nữa (có tu hành gì), thì 6
tiếng đó không tu, rồi 6 tiếng tu. Còn 12 tiếng làm lắc xắc công kia việc
nọ để mà có trong cuộc sống. Thì 12 tiếng này nếu mình không khéo tu nửa,
để cho nó chạy theo duyên trần, thì 12 tiếng loạn. Rồi kéo lại 6 tiếng
tịnh. 12 tiếng động, sáu tiếng tịnh. Thì không được phân nửa nửa. Nó chưa
bù được phân nửa. Huống nửa là thắng phải không? Như vậy kiểm tra lại mỗi
ngày chúng ta thiệt thòi nhiều. Tuy nói tu 5 năm, 10 năm, 20 năm mà sự
thực cái tu ít hơn là cái loạn, phải không (cái dính, cái nhiễm)?
Do đó chư Phật
chư Tổ không phải dạy chúng ta chỉ ngồi thiền mới tu mà còn phải tu trong
4 oai nghi: Đi, đứng, nằm, ngồi. Ngồi chỉ là 1/4 trong ba cái đi, đứng,
nằm. Làm sao trong ba oai nghi: Đi, đứng, nằm chúng ta vẫn tu. Hay là đi,
đứng lao động, chúng ta đều là tu. Thì như vậy cái tu nó mới được sung túc
hơn, đầy đủ hơn. Chớ nếu chỉ có giờ ngồi thiền cho là đủ đó, thì không
phải là người khéo tu.
Bởi vậy cho
nên tới phần này là chúng ta đã ứng dụng trong cái thời gian sinh hoạt bên
ngoài để cho sức tu của chúng ta càng ngày càng thuần thục. Nhờ nó thuần
thục chúng ta mới thắng được tất cả những tâm điên đảo của chúng ta. Vì
vậy mà ở đây phải tu trong mọi hoạt động. Như vậy trong mọi hoạt động, tu
bằng cách nào? Đây tôi ôn lại, tu với tư cách của người mới và tu với tư
cách của những người đã thâm nhập sâu xa.
Trước nói về
tu của những người mới. Như đoạn trước nói rằng chúng ta đếm hơi thở, theo
hơi thở, thì khi đi cuốc đất, đi gánh nước, đi tưới cây, lúc đó chúng ta
theo hơi thở, chúng ta đếm hơi thở, được không, được không? Chắc không
được rồi. nói được là thiếu thực tế. Mệt quá thở ồ ồ, ở đó mà đếm. Ơí đó
mà theo. Chỉ lo thở chớ không lo đếm, lo theo gì hết. Bởi vậy cho nên nếu
lúc đó chúng ta chỉ biết tu bằng cách theo hơi thở hay đếm hơi thở thì
không thể tu được. Mà cuộc sống của chúng ta đòi hỏi chúng ta phải có lao
động mới có được miếng ăn. Như vậy cái lao động đó nó không thể thiếu đối
với chúng ta. Như vậy trong khi lao động mà tu không được thì ngày nào
cũng lao động 7, 8 tiếng đồng hồ, thì làm sao mà tu, phải không? Như vậy
chúng ta sẽ bị thiệt thòi lớn. Thí dụ ở chùa chúng ta lao động 1 buổi 3
tiếng. Nhưng người ở ngoài lao động đúng giờ của lao động thì phải 8
tiếng. Nhưng người ở ngoài lao động đúng giờ của lao động thì phải 8
tiếng. Như vậy 8 tiếng đó như là không tu rồi. Như vậy thì chặng đầu của
người tu lúc mới sơ cơ, theo hơi thở hay là đếm hơi thở. Bây giờ khi ra
lao động thì phải tu làm sao? Ai biết tu cách làm sao? Nếu không biết dạy
tu thì tội nghiệp cho mấy người phật tử phải không? Bây giờ thưa thầy tôi
đi lao động, bây giờ đếm hơi thở không nổi (quí vị nhớ, theo hơi thở hay
đếm hơi thở, đi bước từ từ, từ từ, rồi thở ra hít vô mình đếm mới được,
hít theo mới được. Còn nếu đi cho nhanh, hoạt động cho mạnh thì không tài
nào đếm được, theo được. Cái đó là một lẽ thực không chối cãi.
Bây giờ chúng
ta phải tu làm sao đây? Hôm nào đó tôi đã nói rõ cho quí vị thấy, cái
chặng đầu ta đếm hơi thở và theo hơi thở, nhân đó ta quán hơi thở làm sao?
Hơi thở là mạng sống của con người. Nó là mạng sống của con người mà chúng
ta hít vô thở ra, hít vô thở ra thì gọi là còn sống. Chúng ta thở ra không
hít vô thì gọi là tử vong, phải không (chết mất)? Như vậy cái cuộc sống
này là nương hơi thở. Mà hơi thở thì thở ra không hít vào là chết. Hơi thở
nó rất là ngắn ngủi. Rất là tạm thời. Mà hơi thở đã ngắn, đã tạm thời thì
cái mạng sống làm sao? Nó cũng rất là ngắn, rất là tạm. Như vậy trong khi
chúng ta lao động, làm công tác mà chúng ta nhớ mạng mình sống trong hơi
thở, phải không? Mạng mình sống trong hơi thở, cứ nhớ như vậy đó. Nhớ như
vậy có tu không? Mình đang nhớ mạng mình sống trong hơi thở mà lỡ huynh đệ
nào ở chúng quanh đó, họ có cái gì bực bội, họ kêu tên mình họ chửi. Lúc
đó mình nên cười hay nên giận? Mạng sống trong hơi thở mà hơn thua làm
chi. Thôi bỏ qua.
Như vậy nhờ
quán được cái vô thường của mạng sống. Mạng sống nó gá vào hơi thở. Mà hơi
thở, thở ra không hít vào là chết. Như vậy thì cái mạng sống nó tạm bợ
không có lâu dài, không có bền chắc thì hơn thua làm gì. Do đó mà chúng ta
dễ tu. Quán như vậy là dứt được lòng tham. Quán như vậy thì dẹp được cơn
sân nổi lên. Như vậy hằng quán mạng sống trong hơi thở, quán tới quán lui,
đi đâu cũng nhớ chừng nấy. Như vậy vừa gánh nước vừa nhớ mạng sống trong
hơi thở được không. Được không? Được chớ có gì đâu phải không? Đó, giả sử
vừa cuốc đất vừa nhớ mạng sống trong hơi thở. Cuốc thì cuốc mà nhớ thì
nhớ, đâu có hại gì. Như vậy lúc đó chúng ta vẫn tu một cách dễ dàng.
Nói như vậy
thì quí vị thấy lúc chúng ta nhớ mạng sống trong hơi thở, là lúc chúng ta
tỉnh hay là mê? Đó bây giờ tôi ví dụ cho con mắt của mình. Con mắt mình nó
bệnh đó, thì ở trước nó có màu vàng mà mình thấy nó ra màu tím, màu xanh
hoặc màu đen, màu hồng, màu tía gì đó. Nghĩa là cái như thật ở trước, màu
nó như vậy mà mình thấy khác đi, thì gọi là con mắt gì? Con mắt bệnh, con
mắt lòa phải không? Còn nếu mình thấy trắng ra trắng, đen ra đen, hồng ra
hồng, tía ra tía. Thấy rõ ràng như vậy, là con mắt sáng, không bệnh.
Cũng như vậy,
mình cứ ôm ấp tưởng tượng mạng mình sống trong 10 năm, 20 năm, 80 năm gì
đó. mình cứ tưởng tượng như vậy. Mà sự thật nó không phải đúng như mình
tưởng. Mình tưởng một đàng mà lẽ thật nó đến một ngã. Thì cái đó là mê hay
là tỉnh? Đó là mê. Còn bây giờ rõ ràng mình thấy mạng sống trong hơi thở.
Đó là một chân lý, một lẽ thật, mà mình nhớ cái lẽ thật đó thì mình tỉnh
hay mê? Vậy thì minh đang giác phải không? Như vậy thì rõ ràng trong khi
mình lao động mà mình vẫn giác, chớ mình không có mê. Còn nếu trong khi đó
mình nhớ chuyện kia, chuyện nọ, chuyện năm trên, năm dưới, đó là mình mê.
Còn mình thấy rõ cuộc sống này, hơi thở là mạng sống, mà thở ra không hít
vào là chết. Như vậy sự chết chỉ ngắn ngủi như là trong khoảng hơi thở.
Thở ra không hít vào là chết.
Như vậy thì
chúng ta thấy lẽ thật. Bởi thấy được lẽ thật cho nên chúng ta đang tỉnh.
Bởi tỉnh cho nên gặp cảnh đáng tham chúng ta không tham. Bởi tỉnh cho nên
gặp cái đáng si, đáng mê mà ta không mê, đáng sân mà ta không sân. Chớ còn
mình quên như vậy thì dễ sân dễ si lắm.
Nhưng mà than
ôi! Bây giờ người ta đi làm thì cứ nhớ chuyện năm trên năm dưới hà. Chớ
không chịu nhớ gìum mạng sống trong hơi thở. Ở đây quí vị có nhớ giùm tôi
điều đó không? Nhớ không? Đi làm cái đó mà nghĩ năm ngoái năm kia mình ở
đâu, gặp ai, mình nói chuyện gì. Rồi nhớ chuyện ai cho bánh cho trái gì.
Nhớ đâu đâu không hà! Như vậy vừa làm vừa nhớ, chớ đâu phải không nhớ. Mà
nhớ cái chuyện tào lao vậy đó. Bây giờ bắt nó phải nhớ được cái thực tế,
là nhớ hơi thở phải không? Hơi thở, mà hơi thở là cái mạng sống. Hơi thở,
thở ra không hít vào là chết. Như vậy nhớ rõ ràng mạng sống trong hơi thở.
Nhớ tới nhớ lui đến chuyện đó. Nhớ như vậy thì đơn giản hơn biết mấy, phải
không?. Rất là đơn giản. Đơn giản cho nên làm mệt bao nhiêu vẫn nhớ được.
Đó nhớ không có phải quên. Chớ còn quí vị mà nhớ cái khác thì nó bị trở
ngại.
Như vậy trong
khi lao động, trong khi làm việc kia, việc nọ, chúng ta cũng vẫn nhớ mạng
sống trong hơi thở. Nhớ như vậy đó là chúng ta đang tỉnh, đang giác, chớ
không có mê. Quí vị đừng có tìm cái giác ở đâu xa. Tưởng rằng mình giác là
mình thấy cái gì nó lạ lùng, nó khác hơn cái bình thường. Nhưng thật ra
không phải. Cái giác là thấy đúng lẽ thật. Mà lẽ thật nhất là lẽ thật ở
con người, phải không? Cái mạng sống là tối quan trọng mà mình tìm được lẽ
thật của mạng sống thì đó là một bước tiến hết sức là cao, hết sức là xa
rồi. Thấy rõ như vậy.
Như bữa hổm
tôi nói, nếu tôi nói tới đây mà quí vị thấy, luôn luôn nhớ rằng mạng sống
trong hơi thở, thì có một số người sẽ chê trách rằng, cái quan niệm đó là
quan niệm bi quan, yếm thế, phải vậy không? Bị nhớ mạng sống trong hơi thở
rồi đâu có hăng hái làm cái gì, đâu có hăng hái mà sắp đặt chuyện 5 năm,
10 năm phải không? Cái đó là cái hiểu lầm. Lầm rất là lớn. Nói mạng sống
trong hơi thở không có nghĩa là chúng ta trong cái tích tắc đồng hồ, thở
ra không hít vô là chết, không nghĩa là chúng ta chết liền. Mạng sống
trong hơi thở, mà hơi thở cứ thở ra hít vô hoài, không chịu ngưng thì nó
cũng có thể 7, 80 năm, phải không? Chứ chừng nào nó ngưng thì mới chết,
còn nó không chịu ngưng thì đâu phải nói chỉ trong một tích tắc đồng hồ là
chết liền. Bởi vậy cho nên nói nó là ngắn, mà nó không phải cố định ngắn,
mà cũng không phải cố định dài, phải không? Nghĩa là nếu nó cứ thở hoài
thì nó sống hoài. Chừng nào nó tắt thở thì nó chết. Như vâỵ thì thấy được
lẽ thực mà không phải bi quan.
Bây giờ chúng
ta tưởng rằng mình tới 70 năm chết, mà lỡ 50 năm chết thì sao? Thì đâu có
thấy được lẽ thật. Còn nếu mình nói mình 30 năm mình chết, mà bây giờ mình
sống tới 60 năm thì sao? Thành ra cái đó nó không có lẽ thực. Do cái
tưởng tượng của con người đặt ra cho mình. Còn cái biết mạng sống trong
hơi thở là biết lẽ thật. Tôi còn thở là tôi còn sống, phải không? Chừng
nào tôi hết thở thì tôi chết. Đó là lẽ thực. Không nói dài, cũng không nói
ngắn. Nói ngắn nhiều khi nó cứ thở hoài, ngắn đâu được. Có nhiều người
muốn chết mà nó cứ thở hoài, chết không được. Thì như vậy làm sao? Như vậy
thì lẽ thực của nó là chừng nào hết thở là chết, chớ không thể muốn mà
được. Mà không muốn cũng không được. Như vậy chúng ta phải thấy bằng lẽ
thực, đừng bị những cái tưởng tượng nó gạt gẫm chúng ta, mà thấy bằng lẽ
thực là chúng ta hằng tỉnh, hằng giác.
Như vậy những
vị sống tới 8, 90 năm đó là tại vì họ thở hoài. Họ không ngưng thì họ phải
sống. Bây giờ chúng ta cũng có quyền thở hoài vậy. Nghĩa là chỉ chừng nào
mệt, nó không chịu thở nữa thì chúng ta chết. Chớ không phải nói như vậy
rồi ép buộc ai cũng phải chết liền. Như vậy làm sao nói là bi quan được.
Đó là một cái lý do tôi nói cho quí vị hiểu.
Còn một lý do
thứ hai nữa, Phật dạy chúng ta quán, mạng sống trong hơi thở để thấy rằng
mạng sống của con người là không có gì bảo đảm hết. Quí vị nghĩ có bảo đảm
không? có cái gì để đặt định rằng chúng ta phải sống đúng với chừng đó,
đúng với cái tuổi đó mới chết, có không? Nó không có mà đã không có bảo
đảm thì chúng ta phải nhớ rằng ngày nay còn sống thì ngày mai chưa biết ra
sao. Cho nên chúng ta ngày nào sống, giờ nào sống, là ngày đó, giờ đó
chúng ta phải làm tất cả những gì lợi cho mình, lợi cho người. Chớ không
có nên bỏ qua. Như vậy chúng ta quán cái mạng sống trong hơi thở khiến cho
chúng ta quí tiếc thời gian. Thời gian chúng ta còn có mặt, chúng ta đang
sống phải làm cái gì lợi mình lợi người, như vậy mới đáng sống, chớ còn
cái chết nó đến bất cứ lúc nào, không thể chần chờ.
Có nhiều người
hẹn “Để tôi sắp đặt việc nhà 10 năm nữa rồi tôi tu”. Nói như vậy rồi từ
khi sắp đặt cho tới 10 năm, biết đâu lúc nào đó, thở khì ra không hít vô
thì sao. Thì còn đủ 10 năm không? Nó không thể. Không có gì bảo đảm hết.
Cho nên bây giờ mình biết, ngày nay mình đang khỏe, ngày nay mình đang
mạnh thì hôm nay phải làm những điều lợi cho mình, lợi cho mọi người.
Đó, nhờ nhớ
cái mạng sống ngắn, nó không bảo đảm. Đây tôi không đặt nó là ngắn hay nó
là dài, phải không? Nói mạng sống trong hơi thở là định nó ngắn hay định
nó dài? Nó không cố định mà chỉ có cái lẽ thực là không bảo đảm. Mạng sống
đâu có gì bảo đảm. Cho nên không định ngắn mà không định dài. Bởi không
định cho nên chúng được lúc nào thì phải sử dụng cho nó được đầy đủ, xứng
đáng lúc ấy. Ngày nay sống thì cái gì cần làm lợi mình lợi người thì phải
làm, chớ đừng có hẹn. Tất cả quí vị có hay hẹn không? Thôi năm nay trong
mình không được khỏe, tu ít ít. Để sang năm khỏe tu nhiều, phải không?
Hoặc là năm nay còn bận việc học hành, tu ít ít. Để 5, 3 năm sau học hành
xong rồi tu nhiều. Cứ như vậy mà ước định để chờ một thời gian khác. Nhưng
mà biết đâu chừng để đôi ba năm sau, rồi lúc nào đó thở khì ra, không hít
lại, còn đâu nữa mà tu nhiều.
Như vậy nên
tôi mới thấy rằng cái gì mà chúng ta biết nó không bảo đảm thì cái đó được
lúc nào chúng ta phải dùng cho tận khả năng của nó. Đem lại lợi ích cho
mình cho người thì đó là người biết tu. Gọi là người biết đạo. Chớ còn cái
hẹn là cái không biết tu, không biết đạo. Thậm chí có nhiều sư, nhiều chú
“Lúc này bệnh quá, thôi để thong thả nghỉ xã hơi. Rồi ít bữa nữa mạnh,
mình tu rút”. Phải không? Có cái bệnh, có cái nạn đó. Biết đâu lúc này
bệnh quá mà nếu không tu thì ít bữa nữa bệnh trầm trọng hơn. Cái nó tắt
thở thì sao? Còn đâu nữa để mạnh rồi tu rút. Cho nên lúc nào mình cảm thấy
còn tu được thì ráng tu đi, chớ đừng có hẹn. Chúng ta bị con ma lười biếng
nó lừa chúng ta quá nhiều đi. Có bị lừa không? Nó kiếm cớ nó lừa, nó gạt.
Rồi chúng ta cứ đinh ninh theo nó, thành ra bỏ mất bao nhiêu thì giờ quí
báu của chúng ta. Nên quí vị phải ráng hiểu cái nói mạng sống trong hơi
thở không có nghĩa nói để bi quan. Nói để ngồi chờ tắt thở. Mà nói mạng
sống trong hơi thở là nói sự sống của chúng ta không có cố định, không có
bảo đảm.
Bởi vậy cho
nên nhà Phật mới không thừa nhận cái lối tướng số là chỗ đó. Số họ hay coi
nói mình làm sao? Người thì sống mấy chục năm, gì gì đó. Họ định cái mạng,
định cái tuổi. Đó là không đúng lẽ thật. Bởi định tuổi cho nên người đó
nghe nói mình sống 80 tuổi. Từ nhỏ cho tới 4, 50 tuổi nói chưa, còn nhiều,
còn 30 năm nữa mà. Tu chi cho gấp. Rồi cứ hẹn, hẹn. Rồi tới chừng ngã ra
chết bất thần, chừng đó là không làm gì kịp.
Bởi vậy cho
nên nhà Phật chỉ, cái lẽ thật của con người, là mạng sống không bảo đảm.
Nghĩa là thở ra không hít vào là chết. Còn nó ưng hít vào, ưng thở ra thì
sống hoài, phải không? Chớ không phải là nói như vậy là chỉ hạn nó mấy
phút đồng hồ thôi. Không phải, đâu phải vậy. Nghĩa là có thể dài mà có thể
ngắn. Bởi vậy nên phải biết lợi dụng lúc khỏe để mà tu. Đó là tôi nói cho
quí vị thấy cái ý nghĩa nhà Phật nói về cái lợi ích của sự tu, khi mình
thấy rõ được lẽ thật.
Còn nói về
mạng sống trong hơi thở này thì tôi đọc trong kinh Tạp A Hàm, tôi thấy
Phật dùng cái thí dụ, Phật dạy rằng:
- Thí như có
người bị lửa cháy đầu, cháy áo, phải làm sao cứu chữa?
Chư Tỳ Kheo
trả lời:
- Phải nôn
nóng, mau chóng tìm phương pháp để dập tắt.
Phật kết luận:
- Đầu, áo bị
cháy còn có thể tạm quên. Lửa vô thường phải đoạn trừ dứt sạch.
Như vậy thì
Phật dạy rằng: Lửa cháy đầu, cháy áo mình phải cứu gấp. Như vậy còn có thể
tạm quên. Còn cái lửa vô thường nó thiêu đốt mình đó thì mình còn phải gấp
hơn. Phải cứu nó mau hơn.
Như vậy cái
mạng sống nó trong hơi thở, để thấy mạng sống là vô thường. Vô thường tức
là không cố định. Không phải nhất định nó tới bao nhiêu năm. Mà nó là cái
bất chừng, bỗng dưng nó đến lúc nào không lường được. Bởi vậy cho nên phải
ráng mà tu, ví như cứu lửa cháy đầu vậy. Có khi nào mình đầu trọc lửa
không cháy được. Như giả sử lửa cháy áo mình thì lúc đó làm sao? Lửa cháy
áo thì lúc đó mình cũng thong thả đi, chờ đi tới lu nước, cái gì đó rồi
tôi dập. Có thong thả không? Hay là biết lửa cháy áo cái thì phải chạy
gấp lại chỗ này, chỗ kia hoặc lấy tay mình phủi mình dập. Chớ đâu có thể
chần chờ. Huống nữa là quí vị có tóc mà lửa cháy đầu thì sao. Nghĩa là
không bao giờ dám lơ là. Tay chân gì cũng đập cũng giũ, cũng phủi đủ thứ.
Làm sao cho nó tắt liền. Không có để kéo dài. Cũng như vậy chúng ta thấy
rằng cái mạng sống không có cố định, cho nên chúng ta phải ráng mà tu.
Nhanh mà tu chớ không phải tu chậm.
Bởi vậy tôi
nói ở đây nó hơi lạc đề một chút, phần nhiều ở miền Tây họ hay dùng cái
thuật để khuyên tu. Dùng cái thuật gì? Họ nói “Đời tới”. Đời tới phải ăn
chay gấp, phải tu gấp. Thôi đời tới tu không kịp. Thì cái thuật đó nghe
người ta cũng sợ nhưng mà nó không có lẽ thật, phải không? Đời tới. Tới
cách nào? Cứ nóitới. Đời thì luôn luôn tới chớ lui sao được. Ngày nay rồi
qua ngày mai. Nó có dừng lại đâu không tới. Như vậy mà lấy cái đó để dọa
người ta thì nó không có cái lẽ thực.
Còn Phật nói
lẽ thực. Mạng mình sống trong hơi thở. Thở ra mà không hít vô là chết. Như
vậy ngày nào còn thở, giờ nào còn thở thì ráng tu. Cái đó là một cái lẽ
thực mà ai cũng đang sống đang ở trong cái cảnh đó. Như vậy cái đó nó chí
lý chớ, phải không? Chớ còn dùng cái kia nó đâu có chí lý. Vậy chớ ở quê
nghe cũng sợ lắm phải không?
Đó là những
điều tôi nói cho quí vị hiểu cái lẽ thực. Biết rằng khuyên người ta tu là
tốt nhưng mình phải dùng cái lẽ thật. Dùng cái thuật nào đó thì chỉ là dọa
thôi, chớ không có phải chân lý. Còn đây Phật nói là nói chân lý. Khuyên
mình tu thì biết tại sao phải ráng tu, là vì cái mạng sống không có bảo
đảm. Mạng sống không có cố định. Mà không bảo đảm thì ngày nào, giờ nào
còn khỏe thì giờ đó, ngày đó phải ráng tu. Đó là một cái lẽ thực. Chúng ta
thấy được lẽ thực thì chúng ta không dám chần chờ.
Bởi vậy cho
nên ngày xưa mỗi khi tụng kinh buổi khuya hay buổi tối thì hay có đọc bài
kệ vô thường đó. Bài kệ đó:
Thị nhật dĩ hóa,
Mạng diệt tùy giảm.
Như thiểu thủy ngư,
Tư
hữu hà lạc.
Đại chúng đương cần tinh tấn,
Như cứu đầu nhiên.
Đản niệm vô thường,
Thận vật phóng dật.
Thì sau này
tôi thấy Hòa Thượng Huệ Đăng Ngài dịch hay. Ngài dịch làm sao:
Ngày nay lại đã qua rồi,
Mạng căn huyết mạch lần hồi khô khao.
Dường như cá cạn ở ao,
Khổ thêm thì có chút nào vui đâu.
Cần tu tợ lửa cháy đầu,
Đừng cho sái buổi như chầu đế vương.
Cái thân mỏng mảnh vô thường,
Sớm còn chiều mất lo phương cứu mình.
Ngài dịch cái
đó thì hay, mà Ngài thêm những cái phải ráng mà tu chớ không có thể chần
chờ, không có thể hẹn hò giống như đi chầu vua. Chầu chúa vậy đó. Mình bây
giờ đừng nói chầu vua chúa, ông tỉnh trưởng mời mình 8 giờ vô có mặt họp,
mình dám đi trễ không? Mình dân mình đâu dám đi trễ phải không? Huống nữa
là vua chúa. Vì vậy hẹn giờ nào mình phải tới giờ ấy.
Như vậy nói
tới cái vô thường đó, đừng nghĩ vô thường là một cái có mấy phút đồng hồ.
Không phải. Vô thường là một cái không cố định. Thường là cố định. Vô
thường là không cố định. Cuộc sống không cố định, không bảo đảm, để chúng
ta tỉnh, chúng ta thức mà cố gắng tu hành. Như vậy thì càng nhớ cái vô
thường thì mình càng làm sao. Càng ráng tu chớ đâu có thích thụ hưởng phải
không? Còn người họ tưởng họ sống dai, tưởng họ sống lâu, họ mới ham hưởng
cái này cái nọ. Còn mình thấy cuộc đời tạm bợ, là không bảo đảm thì mình
phải ráng làm sao trong thời gian mình có mặt ở đây, mình phải làm cho
xứng đáng, làm cho tốt đẹp. Đó là một bổn phận mình phải tu.
Như vậy thì
biết được vô thường không có nghĩa là dừng cái lao động tốt mà trái lại
quí tiếc thời giờ. Cố gắng làm lợi mình, lợi người. Đó là cái lao động
tốt. Và không có cái đam mê thụ hưởng dục lạc. Biết dù ăn cho nhiều, ngủ
cho nhiều mà lỗ mũi thở ra không chịu hít vô là chết, phải không? Ăn bao
nhiêu, ngủ bao nhiêu cũng không có bảo đảm gì hết. Đó là một cái thứ nhất.
Như vậy thì
trong phần của bài trước tôi nói rằng mình mới tập tu thì dùng hơi thở để
quán hơi thở vô ra theo nó. Hoặc là quán hơi thở bằng cách đếm số. Hít vô
đếm một. Hoặc hít vô thở ra đếm một. Rồi đếm hai. Rồi tới mười bỏ. Thấy
coi như nó rất là tầm thường, nhưng lợi dụng cái tầm thường đó chúng ta
lại thấy cái mạng sống chỉ trong hơi thở, để rồi chúng ta cố gắng tu hành
trong mọi trường hợp. Đi, đứng, nằm, ngồi chúng ta đều nhớ như vậy. Để rồi
chúng ta không có tham ngũ dục, để rồi chúng ta quí tiếc thời giờ còn sống
của chúng ta mà làm tất cả những việc gì quí, việc gì đáng, chúng ta làm
cho xong chớ không có chần chờ. Đó là một cái thức tỉnh lớn, biết rõ thân
mạng vô thường mà cố gắng tu.
Bây giờ cái
thứ hai. Tức là phần thấy được cái tâm này nó vô ngã. Tức là tôi khuyên
quí vị qua cái chặng hơi thở rồi quí vị quán xét cái tâm niệm. Mỗi một
niệm dấy lên nhìn thấy rõ nó mới sanh rồi nó liền diệt. Nó là cái bóng chớ
không có thật. Cho nên khi tìm thì nó mất. Như vậy thì tất cả cái tâm niệm
của chúng ta, lâu nay mình nghĩ, đó là tâm mình. Thì ngày nay mình thấy
những tâm niệm đó chợt sinh chợt diệt, không có cái tướng thật, không có
cái hình dáng thật. Cái không thật cho nên mới dùng từ là vọng tưởng. Chỉ
là cái tưởng hư dối thôi. Nếu thấy tất cả những tâm niệm dấy lên đều là
cái tưởng hư dối thì không chấp nó làm tâm mình. Không chấp nó làm tâm
mình cho nên cái tâm nó không phải là chủ (cái tâm sinh diệt đó không phải
là chủ). Vì vậy mà gọi là vô ngã. Quán tâm vô ngã.
Như vậy nếu
chúng ta hằng đi, đứng, nằm, ngồi thấy niệm dấy lên, biết nó là hư dối, là
vọng tưởng không thật. Biết rõ như vậy thì chúng ta có tỉnh hay là mê. Bởi
vì cái niệm khởi lên rồi mất, khởi lên rồi mất. Nếu chúng ta phăng tìm
manh mối của nó thì không bao giờ thấy, không bao giờ có. Như vậy mới biết
rằng cái đó chỉ là cái bóng dáng của ngoại trần, chớ không có thật. Biết
rõ vậy thì chúng ta không đặt nó là cái lẽ thật. Không đặt nó là chân lý.
Như vậy quí vị có cãi lộn với ai không? Chúng ta cãi lộn với nhau là tại
cái gì? Tại tôi nghĩ như thế này thật. Mà người khác lại nói không thật.
Tôi nghĩ thế này là đúng mà người khác lại nói không đúng, cho nên mới
cãi, phải không? Bây giờ tất cả quí vị cãi nhau đó có phải là cãi đúng với
không đúng không? Còn nếu cộng thêm nữa là phải hay quấy, đúng, không,
đúng, phải, quấy, thật, hư. Mấy cái đó là mấy cái cãi lộn nhau. Mình nói
cái đó là đúng. Người kia nói cái đó không đúng thì nổi sân lên. Tại sao
mình nổi sân? Vì cho rằng cái nghĩ, cái đó như vậy là đúng đó, là chân lý
rồi. Mà ai nói khác là nói bậy không phải chân lý. Cho nên mình quyết định
mình bảo thủ cái ý niệm của mình.
Bây giờ tôi
hỏi lại quí vị, ý niệm đã không thật mà nó nghĩ ra được cái thật không? Ý
niệm không thật mà nghĩ ra cái thật không? Nghĩ nó không thật (bản chất nó
không thật), cái nghĩ của nó cũng không thật luôn. Mà nghĩ không thật thì
cãi với nhau làm chi. Đúng sai làm chi mất công.
Bởi vậy cho
nên khi khởi ý niệm, mình biết nó là vọng tưởng, là hư dối thì những cái
gì nó nghĩ, nó chấp, cũng biết cái đó là hư dối thôi. Thôi chấp làm chi,
hơn thua làm gì. Như vậy có tu không? Như vậy chúng ta tu hết sức là cẩn
thận. Như vậy chúng ta thấy được cái tâm này là vô ngã. Đó là thấy được lẽ
thật. Còn bình thường chúng ta tưởng cái nghĩ đó là mình, là thật thì cái
tưởng tượng đó sai lầm. Tưởng tượng không đúng lẽ thật. Vì sai lầm cho nên
chúng ta mới chấp sai lầm. Từ cái nghĩ tưởng sai lầm không thật đó mà
chúng ta tưởng là thật, thì cái sai lầm gốc, ra những cái sai lầm ngọn, là
nó chấp cái gì đúng, cái gì phải. Ai cãi lại thì nó sanh tức tối v.v...
Những cái đó là những sai lầm ngọn. Từ gốc đã sai lầm thì tất cả cái ngọn
ngành cũng đều là sai lầm hết. Như vậy thì một mạch sai lầm. Còn chúng ta
biết vọng tưởng không thật thì tất cả cái chấp đó đều không thật hết, thì
như vậy thấy cái gốc đúng thì cái ngọn mình cũng thấy đúng, mà thấy đúng
thì có cãi lẫy, có hơn thua, có chống báng với nhau không? Chắc là không
còn. Như vậy nếu tất cả quí vị hằng ngày, hằng giờ thấy cái tâm niệm dấy
lên là không thật thì quí vị đã tu rất kỹ rồi. Nghĩa là đã tu rất kỹ. Mà
thấy những ý niệm dấy lên là không thật, là vọng tưởng thì cái đó có trở
ngại gì khi quí vị lao động không?
Thí dụ như có
người dạy, khi mình cuốc đất, mình cuốc một cuốc xuống niệm Nam Mô A Di Đà
Phật, phải không? Đó là tu, vừa cuốc vừa tu. Rồi bây giờ mình cuốc một
cuốc đất xuống mà mình cứ cuốc thôi, không thèm nghĩ gì hết. Lâu lâu có
chú vọng nào dấy lên, biết vọng tưởng. Như vậy một buổi mình cuốc đất là
ba tiếng đồng hồ, mình không thèm nói chuyện với ai, không làm gì hết. Cứ
vừa cuốc mà vừa dòm chừng, nếu có chú nào dấy lên, biết chú là vọng tưởng.
Như vậy mình có tu không? Như vậy một giờ cuốc đất có thua một giờ ngồi
thiền không? Thua không? Chắc đâu có thua. Nhưng mà bây giờ mọi người cứ
lầm, cứ làm hoài làm sao mà tu. Có lầm cái đó không? Cứ nghĩ rằng ai đi
cuốc đất là người đó không tu. Mà phải, nếu cuốc đất mà kiếm 2, 3 người
đứng gần gần vừa cuốc vừa nói chuyện đó, tu làm sao cho được, phải không?
Chớ nếu cuốc đất thì cuốc, vừa có vọng tưởng dấy lên thì biết vọng tưởng
không theo. Như vậy giờ cuốc đất là giờ tọa thiền.
Còn lặt rau
cũng vậy. Lặt rau thì cứ lặt rau, vừa có ý nghĩ, dấy niệm lên nghĩ cái gì
đó, tưởng cái gì đó, nhớ cái gì đó, thì biết đó là vọng tưởng, cười nó
thôi. Như vậy lặt rau cả buổi có bằng ngồi thiền không. Như vậy còn hay
hơn ngồi thiền, nó không có gục phải không? Ngồi Thiền, mình thả êm êm một
hồi thì gục lên, gục xuống là mất đi bộn bộn phải không? Bây giờ mình ngồi
lặt rau mình tỉnh hoàn toàn, rồi mình cứ thấy nó lên, cái cười với nó
(vọng tưởng). Như vậy giờ lặt rau còn ngồi thiền kỹ nữa. Khỏi có ai đi
canh đi gát gì hết, phải không (vậy là quá tốt, mà có cái khổ là đâu có
chịu)? Lặt rau thì phải hai ba người ngồi đối diện. Vừa lặt vừa kể chuyện
năm trên năm dưới. Thôi còn cái gì mà tu. Như vậy là mình không biết tu
trong khi mình lao động.
Bây giờ nếu
biết tu trong khi lao động thì cái lao động cũng là cái hết sức tốt, chớ
đâu phải là xấu. Hiểu cho thật kỹ như vậy thì quí vị mới thấy rằng chúng
ta lao động là chúng ta đang tu. Chớ không phải chúng ta lao động là không
có tu. Hiểu vậy thì không có buồn. Chớ không thì có một ít vị Tăng cũng
như Ni, thấy coi bộ mấy huynh làm việc gì nhẹ nhẹ đó, tới giờ được nghỉ,
đúng giờ ngồi thiền đều đặn. Còn mình có việc gì hơi nặng, mình phải làm
coi bộ khó, nặng nề hơn. Rồi tới giờ ngồi thiền mình không ngồi kịp hoặc
là mình bị nghỉ hết một hai buổi. Cái than trách: “Tôi mắc nhiều việc quá
làm sao mà tu”. Phải không? Than tôi mắc nhiều việc quá làm sao mà tu. Mấy
huynh đệ kia ít việc cho nên người ta tu được nhiều. Nghĩ mình vô chùa mà
mình chịu thiệt thòi quá. Rồi đâm ra buồn nản. Chớ còn nếu mà mình làm
việc đó mà cũng như mấy huynh đệ ngồi thiền, mình ngồi mình lặt rau, mấy
huynh đệ kia lên trên ngồi thiền, mà mình lặt rau, mình nhìn từng cọng rau
rồi vọng tưởng dấy lên mình bỏ. Mình lặt tới hết hai giờ ngồi thiền được
một rổ rau lớn, phải không? Như vậy huynh đệ lên trên ngồi thiền lâu lâu
gục, lâu lâu gục. Như vậy ai hơn ai? Ai lợi, ai hại? Đó phải hiểu cho
tường tận việc đó, chớ nhiều khi tôi cũng nghe than phiền hoài. Cứ than
phiền, ai mà lỡ có công tác gì hơi bề bộn một chút, rồi giờ tu người ta
ngồi thiền hết, mình không được ngồi, cái tủi. Hơi trách trong lòng, rồi
trách người lớn nữa. Sao mà hơi bất công, sắp cho mình công việc nặng,
nhiều chẳng hạn. Như vậy thì cái khéo hay là cái vụng là do tại mình. Mình
khéo thì giờ nào cũng là giờ tu. Còn mình vụng thì giờ nào cũng không
thành tu. Nếu lên ngồi thiền cứ gục từ đầu giờ tới cuối giờ thì nghĩ làm
sao? Lợi hay hại? Biết như vậy rồi thì quí vị phải ráng làm sao ứng dụng
được mọi giờ, mọi lao động để mà tu thì đó là chúng ta khôn ngoan.
Như vậy phần
thứ hai này thấy tâm vô ngã, tức là biết tâm dấy tưởng là vọng tưởng. Luôn
luôn biết như vậy, thấy rõ ràng như vậy. Như vậy mình không có chấp nó là
tâm mình thật. Từ đó mình mới không có tranh giành với ai, những ý kiến
hơn thua, hay dở. Nhờ đó cho nên mình phá cái chấp tâm một cách dễ dàng.
Nếu tâm mà mình chấp, mình không chấp nữa thì mình có thể rất cảm thông
với mọi người để đi tới cái “Ý hòa đồng duyệt”. Nếu mà người này khởi nghĩ
thế này, nói rằng tôi nghĩ đó, cái nhìn của tôi chắc là đúng. Người khác
nhìn khác, nói tôi nghĩ thế này khác với huynh, mà cái nghĩ của tôi cũng
có lẽ là đúng. Người kia nói có thể là đúng. Người này nói có lẽ là đúng.
Nhưng mà bây giờ nói, chỉ cần kết luận thì cái nghĩ của tôi, cái nghĩ của
huynh cũng là vọng tưởng thôi, cười xòa, không nói sai gì hết, phảo không?
Như vậy dung hòa với nhau đi đến cái ý hòa đồng duyệt dễ dàng. Còn cứ nói
cái nghĩ mình là đúng, là chân lý. Ai nghĩ khác là bậy, trật thì có đi tới
ý hòa đồng duyệt được không? Chắc không thể được.
Bởi vậy cho
nên tu chúng ta mới thấy được một lẽ thật thì những ngăn trở của sự tu đó,
chúng ta dung thông một cách dễ dàng, không khó khăn gì hết. Cho nên người
tu Phật là đòi hỏi chúng ta thấy được lẽ thật. Nếu chúng ta chưa thấy toàn
bộ lẽ thật thì chúng ta thấy từng bộ phận. Thấy cái thân là vô thường đúng
như thật của nó. Thân sống trong hơi thở, mạng sống trong hơi thở, thấy
tâm nó là vô ngã đúng như thật của nó. Mọi niệm dấy lên đều là vọng tưởng.
Thấy như vậy là thấy được lẽ thật. Từ thấy được lẽ thật chúng ta mới dễ
tu. Như vậy từng lẽ thật chúng ta đều thấy đúng không có sai với chân lý.
Nếu đứng trên đường tu chúng ta có từng phần giác, phải không? Có từng
phần giác. Giác thân, giác tâm. Giác thân là mạng sống trong hơi thở. Giác
tâm là hư dối vọng tưởng. Hai cái giác đó nếu giác từng phần như vậy thì
gọi là gì? Bồ tát mất rồi, phải không? Bồ tát gọi là phần giác (giác ngộ
từng phần). Bây giờ chúng ta thực tế, chúng ta giác ngộ từng phần thì
chúng ta thành Bồ tát mất rồi. Chớ đâu có phải là thường. Vậy đó mà quí vị
cứ coi thường mình hoài, phải không? Không chịu giác. Rồi cứ lạy Bồ tát,
xin Bồ tát cho mình giác, Bồ tát độ mình. Cái lẽ thực mình có quyền giác
mà mình không chịu giác, nhờ Bồ tát độ. Có xấu hổ không?
Như vậy thì
tôi chỉ cho quí vị thấy tường tận cái lẽ giác đó. Chúng ta giác được cái
thân vô thường, chúng ta giác được cái tâm vô ngã. Đó là chúng ta giác
rồi. Vậy thì từng phần chúng ta giác. Thân vô thường, tâm vô ngã là chúng
ta giác được cái hư dối, cái giả tạm của thân và tâm. Rồi đi sâu hơn nữa
chúng ta giác cái gì. Giác được cái chân thật. Bên cạnh cái hư dối đó có
cái chân thật. Ta nhận chân nữa thì đó là chúng ta đi sâu trong cái giác,
chớ có mê đâu, phải không?
Như vậy đường
lối tu rõ ràng là đưa chúng ta tới giác ngộ chân thật, chưa có giác cứu
cánh thì chúng ta giác từng phần. Mà giác từng phần là chúng ta đã tu hạnh
Bồ Tát, không nghi ngờ gì hết. Bởi vậy nên định nghĩa Bồ Tát hết sức là
rõ, Bồ Tát gọi là phần giác, tức là giác ngộ từng phần. Còn Phật là gì? Là
mãn giác, giác ngộ viên mãn. Một bên giác ngộ viên mãn, một bên giác ngộ
từng phần. Mà hết những cái từng phần, mình giác đầy rồi tức là viên mãn,
là thành Phật, như Phật. Quí vị tu muốn thành Phật không? Bây giờ phải
giác từng phần đi phải không? Gom hết những từng phần lại cộng thành viên
mãn, thành Phật, có gì đâu. Con đường đi nó rõ ràng như vậy. Như vậy bước
tu của mình từng bước đi trên con đường giác ngộ. Tôi đã từng nói như vậy.
Từng bước, từng bước đi trên con đường giác ngộ chớ không phải đi đường
nào khác. Mà chúng ta đã từng bước giác ngộ thì cuối bước đường chúng ta
đi, là tới chỗ viên mãn, phải không? Tới mục tiêu cứu cánh thì đó là giác
ngộ hoàn toàn. Đó để thấy sự tu nó quí, nó quan trọng như vậy
Vậy phần thứ
hai này thấy tâm vô ngã, biết tất cả ý niệm dấy khởi là vọng tưởng. Cái
biết đâu phải lựa là giờ ngồi thiền mới biết. Giờ chúng ta lao động cũng
biết, giờ chúng ta ngồi chơi cũng biết. Như vậy bốn oai nghi đều tu được
không? Đó là cái tôi thấy nó thực tế, chớ còn quí vị tu, thí dụ như đếm
hơi thở mà nghĩ rằng bước một bước, thở ra. Rồi bước thứ hai là hít vào.
Rồi đếm hoặc không đếm. Hoặc tưởng chẳng hạn. Rồi cứ nhớ thở ra hít vào
hoài mà có dám bước nhanh không. Bước nhanh thì thở ra hít vào không kịp.
Thành ra cứ bước nhịp nhàng, đi từ từ, từ từ. Rồi như vậy cả ngày cứ đi từ
từ làm sao làm ăn được, phải không? Mình cần phải vác cuốc, mình cần phải
làm công kia việc nọ. Đừng nói chuyện làm bếp thôi mà quí vị cứ ngồi nhớ
thở ra thở vào thì làm sao lặt rau cho kỹ. Nhớ hơi thở thì đâu nhớ lặt
rau.
Tất cả những
cái đó, thành ra như vậy mới nhìn qua, chúng ta thấy dễ tu nhưng mà thực
tế lại là khó. Còn cái tu này, quí vị cứ đừng thèm theo hơi thở. Cứ nhớ
mạng sống trong hơi thở. Chỉ nhớ đó chỉ là một cái ấn tượng sáng suốt của
người giác ngộ. Rồi qua cái thứ hai, thấy rõ tâm niệm là vọng tưởng là hư
dối. Thấy rõ như vậy. Dấy lên thì cười với nó thôi. Như vậy vừa làm vừa
cười vậy hà. Hư dối cứ chạy ló đầu ra hoài, phải không? Thấy nó như mấy
đứa con nít giỡn mặt với mình vậy. Không có gì hết. Không có gì là quan
trọng. Tuy trong khi làm mà mình vẫn là tu, không có thiệt thòi chút nào
hết. Đó là hai phần.
Bây giờ tới
phần thứ ba. Phần thứ ba này hơi nặng nề về những người lao động. Tức là
Phật tử ở trong nước cũng như ở nước ngoài phải đi làm các công tác chuyên
môn trong các xí nghiệp đó. Có nhiều người họ đặt câu hỏi với tôi. Nói
rằng: “Thầy dạy tọa thiền, tọa thiền thì tụi con tu được. Nhưng mà bây giờ
12 giờ hoặc 8 giờ ở sở phải lao động luôn luôn. Bây giờ làm sao mà tu. Mà
nhất là công tác bây giờ là máy móc, nếu mà lơ là một chút, sơ sẩy một
chút là tai nạn. Sẩy ra tai nạn. Bây giờ cứ thí dụ làm vừa ngồi niệm Phật,
niệm Phật quên cái máy rồi làm sao? Thì nguy hiểm. Hay là vừa ngồi vừa đếm
hơi thở. Đếm hơi thở quên không nhớ cái máy thì nguy hiểm. Bây giờ phải
làm sao tu?
Đây tôi chỉ
cho quí vị tu. Khi chúng ta lao động thì chỗ này chủ trương là làm việc
gì, chuyên tâm vào việc đó. Làm việc gì chuyên tâm vào việc đó. Thì đó là
tu. Sao vậy? Thí dụ bây giờ mình đang đánh máy, thì tay mình đánh máy,
mình nhìn chữ mình đánh. Mình cứ đánh bây giờ chuyên thấy chữ và tay đánh
máy thôi, không thèm nghĩ cái gì khác. Như vậy quí vị đánh máy tốt không?
Còn tỷ dụ như mình đang điều khiển một cái máy gì chạy đều đều. Điều khiển
mình cứ nhìn máy nó chạy đều đều đúng theo chương trình của nó. Mình không
có lơ là, không có sơ sót. Thì việc làm đó đúng không, tốt không? Mà mình
có tu không? Người ta tưởng nhìn như vậy, làm như vậy là không có tu, như
sự thực đó là tu. Tại sao? Là bởi vì tôi nói, khi chúng ta làm việc gì
mình chăm chỉ vào việc đó, không có cái nghĩ khác, cái tưởng khác. Nghĩ
khác, tưởng khác tức là lo ra. Lo ra tức là ý nghĩ mình đã phóng chạy.
Phóng chạy thì việc làm không được chín chắn. Như vậy thì mình chăm chỉ
vào đó để mình không cho nó lo ra. Không lo ra thì có vọng tưởng không? Mà
không có vọng tưởng là mình định tâm trong đó rồi. Thì đó là mình đã tu.
Tu ngay trong cái động. Nghĩa là mình đang làm mà mình tu mình không hay.
Bởi vì ngồi
thiền một giờ đồng hồ là cốt lặng vọng tưởng. Còn bây giờ mình ngồi mình
nhìn cái máy. Mình không có cho vọng tưởng chạy. Mình chăm vào đó, chú ý
vào đó nó không chạy thì đó cũng phương tiện định rồi. Cho nên có nhiều vị
ngồi thiền, họ muốn định, họ đốt cây nhang họ để, để họ nhìn cây nhang,
tập trung vào cây nhang để tâm họ không có loạn. Như vậy họ gọi là ngồi
thiền. Bây giờ mình cứ nhìn cái máy nó chạy. Mình làm đúng cái đó thì khỏi
đốt nhang, phải không? Mà mình lại lao động được có lương. Như vậy cái nào
lợi hơn? Đi lao động mà mình vẫn tu là khéo. Khi lao động mình chăm chỉ
vào cái máy, vào cái bộ phận nào mà người ta giao cho mình điều khiển,
chăm chỉ vào đó. Vừa có một niệm khác mình buông mình bỏ. Như vậy đó là
mình tu. Như vậy tu là không ai biết mình tu hết. Nếu mình chăm chỉ vào đó
mình làm đúng không sai chạy, không hơ hỏng, không có bị thiệt thòi cái
gì, thì tức là việc làm của mình chủ chê hay khen? Chủ còn khen còn tán
thưởng nữa, phải không? Rất là chu đáo. Như vậy đó chính là nhờ cái biết
tu mà chúng ta lao động tốt đối với công tác của chúng ta và đối với xí
nghiệp, cơ sở mình đang làm. Vậy đó là cái khéo tu trong lúc lao động.
Nhưng có người
khác họ hỏi. Giả sử bây giờ tôi làm nghề thầy giáo. Tôi không có coi cái
máy, không có điều khiển cái máy. Vậy tôi là ông thầy giáo, tôi phải dạy
học trò, phải soạn bài thì làm sao mà tu. Thì đây sẽ trả lời. Nếu mình làm
một cái nghề gì mà phải suy nghĩ, phải sắp đặt thì ở đây khuyên nên giới
hạn cái tâm mình trong một vấn đề đó thôi.
Thí dụ bây giờ
mình là thư ký, thì phải viết đơn hoặc là làm báo cáo gì đó, thì khi viết
đơn thì chỉ biết viết đơn, làm báo cáo thì chỉ làm báo cáo. Ngoài ra không
cho nghĩ cái gì khác, chỉ nghĩ trong một phạm vi đó. Như vậy tuy là còn
vọng tưởng, nhưng mà vọng tưởng giới hạn, phải không? Còn nếu mình không
chăm chỉ vào cái đó thì mình ngồi viết đơn, báo cáo, đang đó cái nó xẹt
nghĩ cái này, xẹt nghĩ cái kia, làm cho việc làm của mình không chu đáo,
không có thuần thục. Bởi vậy cho nên phải hạn chế ở trong một phần mà mình
đang suy nghĩ, đang tập trung để làm đó.
Nếu là một
thầy giáo, một cô giáo ngồi soạn bài về một bài toán hay là bài lý gì đó.
Mình soạn mình chăm chú cái đó. Vừa nhớ chuyện gì hôm qua hôm kia, bỏ. Như
vậy việc soạn bài mình rất là chu đáo. Như vậy đó vừa là chu đáo cho công
tác vừa là biết tu. Tại sao gọi là tu? Vì mình hạn chế được cái vọng
tưởng, nó ngông cuồng, nó không có chạy bậy. Vọng tưởng không ngông cuồng,
không chạy bậy, tức là mình có làm chủ nó một phần. Như vậy là có tu rồi.
Đó là cái phần thứ hai, người phải làm việc bằng cái suy nghĩ, cái sắp
đặt.
Rồi bây giờ
giả sử có những người làm việc bằng cách phải điều khiển hay điều hành
nhiều người làm công tác thì họ phải sắp đặt, phải suy tính. Ai làm cái
gì, cái gì sắp đặt đâu đó thì làm sao họ chuyên về một đề được. Bây giờ
những người đó làm sao mà tu? Ở đây tôi khuyên rằng nếu người nào có trách
nhiệm phải điều khiển cả một xưởng lớn, nhiều nhân công, nhiều bộ phận
trong đó thì mình phải sắp đặt. Sáng thức dậy, mình ngồi mình sắp đặt thì
tất cả tâm tư mình chỉ trong việc sắp đặt đó thôi. Nghĩa là mình sắp đặt,
việc này, việc kia, việc nọ chỉ nhìn trong cái bổn phận, cái trách nhiệm
mà mình phải lãnh đạo đó. sắp đặt cho xong, rồi mình ghi giấy rồi sáng ra
họ làm. Như vậy tuy mình có sắp đặt mà cũng giới hạn. Chớ tư tưởng không
cho nó chạy ngông cuồng, cũng không cho nó có tính cách mông lung, mà phải
có một cái kềm chế ở trong một phạm vi, là chúng ta có tu, vì chúng ta có
làm chủ thì đó cũng là một cách tu.
Như vậy khi mà
tất cả công tác gì. Đây tôi còn nhớ có mấy anh Phật tử, họ nói họ làm việc
kế toán. Làm kế toán ở sở này sở kia. Cứ tính toán con số hoài thì làm sao
mà tu. Thì tôi nói, dầu cho mình làm kế toán, phải bao nhiêu con số nó
nhức cái đầu, đau cái đầu mà mình cứ chú tâm làm bao nhiêu con số đó. Giờ
nào vào làm thì mình chuyên tâm, tất cả tâm lực dồn vào đó hết. Chú tâm,
chú ý làm không có để nó mống khởi, không để cho nó chạy bậy, dồn hết
trong việc kế toán thôi. Chừng nào ra sở thì sẽ làm việc khác. Chớ còn
trong sở thì cứ dồn hết tâm lực trong một việc. Nhờ dồn hết tâm lực trong
một việc, chúng ta không có kềm không có nghĩ gì khác. Cho nên chúng ta
chúng có phần làm chủ rồi. Tuy con số này, con số kia nó khác. Tuy bản báo
cáo này, bản báo cáo kia nó khác, nhưng mình cứ đặt tất cả cái nghĩ, cái
tính của mình nằm ở trong một phạm vi giới hạn, chớ không có chạy mông
lung, thì đó là chúng ta có tu rồi. Như vậy thì cái tu này tu ở trong công
tác, tu ở trong việc làm chớ không phải là không có tu.
Như vậy người
ở chùa tu được, người ở sở tu được, người lao động ngoài trời tu cũng
được. Ai biết khéo thì đều tu được hết. Chớ không phải chỉ có những người
rảng rang ngồi thiền được mới là tu. Như vậy có thể nói một cách rõ ràng
rằng, chúng ta khéo tu thì giờ nào công tác hay làm việc cũng là giờ tu,
giống như giờ ngồi thiền vậy. Còn chúng ta không khéo tu, kể cả giờ ngồi
thiền cũng không hay như thường. Nghĩa là không hay bằng cách nào? Bởi vì
không khéo tu cho nên ngồi thiền thì gục. Còn nếu hết gục thì đau. Đau rồi
trông hết giờ, phải không? Ngồi cũng như bị bắt đó, bị bắt phạt quì hương.
Trông cho tàn cây hương để xả. Còn cái này ngồi thì bắt tréo chân đó, đau
quá trông hết giờ để xả. Nghe cô Hương đăng đánh kiểng beng beng. Thôi coi
như muốn xá cỡ 3, 4 cái xá cám ơn. Như vậy tu đó là tu làm sao? Thấy thì
nghiêm chỉnh, mà thực ra tâm mình nó đang xáo động đủ thứ hết, cho nên làm
sao mà ngồi thiền. Vào ngồi thì bình tỉnh, sáng suốt không có gục và tất
cả giờ ngồi đó không phải ngồi để lấy giờ mà ngồi để làm chủ mình. Coi như
thời gian vô nghĩa. Ngồi đến chừng nào người ta đánh kiểng thì mình ra.
Chớ không có mà ngồi lắng tai. Nhất là khi bị chân đau, lắng tai nghe
kiểng hoài, phải không? Những cái đó làm cho mất thời giờ quí báu của
mình. Đó là tôi nói về cách tu trong mọi trường hợp. Đó là chúng ta tu
trong trường hợp hạn chế trong hành động, trong công tác.
Và bây giờ
chúng ta có thể tu trong cuộc sống tùy duyên tự tại để tiêu hết tập khí.
Đây là nói hạng cao đó, tu trong cách tùy duyên tự tại. Như hôm rồi tôi có
dẫn câu của Tổ Lâm Tế nói đó. Tổ Lâm Tế nói sao đó:
Tùy duyên tiêu cựu nghiệp,
Nhậm vận trước y xiêm.
Tu đó là tu
tùy duyên. Đó là nói những người ngộ được ở mình có cái tánh Phật hay là
có cái bản lai diện mục rồi, bây giờ tùy duyên mà tu, chớ không có kềm
cọng, không có chú tâm. Như vậy tùy duyên mà tu đó thì cái cuộc tu đó rất
là nhẹ nhàng, rất là tự tại. Không có dính, nó không kẹt bên này, bên nọ.
Cái hạng tùy duyên này, nếu mà đứng trong Thập mục ngưu đồ thì tương đương
với bài kệ nói rằng đi tới chỗ lá rụng về cội. Nó không dính, không kẹt,
tự tại. Tôi đọc bài kệ đó quí vị nghe, thấy rõ. Lá rụng về cội đó.
Phản bổn hoàn nguyên dĩ phí công,
Tranh như trực hạ nhược manh luân.
Am
trung bất kiến am tiền vật,
Thủy tự man man hoa tự hồng.
Dịch:
Phản bổn hoàn nguyên đã phí công,
Đâu bằng thẳng đó tợ mù câm.
Trong am chẳng thấy ngoài vật khác,
Nước tự mênh mông hoa tự hồng.
Như vậy bài kệ
này nói cách tùy duyên, tự tại của những người đã ngộ đạo mà muốn dứt sạch
tập khí thì tu một cách tùy duyên tự tại như thế này. Nói rằng:
“Phản bổn hoàn
nguyên”. Phản là trở lại. Bổn là cái gốc. Hoàn là cũng trở về. Nguyên là
cái nguồn. Nói về cái gốc, nói về cái nguồn, đó là uổng công rồi, phí công
rồi. Tại sao vậy? “Đâu bằng thẳng đó tợ mù câm”. Tợ mù câm là giống câu
của Ngài Trần Nhân Tông đó “Đối cảnh vô tâm” đó. Như vậy ngay nơi mọi cảnh
mà như mù. Thấy mà như mù chớ không phải mù thật. Nghe mà như điếc. Cho
nên không có phản đối, không có khen chê. Như câm, như mù chớ không phải
câm. Nhớ vậy đó, tức là đối cảnh mà vô tâm thì giống như thấy mà như mù.
Nghe mà như điếc. Như vậy người đó, lúc đó không còn nói phải trở về
nguồn, trở về gốc gì nữa hết.
Có nhiều vị
Tăng hiện giờ cũng như Ni hiện giờ, biết mình có cái ông chủ rồi. Ngồi
thiền, hoặc đi đứng nằm ngồi gì cũng nhớ. Nhớ trở về ông chủ. Trở lại ông
chủ, sống với ông chủ. Cứ nói vậy hoài. Như vậy đúng chưa (tốt quá mà, nhớ
ông chủ) ? Thật ra chưa phải. Mà đừng có chạy theo ngoài, không chạy theo
ngoài thì làm sao? Thí dụ bây giờ như là chúng ta ngồi ở trên điện Phật.
Khi chúng ta ngồi trên điện Phật đó. mình muốn là ngồi một giờ đồng hồ
trên điện Phật. Ngồi chơi, ngồi gì cũng được. Mà nghĩ rằng một giờ ngồi
đây là không đi đâu, bây giờ trong khi ngồi nói: Mình nên nhớ, mình ngồi
trong điện Phật, mình nên nhớ, mình ngồi trong điện Phật. Hay là nhớ cái
gì? Chỉ ngoài kia có ý ngoắt ngoắt mình nói: Tôi không đi. Ai ngoài kia
kêu mình, tôi nói: Không thèm nghe. Mà tôi không đi nghe tức là tôi ở đâu.
Tôi ngồi trong điện Phật phải không? Tức là cứ nhớ mình ngồi trong điện
Phật. Nhớ ngồi trong điện Phật mà lâu lâu ai ngoắt muốn đứng dậy chạy. Cái
đó nhớ ngồi trong điện Phật cũng vô ích thôi, phải không? Nghĩa là chỉ
đừng chạy theo người kêu, đừng có chạy theo người ngoắt. Đừng chạy theo
bất cứ cái gì mà ngoại cảnh nó lôi. Mà đừng chạy theo vậy tức là đang ngồi
trong điện Phật tự nhiên, phải không? Cho nên câu này nói rất là hay.
“Đâu bằng
thẳng đó tợ mù câm”. Chớ còn nói phản bổn nó hoàn nguyên. Dư. Phí công tức
là dư rồi. Mình chỉ đối với sáu trần đừng có dính, đừng có kẹt thì đó là
đúng. Cho nên câu sau:
Am trung bất
kiến am tiền vật
Trong am mà
chẳng thấy vật ngoài am. Ngồi trong am mà không thấy vật ngoài am thì đó
là quá tốt rồi. Nghĩa là mình ngồi ngay trong cái chân thật của mình. Mọi
trần cảnh ở ngoài mình không đuổi theo thì đó là không thấy. Đây nói không
thấy tức là không đuổi theo. Chứ tưởng là ngồi trong am mà nhắm mắt, không
phải. Nghĩa là ngồi trong am mà mình không thấy vật ngoài am, nghĩa là
không có đuổi theo. Mình luôn luôn an trú ở chỗ thanh tịnh như như mà
không đuổi theo ngoại vật. Không đuổi theo ngoại vật tức là an trú. Chứ
đừng có nói an trú, tôi kềm ngồi đây, an ở chỗ này. Nghĩa là không đuổi
theo ngoại cảnh. Đó là an trú. Hiểu như vậy thì mới thấy cái hay.
“Nước tự mênh
mông hoa tự hồng”. Nguyên chữ Hán là : “Thủy tự man man hoa tự hồng”. Nó
hay làm sao, phải không? Nghĩa là nước, thí dụ ở đây, nước dưới hồ nó tự
đầy, phải không? Hoa hồng nó tự đỏ. Mình ngồi trong am, trong thiền đường
cũng tự mình ngồi. Hoa hồng không quyến rũ mình chạy ra ngó. Nước mênh
mông dưới hồ không quyến rũ mình chạy ra mình nhìn. Như vậy không nhìn
nước, không nhìn hoa, thì nước tự là nước, hoa tự là hoa, thì mình vẹn
toàn là mình. Đó là cái chỗ tùy duyên là vậy. Như vậy cái tu mà tới chỗ
này thì nó đẹp biết chừng nào, phải không? Đó là tôi nói cái ứng dụng vào
cuộc sống. Như vậy những vị này tùy duyên cũng là trong cuộc sống. Đi đây,
đi kia làm việc này, việc nọ mà không có chạy theo cảnh. Không có dính với
cảnh thì đó là tu. |