UYỂN LĂNG LỤC

H.T THÍCH THANH TỪ

TIỂU SỬ

THIỀN SƯ HOÀNG BÁ

CHÁNH VĂN:  

Ngài hiệu Hy Vận, người tỉnh Mân (tỉnh Phước Kiến), Hồng Châu, thuở nhỏ xuất gia tại bổn châu trên núi Hoàng Bá. Trên trán Ngài có cục thịt nổi vun lên như hạt châu, âm thanh trong trẻo, ý chí đạm bạc.

GIẢNG: 

Các tỉnh của Trung Hoa rất lớn nên trong tỉnh có chia ra Châu, Huyện. Châu là chỗ thị tứ, thành phố của tỉnh, dưới Châu là Huyện. Ngài người tỉnh Phước Kiến, tướng tốt to lớn, trên trán có nổi cục thịt đỏ. Đây là những phước tướng đặc biệt. Âm thanh trong trẻo, ý chí đạm bạc, thích sống đơn giản.

CHÁNH VĂN:

Đi dạo núi Thiên Thai, Ngài gặp một vị Tăng nói chuyện với nhau như đã quen biết từ xưa, nhìn kỹ là người Mục quang xạ. Hai người cùng đi gặp khe suối, nước đầy chảy mạnh, Ngài lột mũ chống gậy dừng lại, vị Tăng kia thúc Ngài đồng qua.

Ngài bảo:

-         Huynh cần qua thì tự qua.

Vị Tăng kia liền vén y bước đi trên sóng như đi trên  đất bằng. Qua đến bờ vị Tăng kia xoay lại hối:

-         Qua đây! Qua đây!

Ngài bảo:

-         Dốt! Ấy tự rõ. Tôi sớm biết sẽ chặt bắp đùi anh.

Vị Tăng kia khen:

-         Thật là pháp khí Đại thừa, tôi không bì kịp.

Nói xong không thấy vị Tăng ấy nữa.

GIẢNG: 

Đây là điểm đặc biệt của nhà Thiền. Mục quang xạ tức là người đã chết. Mục là con mắt, quang là áng sáng, xạ là rơi, là rớt. Đôi mắt mất ánh sáng là chỉ người chết. Ngài gặp vị Tăng thấy quen nhưng nhìn kỹ thì biết đã chết rồi, bây giờ do duyên cũ nên cùng đi với Ngài. Hai người tới bờ suối lớn, nước suối chảy mạnh, vị Tăng muốn trổ tài, bảo Ngài qua. Ngài là Thiền sư không có phép mầu gì hết, nên nói huynh qua được cứ qua. Vị Tăng nọ vén áo bước đi trên sóng như đi trên đất bằng. Qua bờ kia, vị Tăng xoay lại thúc “Qua đây, qua đây”.

Nếu là chúng ta, thấy bạn đi trên nước như vậy chắc sẽ khiếp vía, muốn đảnh lễ ngay. Nhưng ngược lại, Ngài nghe thúc liền nói  Dốt! Ấy tự rõ”. Tự rõ là sao? Người tu nếu có thần thông, có phép lạ thì tự biết chớ đừng khoe, khoe là không tốt. Cho nên Ngài quở dốt, do dốt mới nói như thế. Mình có thần thông thì tự biết, khoe với người ta làm chi. “Nếu tôi sớm biết sẽ chặt bắp đùi anh”, nếu hồi nảy tôi biết anh dùng thần thông sẽ chặt đùi anh cho coi. Bị chê vậy mà vị Tăng ấy lại khen thiền sư “thật là pháp khí đại thừa, tôi không bì kịp”. Sao lạ vậy? Pháp khí đại thừa có đặc biệt gì? Đây là những điều quan trọng người tu thiền không nên lầm lẫn.

Hầu hết người tu ai cũng thích có thần thông. Nếu hôm nào mình ngồi thiền, bỗng phát quang rồi bay lên không trung, chắc là thích lắm. Bao nhiêu đó đủ cho huynh đệ phục lăn rồi. Đây là điều nhà Thiền cấm kỵ nhất. Tại sao vậy? Bởi vì người tu Thiền cốt nhìn cho ra, thấy cho được thể tánh bất sanh bất diệt hay Phật tánh của mình. Đó là gốc của sự tu, chớ không cầu, không luyện thần thông phép lạ. Nếu cầu luyện thần thông phép lạ là lệ thuộc ở bên ngoài, không phải sống trở về tánh giác, mà chỉ có trở về tánh giác mới thành Phật. Thâm ý của nhà Thiền không phải tập luyện thần thông, mà tu thế nào để sống trở lại với tâm chân thật của chính mình.

Ở chỗ khác có kể về một Thiền sư sống trên núi. Lúc Ngài xuống núi, gặp một đạo sĩ tu tiên, mới kết bạn đồng hành. Hôm nọ cùng đi với nhau tới con sông nước chảy mạnh, mà đò đã qua bên kia không có ở bến bên này. Vị Thiền sư dừng lại chờ, vị đạo sĩ kia thấy vậy xúi đi qua. Thiền sư nói “huynh đi được thì cứ đi, tôi chờ đò qua mới đi”. Vị đạo sĩ vén áo bước trên mặt nước đi qua bên kia. Đứng bên kia đạo sĩ nhìn thấy Thiền sư còn chờ đò, ông cười ngạo nghễ rồi đứng chờ. Lát sau Thiền sư xuống đò qua sông. Tới nơi Thiền sư hỏi đạo sĩ “huynh tập luyện đi được trên nước, thời gian bao lâu?” Đạo sĩ đáp “tôi tập tới ba mươi năm mới đi được”. Thiền sư cười bảo “công phu ba mươi năm của huynh giá đáng có hai xu”.

Chúng ta nghe câu nói này thấy thế nào? Rõ ràng các Thiền sư không chú trọng đến sự luyện tập thần thông. Tại sao nhà Thiền lại coi thường thần thông như vậy? Thường thường nhà Phật nói “thần thông diệu dụng”, tức thần thông là dụng mầu nhiệm chớ không phải là giá trị chân lý, mà người tu Phật phải đạt được chân lý chớ không phải tìm sự mầu nhiệm tạm thời.

Như Ngài Mục Kiền Liên là thần thông đệ nhất trong đệ tử Phật, nhưng tới khi mẹ Ngài chết sanh cõi dữ, Ngài dùng thiên nhãn tìm gặp mẹ rồi, thấy mẹ đói quá, Ngài xin được bát cơm, vận thần thông đến dâng cho mẹ. Khi bà vừa bưng bát cơm, liền lấy tay áo che lại sợ người ta giựt, sau đó bà bốc cơm bỏ vô miệng, cơm hóa thành than ăn không được. Tại sao lúc đó Ngài không dùng thần thông thổi tắt lửa cho mẹ ăn, mà lại đứng khóc. Rõ ràng thần thông thua cái nghiệp. Nghiệp tham của bà quá nặng. Khi nghiệp tham quá nặng thì cơm hóa ra lửa, thần thông của ngài Mục Kiền Liên không thể cứu được nghiệp tham của bà, nên Tôn giả đành phải khóc trở về. Đó là bất lực thứ nhất.

Bất lực thứ hai, đến khi Ngài sắp từ giã cõi đời bị bọn cướp vây đánh. Sao lúc đó Ngài không bay đi, mà phải chịu đòn nhừ tử. Vì Ngài biết mình không còn trở lại cõi đời nữa nên phải trả nghiệp cũ cho xong mới có thể xả báo thân được. Sau khi bọn cướp bỏ đi, Ngài mới vận thần thông về đảnh lễ Phật, ít hôm sau thì mất. Khi đó các thầy tỳ kheo hỏi Phật vì sao Ngài Mục Kiền Liên có thần thông mà không bay đi để thoát nạn? Phật trả lời nghiệp cũ của Mục Kiền Liên thuở xưa còn lại. Đây là thân chót cho nên tất cả nợ cũ trả hết mới được vô sanh, Niết-bàn. Nếu thần thông không cứu được nghiệp, thì nó quí hay không quí? Thần thông chỉ dùng tạm thôi, có gì quan trọng. Nhưng người phàm tục rất trọng thần thông, nghe ai có thần thông thì lạy lên, lạy xuống không ngán chút nào hết, vì quá quí trọng thần thông. Đó là điểm khác nhau giữa người đời và người tu theo Phật.

Trong kinh A Hàm kể, vua Ba Tư Nặc thưa với Phật trong nước ông có một vùng người dân rất thích thần thông huyền bí, không thèm nghe đạo lý, vì vậy xin đức Phật dùng thần thông giáo hóa họ. Đức Phật trả lời “Ta không dùng thần thông giáo hóa, mà chỉ dùng đạo thông thôi”. Như vậy từ Đức Phật cho tới đệ tử Ngài, những vị tu hành chân chánh đều dùng đạo thông làm gốc, còn thần thông chỉ là phương tiện phụ thôi.

Người thời nay vì không biết, cho cái gì kỳ quặc, lạ lùng là quí, không biết gốc quí báu ở chỗ thấu suốt đạo lý, thấy được lẽ thật. Người học đạo Phật là học chân lý, tìm nhận cho ra chân lý. Còn người ham huyền bí, những thứ lạ lùng thì chưa phải là người chân chánh học Phật. Hiểu như vậy chúng ta mới hiểu ý của đoạn này, nếu không chúng ta sẽ lấy làm lạ, người có thần thông tại sao bị xem thường, người không có thần thông lại được khen.

Thêm một chuyện nữa về thần thông. Có một ngoại đạo tu chứng được ngũ thông, tức là có thiên nhãn, thiên nhĩ, tha tâm, thần túc, túc mạng. Ông giảng kinh người ta khen rất hay, tới vua trời Đế Thích cũng mê nữa. Hôm đó, nghe giảng kinh xong vua trời Đế Thích ngồi khóc. Ông thấy lạ quá, liền hỏi “tại sao hôm nay nghe tôi giảng Ngài lại khóc?” Trời Đế Thích đáp “Ngài giảng thật hay nhưng tôi biết mạng sống Ngài sắp hết, tôi thương tiếc nên khóc”. Nghe vậy vị ấy hoảng, hỏi Đế Thích làm sao để khỏi chết? Trời Đế Thích giới thiệu “nếu ông muốn khỏi chết phải tìm đến chỗ Phật Thích Ca, Ngài sẽ chỉ cho phương pháp khỏi chết”. Nghe vậy vị ấy mừng quá hỏi “bây giờ Phật Thích Ca ở đâu?” Trời Đế Thích giới thiệu đang ở tại Tinh xá Trúc Lâm. Vị ấy vận thần thông đi đến chỗ Phật. Ông đi trên mây được một đổi thì nghĩ, mình tới Phật mà không có gì cúng dường khó coi quá. Khi ấy nhìn xuống thấy hai cây ngô đồng trổ hoa thật đẹp, ông vận thần thông nhổ hai cây để trên hai tay rồi bay đến chỗ Phật.

Tới Trúc Lâm hạ xuống, ông cầm hai cây ngô đồng dâng cúng Phật. Khi dâng cúng ông hỏi “Bạch Thế Tôn, làm thế nào để khỏi chết?” Phật bảo “buông”. Ông buông một tay, rớt cây ngô đồng xuống. Phật bảo “buông”, ông buông một tay nữa, rớt cây ngô đồng thứ hai xuống. Phật lại bảo “buông”, ông ngẩn ngơ không biết buông cái gì nữa, nên hỏi Phật “con buông hết hai tay, rớt hết hai cây ngô đồng xuống, bây giờ còn gì nữa mà Phật bảo buông”. Phật nói “không phải Ta bảo ngươi buông cây ngô đồng, mà buông thứ nhất là buông sáu trần, đừng cho nó dính. Buông thứ hai là buông sáu căn, đừng chạy theo sáu trần. Buông thứ ba là buông sáu thức, đừng cho nó dấy động. Buông ba cái đó thì ông khỏi chết”. Ngay đó vị kia liền ngộ ra, trở về tu và chứng quả A La Hán, không còn sanh tử nữa.

Như vậy mới thấy thần thông không cứu được mình. Đi trên mây xanh, nhổ ngô đồng cầm trên tay, vận dụng đủ thứ hết, mà không chống được ma sanh tử. Gốc của đạo Phật là tu giải thoát sanh tử. Muốn giải thoát sanh tử trước phải giác ngộ cái không sanh tử, để sống với nó. Đó là chúng ta tu, chớ không phải luyện tập thần thông, luyện tập bùa chú, đó không phải là phương pháp cứu mình.

CHÁNH VĂN:   

Sau Ngài đến Kinh đô, nhờ người mách đến tham với Tổ Bá Trượng.

Ngài hỏi Bá Trượng:

-         Từ trước Tông thừa chỉ dạy thế nào?

Bá Trượng lặng thinh. Ngài thưa:

-         Không thể dạy người sau dứt hẳn mất.

Bá Trượng bảo:

-         Sẽ nói riêng với ông.

Bá Trượng đứng dậy đi vào phương trượng.

Ngài cũng đi theo sau thưa:

-         Con đến riêng một mình.

Bá Trượng bảo:

- Nếu vậy ông sau sẽ không cô phụ ta.

GIẢNG: 

Ngài đi tới Tổ Bá Trượng hỏi “Từ trước Tông thừa chỉ dạy thế nào?” Tông thừa hay Thiền tông cũng tương tự như nhau. Hỏi Thiền tông chỉ dạy thế nào? Tổ Bá Trượng lặng thinh không nói. Như vậy có tàn nhẫn không? Người ta tha thiết hỏi đạo lý mà không nói gì hết.

Ngài Hoàng Bá thưa “không thể dạy người sau dứt hẳn mất”, nếu không dạy người thì sau này còn ai nối tiếp. Bá Trượng bảo sẽ nói riêng với ông. Vậy trọng tâm chỗ chỉ dạy Tông thừa thế nào? Bá Trượng làm thinh là dạy chưa, có nói chỗ yếu lý của Tông thừa không? Chỗ yếu lý của Tông thừa vượt ngoài đối đãi, mà ngôn ngữ là đối đãi, nên mở miệng nói thì sai, vì vậy Tổ làm thinh. Ngài Hoàng Bá sợ như vậy người sau không thể học hiểu? Tổ Bá Trượng bảo sẽ nói riêng với ông. Cho nên Tổ đi vào phương trượng, Hoàng Bá đi theo.

Ở đây chúng ta không thấy Tổ Bá Trượng dạy cái gì, cũng không thấy ngài Hoàng Bá nói ngộ chi, mà thầy trò lại có chỗ kế thừa. Đó là chỗ đặc biệt của nhà thiền. Vì chỗ lặng thinh đó, không thể nào hiểu nổi, mà không hiểu nổi là đúng hay không đúng? Vừa khởi hiểu là đã xa muôn dặm, cho nên ngay chỗ lặng thinh mà nhận thì được. Ngài Bá Trượng lặng thinh, thiền sư Hoàng Bá có hội ý không? Ngài bảo “không thể dạy người sau sẽ dứt hẳn mất”, Bá Trượng bảo sẽ nói riêng với ông. Tổ Bá Trượng đi vào phương trượng Ngài cùng đi theo sau, nói “con đến riêng một mình đây”. Bá Trượng bảo “nếu vậy ông sau sẽ không cô phụ ta”. Tổ dạy cái gì mà nói không cô phụ ta? Thầy trò đối xử rất bình thường thì chỗ nào mà thâm nhập được, lại nói sẽ không cô phụ ta?

Chỗ còn nói năng là còn hai, bặt nói năng thì hai hay một? Vì vậy, Hoàng Bá nói con tới một mình thôi, Tổ bảo sau ông sẽ không cô phụ ta. Nói một tí thôi mà thật là nhẹ nhàng nhanh chóng, nghe liền hiểu nhau, coi như thầy trò đã thông cảm. Thế là ngài Hoàng Bá được Tổ Bá Trượng ấn chứng.

CHÁNH VĂN:

Một hôm, Bá Trượng bảo:

-         Ở đâu đến đây?

Ngài đáp:

-         Nhổ nấm dưới Đại Hùng đến.

GIẢNG: 

Núi Bá Trượng tên là núi Đại Hùng, vì nó cao tới một trăm trượng nên người ta gọi là Bá Trượng.

Tổ hỏi ngươi đi đâu? Đáp con nhổ nấm dưới Đại Hùng đến.

CHÁNH VĂN:

Bá Trượng lại bảo:

-         Lại thấy đại trùng chăng?

Ngài bèn làm tiếng cọp rống. Bá Trượng cầm búa thủ thế.

Ngài bèn vỗ vào chân Bá Trượng một cái. Bá Trượng cười to bỏ đi.

GIẢNG: 

Đại trùng là con cọp. Tổ hỏi thấy cọp không thì Ngài làm tiếng cọp rống lên. Nghe rống, Tổ Bá Trượng cầm búa thủ thế. Như vậy là đấu võ hay làm gì? Coi như trường đấu võ vậy, không nói qua bàn lại gì hết, chỉ có những hiện tượng lạ lùng. Khi Bá Trượng cầm búa thủ thế, Ngài bèn vỗ vào chân Bá Trượng một cái. Bá Trượng cười to bỏ đi. Đã thủ thế mà vẫn bị vỗ một cái vào bắp đùi.

CHÁNH VĂN:  

Bá Trượng thượng đường bảo đại chúng:

Dưới núi Đại Hùng có một đại trùng, các ông nên xem. Lão Bá Trượng này hôm nay đích thân bỗng gặp và bị cắn một cái.

GIẢNG: 

Gặp đại trùng tức gặp cọp, bị cọp cắn một cái. Ngài gặp cọp ở đâu, cắn lúc nào? Đó là chỗ ý nghĩa thầm lặng, không phải chỗ suy gẫm, lý luận thế này thế nọ. Chỉ thầm lặng nhận và trình một cách hết sức giản đơn. Hỏi ông ở đâu tới, nói con nhổ nấm dưới chân núi Đại Hùng lên. Hỏi có thấy cọp không, nói dạ thấy. Cọp đây là cọp nào? Phải hiểu được con cọp này mới hiểu chặn sau. Nghe nói thấy cọp, Ngài thủ thế. Thủ thế thì cọp chụp cho một cái. Như vậy là sao? Thấy đây là thấy tận nơi, không phải thấy bằng lý giải, bằng tưởng tượng cho nên không có lời. Cái Ngài thấy là cái Ngài đã sống được, không phải cái lý giải để phân biệt đúng sai, hay dở. Bị thiền sư Hoàng Bá chụp mà Ngài Bá Trượng mừng vì đây là cọp thật, nên Tổ khoe với chúng các ông nên biết dưới núi Đại Hùng có con cọp, ta mới bị nó cắn một cái. Ý nói trong hội chúng có một người đã lãnh hội được yếu chỉ và trình cho ta thấy rồi. Đó là cách ấn chứng khéo léo, song người đời nghe qua không hiểu gì hết. Đây là điểm đặc biệt trong nhà Thiền.

Khi được Tổ Bá Trượng ấn chứng rồi, từ đây ngài Hoàng Bá bắt đầu đi tham vấn các nơi.

CHÁNH VĂN:  

Lúc Ngài ở chỗ Tổ Nam Tuyền, một hôm toàn chúng đi hái trà. Nam Tuyền hỏi:

-         Đi đâu?

Ngài thưa:

-         Đi hái trà.

Nam Tuyền hỏi:

-         Đem cái gì hái?

Ngài đưa con dao lên. Nam Tuyền bảo:

-         Đại gia hái trà đi.

Một hôm Nam Tuyền bảo Ngài:

-         Lão tăng ngẫu hứng làm bài ca “chăn trâu”, mời Trưởng lão hòa.

Ngài thưa:

-         Tôi tự có thầy rồi.

Ngài từ giã đi nơi khác. Nam Tuyền tiễn đến cổng, cầm chiếc mũ của Ngài đưa lên hỏi:

-         Trưởng lão thân to lớn mà chiếc mũ rất nhỏ vậy?

Ngài thưa:

-         Tuy nhiên như thế, đại thiên thế giới đều ở trong ấy.

Nam Tuyền bảo:

-         Vương lão sư vậy.

Ngài bèn đội mũ ra đi.

GIẢNG: 

Nam Tuyền và Bá Trượng đều là đồ đệ của Mã Tổ. Khi đi hái trà, Ngài Nam Tuyền hỏi đem cái gì hái. Ngài đưa con dao lên, Nam Tuyền bảo cả nhà đi hái trà đi. Hỏi đem cái gì hái, thường thường mình có cái gì đưa cái ấy, chuyện hết sức bình thường. Hoàng Bá đưa con dao lên, Nam Tuyền bảo đại gia hái trà đi, không nói thêm câu nào. Như vậy chấp nhận hay không chấp nhận? Nhà thiền không dùng ngôn ngữ, chỉ dùng hình ảnh để nói lên chỗ đó không có ngôn ngữ, cho nên ngài Nam Tuyền đã chấp nhận.

Một hôm Nam Tuyền bảo lão tăng ngẫu hứng làm bài ca chăn trâu, mời trưởng lão hòa. Ngài thưa tôi tự có thầy rồi. Tại sao mời hòa bài ca chăn trâu lại đáp tôi có thầy rồi. Nói tôi có bài ca chăn trâu mời trưởng lão hòa, tức là mời ngài vào dòng phái của tôi, cùng truyền bá Phật pháp. Ngài thưa tôi có thầy rồi, nghĩa là từ chối.

Bây giờ Ngài sửa soạn từ giã Nam Tuyền đi. Đến cổng, Nam Tuyền cầm chiếc mũ nói trưởng lão thân to lớn mà chiếc mũ rất nhỏ vậy. Câu này là câu dọ dẫm lần chót. Ngài đáp rất khéo, tuy nhiên như thế, cả đại thiên thế giới đều ở trong ấy. Tuy tướng mạo nó nhỏ vậy, mà trùm cả đại thiên sa giới. Do đó ngài Nam Tuyền cũng phải nể. Đó là những câu chuyện đối đáp khi tham vấn những bậc thiện tri thức. Rất là khéo, rất là đặc biệt.

CHÁNH VĂN:  

Sau, Ngài ở Hồng Châu chùa Đại An, đồ chúng tìm đến rất đông.

Tướng quốc Bùi Hưu trấn Uyển Lăng lập đại thiền uyển thỉnh Ngài đến thuyết pháp. Vì Ngài quá mến núi cũ nên để hiệu Hoàng Bá.

GIẢNG: 

Lúc Ngài ở tại Uyển Lăng, đã có những pháp thoại này.

CHÁNH VĂN:  

Một hôm, thượng đường đại chúng vân tập, Ngài bảo:

Toàn là bọn ăn hèm, thế mà xưng hành khước để cho người chê cười. Chỉ cam thấy một ngàn tám trăm người đi chớ không chịu sự ồn náo. Tôi khi đi hành khước hoặc gặp dưới rễ cỏ có một cái ấy là đem hết tâm tư mà xem nó. Nếu biết ngứa ngáy khả dĩ lấy đãy đựng gạo cúng dường. Trong lúc đó, nếu dễ dàng như các ông hiện giờ thì làm gì có việc ngày nay. Trong nước Đại Đường chẳng có Thiền sư sao?

Có một vị Tăng ra hỏi:

Bậc tôn túc ở các nơi họp chúng chỉ dạy, tại sao nói không Thiền sư?

Ngài bảo:

Chẳng nói không Thiền, chỉ nói không Sư. Xà lê chẳng thấy sao, dưới Mã Tổ Đại Sư có tám mươi bốn người ngồi đạo tràng, song được chánh nhãn của Mã Tổ chỉ có hai ba người, Hòa thượng Lô Sơn là một trong số ấy.

GIẢNG: 

Tại sao người xưa lại có những lời nói hơi thô lỗ, cả chúng mà nói toàn là bọn ăn hèm. Cái gì ăn hèm? Ở Việt Nam hồi xưa hay nấu rượu, bả rượu gọi là hèm, dùng cho heo ăn. Ngài nói toàn là bọn ăn hèm, tức bọn con lợn. Câu nói này nhiều người trách, tại sao Ngài nói những lời khinh bạc chúng quá vậy. Nhưng chúng ta phải hiểu Ngài muốn khích lệ, nhắc nhở mọi người cố gắng tu. Nhắc nhở mạnh mẽ như vậy, người ta mới có tâm vươn lên, nếu nói nhè nhẹ người ta coi thường. Vì vậy Ngài nói đã là bọn ăn hèm mà xưng hành khước cho người chê cười.

Ngài nói “Chỉ cam thấy một ngàn tám trăm người đi chớ không chịu sự ồn náo”. Thà là các ông bỏ đi, chớ còn ở đông ồn náo, ta không thích.

Ngài nhắc lại chuyện đi hành khước của Ngài. “Tôi khi đi hành khước, hoặc gặp dưới rễ cỏ có một cái ấy là đem hết tâm tư mà xem nó. Nếu biết ngứa ngáy khả dĩ lấy đãy đựng gạo cúng dường”. Ngài đi hành khước tức là đi tìm học nơi này nơi kia, gặp dưới rễ cỏ có một cái ấy, dưới rễ cỏ tức là một vật nhỏ nhất, tầm thường nhất, nếu thấy hơi lạ là đem hết tâm tư xem nó, tức là đem hết tâm tư nghiền ngẫm để thấu đạt nó.

“Nếu biết ngứa ngáy khả dĩ lấy đãy đựng gạo cúng dường”. Nếu nghiền gẫm thấy có gì hay, thì mới có thể nhận người cúng dường. Ngài đi hành khước, gặp Thiền sư có lời đạo lý, liền đem hết tâm tư xem xét nghiền ngẫm, chớ không lôi thôi. Như vậy mới thấy đạo. Còn chúng ta ngày nay thì sao? Tới chỗ nào thấy vui thích thì ở, chớ không chịu nghiền ngẫm những cái hay, những điều sâu sắc. Người xưa dù gặp chuyện rất thường, cũng cố gắng tìm cho ra thâm ý. Nếu hiểu và thấy nó hay thực thì phải thành tâm cung kính tuân học chớ không thể lôi thôi được. Đó là ý nghĩa thâm trầm, diễn tả lại thời Ngài tìm học nơi các thiện tri thức. Cho nên Ngài nói:

“Trong lúc đó, nếu dễ dàng như các ông hiện giờ thì làm gì có việc ngày nay”. Nếu lơ mơ như các ông bây giờ thì làm gì có việc ngày nay. Cho nên người học đạo phải đem hết tâm tư của mình, khi được thấy, được nghe thiện tri thức chỉ dạy, tìm cho ra, hiểu cho thấu, như vậy mới gọi là học đạo. Chớ nghe rồi bỏ đó, không quan tâm, không tìm kiếm thì không biết chừng nào mới đến nơi đến chốn, tu chừng nào cho có kết quả. Nói xong Ngài hỏi: 

“Trong nước Đại Đường chẳng có Thiền sư sao?” Hỏi cả nước Đại Đường này chẳng có Thiền sư nào sao? Bởi vì nếu học hiểu nghiên cứu không được gì hết, tức là không có thầy nào xứng đáng để học.

Có một vị Tăng ra hỏi:

Bậc tôn túc ở các nơi họp chúng chỉ dạy, tại sao nói không Thiền sư?

Ngài bảo:

Chẳng nói không Thiền, chỉ nói không Sư.

Thiền có sẵn, từ Phật chí Tổ, cho đến chúng ta ngày nay ai cũng có sẵn hết, nên đâu phải không Thiền, mà chỉ không Sư thôi.  

“Xà lê chẳng thấy sao, dưới Mã Tổ Đại Sư có tám mươi bốn người ngồi đạo tràng, song được chánh nhãn của Mã Tổ chỉ có hai ba người, Hòa thượng Lô Sơn là một trong số ấy”. Hòa thượng Lô Sơn là Ngài Qui Tông. Chúng ta thường nghe nói Ngài Qui Tông ỉa chảy đầy đất. Có nhiều người tu học, nhưng đến nơi đến chốn không được mấy người, trong đó ngài Qui Tông được khen nhất, bằng câu nói Qui Tông ỉa chảy đầy đất. Đọc sách Thiền, người không có tí mùi vị Thiền không làm sao nếm, hiểu được. Đó là điểm khó của người mới tu học Thiền.

Ngài nói dưới Mã Tổ có tám mươi bốn người được nhận là thiện tri thức. Nhưng rốt cuộc dưới con mắt của Ngài, chỉ có hai ba vị tuyệt vời thôi, còn lại bao nhiêu cũng thường.  

CHÁNH VĂN:  

Phàm người xuất gia phải biết có sự phần từ trước lại. Vả như, dưới Tứ Tổ, Đại sư Ngưu Đầu Pháp Dung nói ngang nói dọc vẫn chưa biết then chốt hướng thượng, có con mắt trí này mới biện được tông đảng tà chánh. Người hiện giờ không hay thể hội, chỉ biết học ngôn ngữ, nghĩ đến những việc trong đãy da xưng là ta hội Thiền. Nó có thể thay ông việc sanh tử chăng?

GIẢNG: 

Ngài Pháp Dung ở núi Ngưu Đầu cũng ngộ được nơi Tứ Tổ, nhưng Ngài thấy chưa phải tột, chưa phải người thấu đáo đến chỗ rốt ráo của lý thiền. Cho nên Ngài bảo người học thiền phải có con mắt trí tuệ, phân biệt rõ ràng đâu là tà, đâu là chánh, đâu là tột cùng, đâu là chưa tột cùng v.v… Ngài nói người thời nay tức thời Đường học ngôn ngữ, nghĩ đến những việc trong đãy da xưng là ta hội Thiền, chỉ biết lẩn quẩn trong thân này cho là hội thiền. Như vậy ai thay cho ông việc sanh tử?

CHÁNH VĂN:  

Khinh thường bậc lão túc vào địa ngục nhanh như tên bắn. Tôi vừa thấy người vào đến cửa liền biết được ông rồi. Lại biết chăng? Cần kíp cố gắng, chớ có dung dị. Mặc y ăn uống mà để một đời luống qua, người trí chê cười.

GIẢNG: 

Lời này rất tha thiết. Ngài khuyên chúng ta đừng coi thường bậc lão túc, những bậc thầy trước kia có đạo đức, đã nhận được chánh pháp. Nếu mình có tâm khinh thường thì đọa địa ngục nhanh như tên bắn. Ngài tự nói: “Tôi vừa thấy người vào đến cửa liền biết được ông rồi”. Tôi thấy người tới cửa là biết rồi, khỏi cần bàn luận gì hết. Đây là điểm kỳ đặc của Ngài. Cho nên tổ Lâm Tế tới có thảo luận gì với Ngài đâu, hỏi liền đánh, không cần nói chi. Đó là thấy tới cửa liền biết.

“Lại biết chăng? Cần kíp cố gắng, chớ có dung dị”. Các ông phải nhanh chóng cố gắng, chớ có xem thường. “Mặc y ăn uống mà để một đời luống qua, người trí chê cười”. Chúng ta đắp y Phật, ăn chay, sống trong đạo mà tu không tiến được, để cho người trí chê cười, thật uổng một đời. Câu nhắc nhở này thắm thiết làm sao! Một đời bỏ cha, bỏ mẹ, bỏ thân bằng quyến thuộc, bỏ tất cả việc nước, việc nhà để đi tu. Tâm cao thượng ấy quí báu vô cùng. Gan dạ bỏ hết những thứ thường tình, để tìm con đường siêu thoát, thế mà vào đạo rồi cũng lẩn quẩn trở lại như người tầm thường, có khi còn tệ hơn nữa, thì có đau không, có uổng một đời không?

Chúng ta đi tu để làm gì mà bỏ cha, bỏ mẹ, bỏ hết tất cả để rồi không làm ra trò trống chi? Nếu tu không ra gì thì thôi về nuôi cha nuôi mẹ còn có ý nghĩa hơn, có giá trị hơn. Nếu can đảm dứt hết, vào chùa tu thì phải đạt tới cái gì, chớ không thể thả lỏng uổng đi một đời. Nhìn lại thấy rất thương nhiều người tu riết không biết mình tu ra sao nữa. Cứ khuya công phu, chiều Tịnh độ rồi chơi bình thường, chừng ấy việc và chờ tới già tới chết, thật uổng một đời.

Cho nên chúng ta không tu thì thôi, tu thì phải đến nơi đến chốn, cho xứng danh nghĩa người tu. Nên lời Ngài nhắc nhở rất là chí lý: Cần kíp cố gắng, chớ có dung dị. Mặc y ăn uống mà để một đời luống qua, người trí chê cười. Cho nên chúng ta phải tu làm sao cho có hiệu quả, xứng đáng một đời hy sinh của mình. Phải nhớ, phải biết rõ ràng như vậy, chớ đừng xem thường. Chúng ta xét lại lời người xưa tha thiết nhắc nhở mà ý thức được việc làm của mình, sao cho xứng đáng một ngày ở chùa là một ngày cao quí, một năm mặc y nhà Phật là một năm xứng đáng người tu, chớ đừng lôi thôi.    

CHÁNH VĂN:  

Ông thời gian sau hẳn sẽ bị người tục lôi đi, phải tự xem xa gần cái gì là việc trên mặt. Nếu hội tức là hội, nếu không hội thì giải tán đi.

GIẢNG: 

Ngài nói cương quyết, hiểu được thì ở, nếu không hiểu thì rút lui, đừng ở đây nữa. Chúng ta thấy lối dạy của Ngài Hoàng Bá thật là mạnh mẽ.

CHÁNH VĂN:

Sư Lâm Tế Nghĩa Huyền đến hỏi:

-         Thế nào là ý Tổ từ Ấn Độ sang?

Ngài liền đập một gậy. Đến ba phen hỏi đều bị đập một gậy. Sau cùng Sư Lâm Tế từ giã Ngài đi nơi khác. Ngài dạy qua tham vấn Đại Ngu. Sau này Sư Lâm Tế đắc ngộ ý chỉ của Ngài. Chỗ chỉ dạy của Ngài đều nhắm vào bậc thượng căn, người trung căn và hạ căn khó thấy được yếu chỉ.

GIẢNG:

Chúng ta thấy lối dạy của Ngài quá kỳ đặc. Hỏi thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Độ sang, liền đập cho một gậy rồi đuổi xuống, không nói gì hết. Lần thứ hai hỏi lại đập cho một gậy nữa, đuổi xuống. Lần thứ ba hỏi cũng đập một gậy đuổi xuống. Như thế ai còn gan dạ nào ở đó mà tu. Chúng ta chỉ cần đập một gậy lần thứ nhất là xách gói đi tuốt, chớ đâu tới lần thứ hai thứ ba. Ngài Lâm Tế ráng ẩn nhẫn đến lần thứ ba bị đập một gậy nữa, ngài chỉ biết khóc, không còn cách gì khác. Ngài vừa khóc vừa dọn hành lý ra đi. Bấy giờ ngài Trần Tôn Túc làm Quản chúng bảo trước khi đi huynh lên từ giã Hòa thượng rồi hãy đi. Khi từ giã, Hòa thượng hỏi ông đi đâu. Ngài thưa “con không biết đi đâu nữa, thấy không có duyên ở đây thì con đi vậy thôi”. Tổ Hoàng Bá bảo ông qua Đại Ngu dạy cho. Ngài liền đi tới Thiền sư Đại Ngu.

Như vậy ngài Hoàng Bá có công hay có tội với Lâm Tế? Ba lần hỏi thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Độ sang, ba lần đánh rồi đuổi đi, chớ không dạy một câu. Sau cùng chỉ qua ngài Đại Ngu học. Qua tới Đại Ngu, ngài Đại Ngu hỏi:

- Ông từ đâu đến?

- Dạ con từ Hoàng Bá đến.

Đại Ngu hỏi:

- Hoàng Bá đã dạy ông lời gì?

- Ba lần con hỏi thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Độ sang đều bị ăn gậy, con không biết có lỗi hay không lỗi?

Đại Ngu bảo:

- Hoàng Bá đã đem tâm lão bà chỉ cho ông đến chỗ tột cùng, ông còn thấy có lỗi, không lỗi.

Ngay đó, Ngài Lâm Tế lãnh hội được chỉ ý của Tổ Hoàng Bá dạy, liền nói “Phật pháp Hoàng Bá rất ít”. Chỉ đánh thôi, không nói chi nên rất ít. Ngài Đại Ngu biết Lâm Tế đã thấm, nên gạn lại:

- Con quỉ đái dưới sàng, hồi nãy nói có lỗi, không lỗi. Bây giờ thấy cái gì mà nói Phật pháp Hoàng Bá rất ít?

Ngài thoi cho Đại Ngu một thoi vô hông. Đại Ngu xô ra nói:

- Thầy của ông là Hoàng Bá, chẳng can hệ gì đến ta.

Ngài liền trở về Hoàng Bá.

Tổ Hoàng Bá đánh Lâm Tế ba gậy mà được làm thầy. Quí vị thấy hay ở chỗ nào? Nhờ ăn ba gậy của Hoàng Bá mà dòng Lâm Tế truyền tới ngày nay, hơn một ngàn năm chưa dứt. Kỳ đặc ở chỗ nào? Thời nay chúng ta không thể sử dụng thủ thuật của Ngài Hoàng Bá được. Bởi vì thời nay là thời khoa học, thời tôn trọng nhân quyền… đủ thứ hết. Đập người ta, người ta sẽ kiện mình. Cho nên thời này chỉ có cách ráng mà nói, nói tới khô cổ để cho người ta hiểu. Hiểu thì tốt, không hiểu thì thôi, chớ không dám đánh, sợ mang tội.

Như vậy thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Độ sang? Chủ đích của Tổ Đạt Ma sang đây, mình làm sao giải thích được? Mở miệng nói là đã mất ý của Tổ sư rồi. Tổ sư muốn chỉ mình cái chân thật, không có ngôn ngữ đối đãi. Nếu còn thấy có ngôn ngữ đối đãi, còn phải quấy, đúng sai thì không thấy được ý Tổ sư. Phải qua hết đối đãi mới thấy được ý Tổ sư. Vì vậy Ngài Đại Ngu phương tiện nói Hoàng Bá vì ông chỉ thẳng mà ông còn nói có lỗi không lỗi, tức là còn kẹt trong đối đãi. Đánh đó là chỉ thẳng rằng Tổ sư đem Thiền tông sang Trung Quốc, chỉ dạy chỗ không còn ngôn ngữ, không còn đối đãi. Bây giờ ông lại hỏi việc đối đãi, làm sao nhận ra được ý Tổ sư. Nghe đến đây ngài Lâm Tế hiểu ngay, liền nói Tổ sư dạy đơn giản quá. Ngài Đại Ngu nắm lại hỏi “hồi nãy ông nói có lỗi không lỗi, bây giờ lại nói Phật pháp Hoàng Bá rất ít là sao?” Đến đây Lâm Tế thấy Phật pháp rất đơn giản mà còn nói là trật, nên chỉ thoi một thoi trả lời. Bị đánh ba gậy để chỉ, bây giờ muốn trình chỗ thấy của mình cũng dùng cái thoi để trình. Như vậy mới thấy rõ chỗ người đệ tử đã thấu triệt được ý của thầy.

Người thời nay đọc sử tới mấy đoạn này thấy Thiền sư ngày xưa quá thô bạo, chỉ có đánh đập chớ không nói đạo lý, nhưng thật tình hành động của các ngài có ý nghĩa rất thâm trầm. Bởi vậy nếu chúng ta không lãnh hội được lý thiền thì không bao giờ tìm thấy được cái hay của nhà thiền. Chủ ý của Tổ Hoàng Bá là chỉ thẳng, chớ không chỉ quanh co. Người nào Ngài mới chỉ thẳng như vậy? Người có căn khí đại thừa, có thể thừa đương đại sự mới được chỉ thẳng như thế. Như cả quyển Uyển Lăng Lục, chúng ta đọc đâu thấy ngài đánh ai. Tướng quốc Bùi Hưu hỏi, Ngài trả lời đâu đó rõ ràng. Là vì tướng quốc mà bị đánh thì từ giã liền, cho nên phải giải cho ông hiểu. Còn Lâm Tế là một con người rất kỳ đặc, ít nói thâm trầm cho nên Tổ đã thầm nhận, nhưng chưa nói ra. Khi Lâm Tế hỏi Ngài liền dùng thủ thuật đó. Nhờ thủ thuật này, Lâm Tế sau khi ngộ rồi không còn ý niệm lăng xăng nữa. Vì vậy hệ Lâm Tế truyền bá rất lâu dài.

CHÁNH VĂN:  

Đời Đường khoảng niên hiệu Đại Trung (847 - 860 TL), Ngài tịch ở núi Hoàng Bá. Nhà vua sắc thụy là Đoạn Tế Thiền Sư, tháp hiệu Quảng Nghiệp.

GIẢNG: 

Do vậy có nơi gọi Ngài là Đoạn Tế Thiền sư, có nơi gọi Hoàng Bá hoặc Hy Vận. Chỗ nào đúng? Chỗ nào cũng đúng hết. Ngài có bài kệ răn dạy những người tu Thiền rất hay:

Trần lao quýnh thoát sự phi thường,

Hệ bã thằng đầu tố nhất trường,

Bất thị nhất phiên hàn triệt cốt,

Tranh đắc mai hoa phốc tỷ hương.

Dịch:

Vượt khỏi trần lao việc chẳng thường,

Đầu dây nắm chặt giữ lập trường,

Chẳng phải một phen xương lạnh buốt,

Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương.

Tất cả người tu chúng ta cốt ra khỏi trần lao, còn lăn lộn tử sanh là còn ở trong vòng trần lao. Lao là khổ là nhọc, muốn ra khỏi vòng khổ nhọc trầm luân là việc phi thường. Tại sao phi thường? Bởi vì con người sanh ra, ai cũng theo thói thường, lớn lên học hành, rồi có gia đình, có con cái, lớn nữa có cháu chắc rồi tới già chết. Cứ đều đều như vậy mà không ai nghĩ cách nào khác hơn để thoát ra luật lệ ấy.

Người tu không chấp nhận sự trói buộc, sanh đi tử lại mãi mãi như thế. Cho nên chúng ta quyết định phải thoát ra vòng trần lao. Quyết định thoát khỏi vòng trần lao là kẻ thường hay phi thường? Là phi thường. Vậy mà ai nói động một chút thì buồn, ai chê liền giận. Con người phi thường mà vậy sao? Đã là người phi thường thì nghe chửi không thèm giận, nghe khen không mừng mới được. Quí vị thử kiểm lại xem mình phi thường chưa? Đã đi tu là làm việc phi thường, tại sao chưa chịu thực hiện việc phi thường?

Đó là những câu hỏi chúng ta phải luôn tự đặt, tự vấn để vươn lên, chớ không thể tu mà vẫn đặt mình trong cái tầm thường. Tất cả chúng sanh đều chấp nhận cuộc đời sanh ra, lớn lên, lập gia đình rồi tới già chết. Ai cũng như ai, giỏi lắm làm được chuyện từ thiện chút ít cho đời là quí rồi. Người trước như vậy, người sau như vậy, mãi mãi như vậy. Có người sớm thức tỉnh, muốn thoát ra khỏi cái tầm thường đó, vì vậy nên nói là phi thường. Không chấp nhận việc tầm thường thì phải làm việc khác hơn, làm việc phi thường. Muốn làm việc phi thường đòi hỏi con người cũng phải phi thường. Người ta đi đường bằng phẳng suông sẻ, mình muốn đi trên mây trên gió thì phải phi thường hơn người ta chớ, phải có cái gì kỳ đặc mới được.

Chúng ta đồng ý là người phi thường thì phải có tư cách phi thường. Tư cách phi thường thì bị chê không buồn, bị chọc không giận v.v… Chớ động tới giống hệt những người tầm thường, than tôi tu mấy năm nay mà không ai quan tâm, thiếu thốn, nghèo, bệnh hoạn hoài, buồn quá. Những thái độ đó đâu phải là người phi thường. Ở đây Ngài nói chúng ta muốn ra khỏi trần lao là việc phi thường, nên phải vượt khỏi thói thường tình của người đời. Như vậy mới xứng đáng là người xuất gia.

Hệ bã thằng đầu tố nhất trường tức là đầu dây nắm chặt giữ lập trường. Mình tu pháp nào thì cứ một pháp ấy bám chặt cho tới nơi tới chốn. Như câu chuyện trong kinh Phật dạy: Có một anh chàng phạm tội tử hình. Trên một con đường dài mấy cây số, mà hai bên đường nào là các cảnh ca hát, rượu chè, cờ bạc, đủ thứ trò cám dỗ. Nhà vua ra lệnh anh bưng một dĩa dầu đầy đi từ đầu đường đến cuối đường mà không rơi một giọt, không nghiêng không đổ thì sẽ tha anh khỏi tội tử hình. Nếu nghiêng đổ ở chỗ nào thì lập tức tên đao phủ phía sau chặt cổ anh liền. Quí vị nghĩ nếu trong trường hợp như vậy chúng ta dám liếc ngó hai bên đường không? Chắc chắn là không. Vì biết tên đao phủ phía sau sẵn sàng buông đao, để chảy một chút dầu là bị rơi đầu ngay, cho nên chăm chăm đi tới cuối đường. Khi đi hết con đường mà không nhỏ một chút dầu, tên tử tội mới thoát khỏi tội tử hình.

Phật ví dụ dĩa dầu là pháp tu, còn tên tử tội là tất cả phàm phu chúng ta. Có người nào không bị án tử hình không? Những án treo ba chục năm, năm chục năm, sáu bảy chục năm… rồi sẽ tử hình, ai cũng bị án hết. Đang bị án mà muốn thoát khỏi án phải làm sao? Phật dạy phải dùng một pháp tu, chuyên tâm thực hành cho tới nơi tới chốn, không sơ sót thì sẽ giải thoát khỏi tử hình. Tử hình là sanh tử. Muốn ra khỏi sanh tử thì phải nắm vững pháp tu của mình, từ đầu tới cuối, không vì duyên của sáu trần mà mình lơi lỏng, phải chăm chăm đi tới mới được giải thoát. Cũng như anh tử tội chăm chăm nhìn dĩa dầu, không cho nghiêng đổ vậy. Chúng ta tu ai cũng có hướng của mình, phải theo dõi luôn, không chút lơ là thì sẽ thoát khỏi sanh tử.

Chú lính cầm cây đao đi bên cạnh là quỷ vô thường chực sẵn, mình sơ sẩy một chút là nó chặt đầu liền. Chúng ta đi đứng, tới lui, qua lại… sơ sẩy đạp con rắn, nó cắn sôi đờm chết. Ra đường xe đụng ngã đùng chết. Quỷ vô thường nó chực lúc nào mình không hay, miễn sơ sẩy thì rồi đời. Vì vậy đi đâu cũng phải nhiếp tâm giữ chánh niệm, mới thoát chết. Thường mình đi ra thì ngó trời, ngó mây, ngó thiên hạ kẻ này người kia… về kể lại cho huynh đệ nghe. Cho nên không biết quỷ vô thường nó chụp lúc nào. Vì vậy người tu phải cố làm sao đi cho tới nơi tới chốn, đem hết tâm lực tập trung vào mỗi việc tu hành, khả dĩ thoát được luật sanh tử vô thường.

Bất thị nhất phiên hàn triệt cốt tức là chẳng phải một phen xương lạnh buốt. Nhờ tới mùa đông xương lạnh buốt chúng ta mới thấy hoa mai nở rộ. Có chịu cái lạnh buốt của mùa đông, mới hưởng được mùi thơm của hoa mai. Đừng nghĩ mình tu thảnh thơi vui vẻ, sẽ đạt được kết quả mỹ mãn, không bao giờ có chuyện đó. Phải chăm chỉ, quyết tâm tu, không lúc nào lơi lỏng, mai kia mới có thể giải thoát sanh tử. Ngoài thế gian, một đứa học trò muốn mỗi năm mỗi lên lớp cho tới thi đậu, nó phải làm sao? Phải cố gắng học đêm học ngày mới được. Chúng ta tu cũng vậy, phải chịu cực chịu khổ, để hết sức lực, hết tâm trí mình vào sự tu thì mai kia mới được kết quả tốt đẹp, không thể lơ là, đùa cợt ngày này tháng kia mà được kết quả.

Bài kệ này nhắc nhở chúng ta thấy bổn phận của mình phải làm gì, đạt được gì, chớ không phải chuyện làm cho có chừng, làm để mà làm, làm trò cười cho thiên hạ. Đó là lời nhắc nhở rất chí thiết của thiền sư Hoàng Bá. Mong tất cả nhớ và làm tròn bổn phận của mình.           

 ]]]

]

 

THIỀN TÔNG VIỆT NAM