CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ ỨNG DỤNG TU HÀNH CỦA THIỀN VIỆN TRÚC LÂM

H.T THÍCH THANH TỪ

KẾT QUẢ CỦA SỰ TU HÀNH.

Bây giờ còn một điểm chót. Điểm chót là kết quả. Kết quả của sự tu. Trong cái kết quả này tôi có chia ra làm hai phần: Kết quả chánh và kết quả phụ.

Nói về kết quả chánh thì có mấy phần. Bởi vì chúng ta tu theo Phật là tu để tiến lên con đường giác ngộ. Như vậy nói tu giống như người đi, nếu người đi trên con đường về núi hay là leo núi. Ví dụ là con đường từ dưới chân núi lên đỉnh núi. Bây giờ người đi núi nếu đã đến chân núi thì từ chân núi chúng ta cất bước, mỗi bước là mỗi gần với chót núi, phải không? Như vậy mỗi bước là mỗi gần. Tất cả những bước chúng ta bước đều đều là để lên chót núi.

Cũng như vậy chúng ta tu theo đạo giác ngộ thì mỗi bước là mỗi cái giác ngộ, chớ không có cái gì khác hơn. Nếu muốn tiến lên quả cứu cánh giác ngộ thì mỗi ngày chúng ta tu, mỗi giờ, mỗi phút chúng ta tu đều là mỗi giờ, mỗi phút, mỗi ngày trên con đường giác ngộ. Nghĩa là nó tiến đều đều chớ nó không có dừng được. Như vậy thì nói tới tu là nói tới sự giác ngộ.

Như vậy trước hết giác ngộ về thân. Như hồi nãy tôi có nói, chúng ta thấy rõ thân này, mạng sống là trong hơi thở, phải không? Thấy mạng sống trong hơi thở là chúng ta đã giác ngộ lẽ thật về thân.

Rồi kế đó là chúng ta giác ngộ về tâm. Nhờ tu thấy tất cả niệm khởi là vọng tưởng, là không thật. Cho nên chúng ta giác ngộ được nó là cái hư ảo không phải thật ta. Do đó mà phá được mọi cái cố chấp về tâm. Đó là bước giác ngộ thứ hai.

Rồi cái thứ ba nữa là chúng ta hằng sống với cái tâm bản nhiên thanh tịnh. Nói hằng sống không có nghĩa là chúng ta nhớ chúng ta hằng sống mà chúng ta không bị sáu trần lôi cuốn chạy theo bên ngoài. Bởi không có bị lôi cuốn cho nên gọi là hằng sống với tâm bản nhiên thanh tịnh. Đó là cái kết quả cái giác. Cái giác này là cái giác lớn lao thấy được lẽ thật, thấy được chân lý. Khi chúng ta thấy được lẽ thật, thấy được chân lý thì đời sống của chúng ta, cái giác ngộ nó gần được thành công, gần được viên mãn. Như vậy chúng ta đã được thành công, được viên mãn, phải làm gì nữa. Thì phải làm lợi ích cho chúng sinh. Mà lợi ích cho chúng sinh làm bằng cách nào. Tức là phải làm sao cho mọi người chung quanh chúng ta phải có giác ngộ, hoặc ít, hoặc nhiều. Chớ không thể nào để cho họ mê muội, họ chìm đắm. Bởi vì trong kinh Phật đã từng dạy, nói rằng: “Chịu cái khổ thiêu đốt ở địa ngục chưa phải là khổ. Làm con lừa, làm con ngựa kéo xe cũng chưa phải là khổ. Mà cái khổ là si mê không biết lối đi mới là khổ”.

Như vâỵ thì tất cả cái đau khổ trong nhà Phật kể ra cái khổ nào to bằng cái khổ si mê. Bởi thấy si mê là khổ, muốn hết khổ Phật dạy chúng ta phải giác, phải không? Giác mới là hết khổ. Bây giờ điều này nếu đem ứng dụng với thế gian thì quí vị thấy có hay không? Nếu mà tất cả người dân chúng ta ai cũng đều có trình độ có kiến thức cao ngang trung học, đại học thì xứ sở chắc sẽ văn minh. Còn nếu mà dân chúng mình cứ dốt nát mù chữ thì dầu cho có của có tiền nhiều chắc cũng là chưa văn minh.

Như vậy cái giá trị của cuộc sống là ở kiến thức, sáng suốt cao siêu mới đưa giá trị con người lên cái địa vị cao siêu. Tu hành cũng vậy muốn thoát hết tất cả đau khổ không gì bằng là phải giác ngộ. Cho nên quí vị mới thấy Phật đưa ra hai bên. Bên này là vô minh, mà vô minh là nguồn gốc của sinh tử, của đau khổ phải không? Mà muốn hết cái vô minh, muốn hết cái đau khổ đó thì phải là minh. Tức là giác. Giác mới giải quyết được cái đau khổ muôn kiếp trầm luân. Còn nếu không giác thì không bao giờ giải quyết được.

Như vâỵ thì mê và giác là hai cái gốc. Hay vô minh và minh là hai cái gốc. Cái gốc của luân hồi và cái gốc của giải thoát. Rõ ràng như ban ngày. Bởi vậy cho nên chúng ta sợ đau khổ, sợ trầm luân thì chúng ta phải giác. Chỉ đó là con đường duy nhất chớ không phải làm cái gì khác. Làm cái gì khác cũng chưa đúng cái bản ý mà đức Phật đã dạy. Cho nên nói tới học đạo là nói tới giác ngộ. Mà giác ngộ tới phần sau này là giác ngộ bằng cách hằng sống với cái tâm bản nhiên thanh tịnh. Tức là với ông chủ hay là với bản lai diện mục của mình. Mình là cái bản lai diện mục, mình là ông chủ, chớ không còn có cái thứ hai.

Bởi vậy cho nên đây, bài kệ thứ mười của Thập Mục Ngưu Đồ. Bài kệ này nói rõ ý nghĩa đó. Tức là buông thỏng tay vào chợ.

            Lộ hung tiển túc nhập trần lai

            Phù thổ đồ khôi tiếu mãn tai.

            Bất dụng thần tiên chơn bí quyết,

            Trực giao khô mộc phóng hoa khai.

Dịch:

            Chân trần bày ngực thẳng vào thành,

            Tô đất trét bùn nụ cười thanh..

            Bí quyết thần tiên đâu cần đến,

            Cây khô cũng khiến nở hoa lành.

Như vậy người ta cứ nghĩ rằng: Người tu Phật tu Thiền để tiến lên giác ngộ mà cứ lo tu thì dường như mình là kẻ ích kỷ lo cho mình thôi. Lo cho mình được giác mà không nghĩ tới chúng sinh. Cho nên tới cái bài kệ chót này, chúng ta mới thấy tinh thần lợi tha không có giới hạn, nói rằng:

“Chân trần bày ngực thẳng vào thành”. Qua một thời gian điêu luyện tu hành, tâm mình được sáng suốt, được giác ngộ rồi, từ đó mình không còn có một nghi ngờ nào. Mình không còn khởi một tham luyến nào của trần tục nữa. Nhưng mà như vậy không có nghĩa là mình thoát ly trần tục mà mình phải lao mình vào trong trần tục. Không còn tham luyến, không còn dính mắc mà vẫn lao mình trong đó. Cho nên gọi là buông thỏng tay vào chợ. Chớ không phải nói tôi tu riết thành Tiên, thành Phật gì đó, đặng tôi đi về cõi Bồng lai tôi ở. Không phải vậy. Mà ở đây tu, ráng tu cho đi tới chỗ giác ngộ mà được vững chắc viên mãn. Rồi thì lúc đó lao mình vào trong cõi trần, làm lợi ích cho chúng sinh. Đó là tinh thần của Phật giáo. Chớ không phải là bi quan, là yếm thế. Mà là tích cực. Cho nên hình ảnh.

            “Chân trần bày ngực thẳng vào thành,

            Tô đất trét bùn nụ cười thanh.

“Chân trần bày ngực” nghĩa là mặc áo sao? Mặc áo thả cửa đó, rồi thẳng vào trong thành, thì hai câu đó nói lên cái gì. Nói là lúc này không còn khuôn mình trong giới luật, trong khuôn khổ nữa mà sống như tất cả kẻ phàm tục khác. Đi làm lợi ích cho chúng sinh mà quên mình, không còn bị khuôn ở trong cái hình thức, khuôn khổ giới luật, mà tùy phương tiện, tùy hoàn cảnh làm lợi cho chúng sinh thôi. Chớ không bị kẹt, bị mắc nữa. Đó là cái tinh thần gọi là tùy duyên đó, không phải hạn chế, không phải bắt buộc.

Rồi: “Tô đất trét bùn nụ cười thanh” là đi vào trong đó bị lem lấm, bị nhơ nhớp mà vẫn cười, chớ không có buồn, không có tủi. Nhưng mà nói ở đây đó, cũng xin nhắc lại. Gần đây có một số ông thầy, lâu lâu cũng mặc áo phạch ngực, cũng đi lang thang lại quán rươụ, lại quán cà phê, rồi cũng ngồi. Có ai phê bình: “Thầy sao không giữ giới luật”. Tôi lúc này còn cái gì nữa mà giữ. Tự tại rồi mà.

Thì cái đó là tự tại, mà là tự tại giả dối đó, lừa bịp đó. Còn tự tại thật thì nó khác. Nghĩa là trong đó giả sử “Tô đất trét bùn nụ cười thanh”. Dù có ai chỉ mặt mình chê nói ông thầy phá giới, nói ông thầy này hư ... thì vẫn cười, chớ không có một tí gì buồn. Coi chừng mình nói mình tự tại, vào quán ngôì, người ta lôi ra, người ta đuổi đi, mình nổi sân, muốn đánh lộn với người ta, đó thì sao? Thứ thật hay thứ giả?

Bởi vậy cho nên, người mà tới mức độ này thì dù cho cái cảnh nào bị người ta khinh khi, bị người ta miệt thị, bị người ta chê cười, mà mình vẫn thản nhiên tự tại thì đó mới là thứ thiệt.

Rồi: “Bí quyết thần tiên đâu cần đến”. Lúc đó không cần dùng bí quyết mầu nhiệm thần tiên nào hết. Mà chií với một cái tâm, cái tâm trong sáng giác ngộ, với lòng từ bi tràn trề, đem lại lợi ích cho chúng sinh, tùy cơ mà thuyết pháp. Tùy duyên mà làm cho người ta thức tỉnh. Chớ không dùng bùa, không dùng phép, không dùng những cái trường sinh bất tử gì để cứu người ta hết. Mà cứu dạy người ta để giác ngộ. Cứu dạy người ta để không có tạo nghiệp, không có chịu khổ nữa. Cho nên không dùng bí quyết của thần tiên. Tuy không dùng như vậy mà đã làm cho nhiều người có lợi ích rất là phi thường.

Nên cái câu: “Cây khô cũng khiến nở hoa lành”. Nghĩa là: “Trực giao khô mộc phóng hoa khai” đó. Nghĩa là mình đến với những người, cây khô là dụ cho những người chưa từng biết làm thiện. Chưa từng biết tu mà cũng làm cho họ phát tâm tu. Cũng làm cho họ biết nở cái tâm từ thiện. Như vậy thì cũng giống như cây khô mà mình làm cho nó trổ hoa.

Chớ còn mình bây giờ đi giáo hóa thì mình phải lựa, người nào làm sao, người nào mà có biết đi chùa, có quy y tam bảo, dạy cho họ tu. Còn những người chưa biết thì mình e dạy không được. Còn các vị này thì những người chưa từng có duyên lành, cũng khéo tạo duyên lành cho họ phát triển. Đó là cái đặc biệt.

Như vậy thì người tu theo Phật khi được kết quả tốt rồi, thì sẵn sàng bất kể cái xấu, cái dở, cái khổ đau đem đến mình. miễn làm sao cho chúng sinh được tỉnh, được giác, được tiến trên con đường đạo. Đó là thỏa mãn cái nguyện của mình.

Như vậy thì không có nên nghĩ rằng mình tu rồi thành Tiên, thành Phật. Thành Tiên thì về Bồng lai nghỉ, chơi cho vui. Thành Phật thì nhập Niết bàn, mình tự tại. Đừng có nghĩ như vậy mà chúng ta tu đến nơi đến chốn rồi, thì phải lao mình vào trong cái khổ đau của chúng sinh. Lăn lóc trong cái nhơ nhớp của mọi người để mà giáo hóa, làm lợi ích cho họ. Như vậy thì cái tâm đó, trong lúc tu mà còn có chút chút ích kỷ đó thì hợp hay không? Bởi vậy nên nghe người tu nào mà nói cái giọng ích kỷ đó là tôi không bằng lòng tí nào hết. Tôi phát quạu lên liền. Mình đã là cái người nguyện đem cả một cuộc đời tu hành để làm lợi ích cho chúng sinh mà tâm hồn mình còn có một chút xíu hà, bằng gan con tôm, con tép thì làm sao được, phải không? Cho nên phải mở cái tâm rộng lớn, sẵn sàng hy sinh đơì mình để làm lợi ích cho chúng sinh thì mới xứng đáng là người tu. Tu mà hẹp hòi, nhỏ mọn, so đo thì cái đó không xứng đáng chút nào hết. Bởi vậy nghe cái đó là bực bội liền, không có vui. Bởi vì thấy mình đang đi trên con đường rất là cao thượng mà lại mang những thứ hèn hạ như vậy. Hai thứ không hợp. Hiểu như vậy thì mới thấy tâm hồn của người tu là một tâm hồn cao siêu. Tâm hồn khoáng đại. Chớ không phải là tầm thường. Đó là tôi nói kết quả của người tu như vậy. Đó là cái kết quả chánh.

Bây giờ nói đến kết  quả phụ. Người biết tu Thiền từ buổi ban đầu, tuy rằng mọi việc của họ tu chưa đến nơi đến chốn. Nhưng mà có thể có những kết quả. Một là tạo con người đủ nghị lực, thắng mọi thói hư tật xấu của thân tâm. Người tu thiền là tự tạo cho mình đầy đủ nghị lực để thắng những thói hư, những tật xấu mà mình đang mang đang chứa ở thân tâm mình. Bởi vậy cho nên bước vào tu thiền là chúng ta thấy bắt đầu có những cái chiến đấu, mà chiến đấu âm thầm không ai thấy. Thí dụ: Như quí vị chưa quen ngồi hai tiếng đồng hồ. Vô đây bắt ngồi hai tiếng đồng hồ, thì quí vị có chiến đấu không. Đó là bắt đầu chiến đấu. Thắng. Thắng ai? Thắng cái lười biếng, nhút nhát của mình phải không? Sợ đau, sợ nhức, sợ khổ gì đó. Qua một cơn ngồi đó để chịu đựng, để thắng nó. Thắng không có ai thấy, mình tự biết thôi. Cái thắng đó không ai thấy. Đó là thắng về thân.

Rồi thắng về tâm thì lâu nay ngồi đâu thì nghĩ tứ tung, chạy đầu này, đầu kia. Nghĩa là tâm nó ngông cuồng, nó chạy như là con ngựa chạy sổng vậy. Chạy tứ tung. Bây giờ không cho chạy. Vừa thấy mặt nó chạy cái rầy. Thấy chạy cái rầy. Chằng chằng, chằng chằng nó. Đó là mình cố mình thắng nó. Mà nếu thắng được thân, cái gì khó, cái gì khổ mình có thể qua được hết. Bắt ăn chay là cái khó ở miệng rồi. Bắt ngồi thiền thì nó khó mấy cái. Ngồi tréo chân là khó hai cái chân, đau. Rồi ngồi thẳng cái lưng, ngồi thì ai cũng ngồi một lát cong lên cong xuống cho thoải mái. Cái này bắt ngồi thẳng thì cũng là cái khổ nữa. Rồi không cho nhúc nhích. Nhiều khi muỗi cắn, nhiều khi con gì bò ngứa ngứa không cho cục cựa. Như vậy là cả một cái gì phải chiến đấu chớ không phải là thường. Chiến đấu vơí những cái chỉ mình biết thôi, không ai biết hết. Không có khoe công với người nào được hết. Chỉ có mình biết mình đang thắng. Như vậy để thấy tập cho mình có một cái nghị lực để thắng mình. Chớ còn không thì con người là yếu đuối. Chiều chuộng cái tật xấu, dở của mình lắm.

Thí dụ: Như mình bắt lao động nhiều cái nó mệt. Mệt cái đòi cho một ngày đi chơi phải không? Như vậy đó là mình chiều ai? Chiều cái chú thân này. Chú đòi đi chơi. Đi chơi rồi, thân được đi chơi một bữa thì cũng được. Mà đòi đi chơi không đâu đủ, phải ăn ngon bù. Phải cho ăn ngon, đó là cái miệng. Bây giờ vô đây bắt ăn chay, hành phạt cái miệng. Rồi không cho đi chơi, bắt phải ngồi dù đau cũng ráng. Đó là thắng được cái thân, rồi thắng luôn cái tâm nữa. Thì đó là một nghị lực. Chớ không phải chuyện thường. Ai làm việc đó là một con người đầy đủ nghị lực. Mà nếu đầy đủ nghị lực thì thói hư tật xấu mình chiến thắng không khó. Đó là nói cái thứ nhất.

Cái thứ hai là cái lợi ích làm việc. Chăm chỉ vào công tác của mình không có lơ là. Chính nhờ vào cái chăm chỉ đó mà công tác mình làm được chu đáo, làm được tinh vi. Đó là kết quả. Hễ làm việc gì, thí dụ như mấy chú may, ngồi thấy cái lằn chỉ mình may, miếng vải mình may. Không có nghĩ chuyện này chuyện kia, ai nói gì, làm gì mặc. Mình cứ nhớ cái may của mình đó, thì chắc chắn rằng đường chỉ sẽ thẳng phải không? Cái may sẽ khéo. Thì như vậy chính cái chăm chỉ vào một công tác thì nó đưa mình được một kết quả là cái công tác mình càng ngày càng tinh vi hơn. Và càng ngày càng được tốt đẹp và xứng đáng với cái công lao động một giờ của mình. Đó là kết quả thứ hai.

Kết quả thứ ba là do mình chiến thắng được hay là biết rõ cái tâm hư dối. Tâm niệm là hư dối, là tạm bợ cho nên mình không cố chấp. Bởi mình không cố chấp cho nên mình bao dung, mình tha thứ được mọi người nó dễ dàng. Đó là kết quả thứ ba.

Kết quả thứ tư, từ cái chỗ tu hành cho nên tâm mình không còn có những niệm xấu, những tật hư, tật hư thói xấu mình đã thắng được thì nó sẽ mở màn cho lòng thương. Tức là có tâm từ bi đối với mọi người. Mình thương xót không giới hạn. Bởi vì mình đã thấy, đã biết rõ ràng ta đang mê lầm, chấp thân, chấp tâm. Rồi tất cả bao nhiêu thứ đó họ tạo nên bao nhiêu thứ nghiệp, rồi phải trầm luân sinh tử. Mình bây giờ mình chiến thắng được những cái đó thì mình dễ có lòng thương. Thương người, thương vật không có bị giới hạn ở đâu hết. Đó là kết quả của sự tu.

Như vậy tới đây là chấm dứt bài, mà tên là gì? Chủ trương khôi phục Thiền tông thời Lý Trần và đường lối tu. Tới đây là chấm dứt.

Trước khi kết thúc, tôi có vài lời để nhắc chung cho tất cả Tăng Ni và Phật tử thấy. Mọi người chúng ta đã có phúc duyên lành, cho nên chúng ta gặp được Phật pháp. Tức là phương pháp dạy cho chúng ta được giác ngộ, mà chúng ta đã biết rõ rằng chúng ta giác ngộ là chúng ta khỏi bị mê lầm. Khỏi bị tạo những nghiệp để trầm luân sinh tử nữa. Chúng ta giác ngộ thì chúng ta mới thương người, thương cuộc đời, thương chúng sinh. Bởi vì ai ở trên thế gian này mà còn mê thì chúng ta đều thương hết. Cũng như đêm tối đường hiểm nguy, bao nhiêu người đang quờ quạng cùng tìm lối đi trong lúc đêm tối nguy hiểm và gai góc. Bây giờ chúng ta được cái phước, chúng ta nắm được ngọn đuốc, nắm được ngọn đuốc là chúng ta đã phá được đêm tối và chúng ta tránh được những hiểm nguy hầm hố, gai góc chúng ta tránh được. Nhưng bên cạnh chúng ta còn trăm ngàn muôn ức người không có đuốc mà họ phải quờ quạng đi, thì chúng ta làm sao. Chúng ta có vui cười rằng mình sung sướng có đuốc mình đi, cho nên mọi người họ không có đuốc thì kệ họ, mình cứ đi ra khỏi chỗ nguy hiểm đêm tối này. Hay là chúng ta vẫn biết mọi người quờ quạng đi trong đêm tối khổ sở đó nhưng bản thân người nào họ cũng có mang cây đuốc sau lưng hết. Mà họ không có (lửa?) đuốc để mồi. Bây giờ mình có cây đuốc sáng, mình nở nào mà cầm đi tuốt ra để mặc họ, họ có đuốc mà họ chịu tối, họ khổ sở. Mình đành lòng không? Chắc rằng mình không đành lòng mà mình phải đem đuốc của mình mồi cho người này, mồi cho người kia, mồi người nọ để họ cùng sáng, họ cùng đi dễ dàng ra chỗ nguy hiểm. Như vậy đó, cái lòng thương của mình khi nào mình sáng mà người ta tối, phải không?

Cũng trong cái rừng nguy hiểm đó mà một người sáng trong đêm đen, họ tránh được nguy hiểm. Còn người tối trong đêm đen, họ sẽ va vào những hiểm nguy, đau khổ. Cho nên thương người ta không phải là mình đi đốt đuốc, róc cây, chặt gai, lấp hố đểhọ khỏi nguy hiểm. Mà chỉ cần (mồi?) cho họ cây đuốc rồi họ đủ sức để họ tránh những hiểm nguy đó.

Như vậy chúng ta (mồi?) cho cây đuốc dễ hay là chúng ta đi róc hết gai. Hay là chúng ta đi lấp hết hầm hố là dễ? Cho họ mồi cây đuốc dễ quá phải không? Mà chính cho mồi cây đuốc là mình cứu họ thật sự. Chớ còn lấp hố nè, róc gai. Nhưng mà cây không gai, họ  không thấy đường họ vẫn đụng lổ đầu vậy, phải không? Như vậy thì cũng chưa chắc đã cứu được họ. Như vậy trong đêm đen, rừng nguy hiểm. Chúng ta có được ngọn đuốc cầm tay, đủ điều kiện chúng ta ra khỏi rừng. Nhưng mà bạn bè thân quyến, mọi người chung quanh chúng ta còn tối tăm, thiếu phương tiện. Tức là chỉ thiếu có ánh sáng, có ngọn lửa để mồi. Thì bây giờ chịu khó chúng ta cho họ mồi, rồi họ cùng đốt đuốc sáng cái rừng nguy hiểm đó. Rồi ai cũng vui vẻ lao lách, đi ra khỏi rừng. Chừng đó vui vẻ và đẹp đẽ biết chừng nào, phải không?

Đó mục đích của người tu Phật, nhất là người xuất gia là phải làm việc đó. Chớ không phải làm việc khác. Vì vậy cho nên chúng ta học, chúng ta tu để tự cứu mình và cứu người. Chớ không phải cứu mình không là đủ.

Đó là lời nhắc nhở của tôi. Mong tất cả quí vị hiểu và cảm thông. Để rồi chúng ta làm cho được mục đích của chúng ta.

]

 

THIỀN TÔNG VIỆT NAM