TIỂU SỬ THIỀN SƯ PHỔ CHIẾU
(1158-1210)
Ngài Phổ
Chiếu là bực Tôn túc của Phật Giáo và cũng là thỉ tổ Thiền Tông ở Triều
Tiên vào triều Lý. Phật Giáo Triều Tiên khoảng trung diệp triều Lý có thể
nói là thời đại hoàng kim. Hàng thượng lưu thì xu hướng giáo quán của Ngài
Đại Giác. Dân gian thì xu hướng theo pháp “định huệ gồm tu” do sự dẫn dắt
của Thiền Sư Phổ Chiếu. Hai vị này được xem là hai đại lương đống của Phật
Giáo Cao Ly.
Hai quyển
“Chơn Tâm Trực Thuyết” và “Tu Tâm Quyết” này chẳng qua chỉ là hai tác phẩm
nhỏ do Ngài Phổ Chiếu trước tác. Tuy nhỏ nhưng rất có giá trị và được kết
tập vào Đại Tạng Kinh.
Về Thiền Tông,
Ngài chủ trương: “Địng tức huệ, huệ tức định”. Nhưng đặc biệt chú mục nơi
“Định huệ gồm tu”.
Ngài Phổ Chiếu
húy là Trí Nột, họ Trinh, hiệu Mục Ngưu Tứ. Quê Ngài ở ĐộngChâu, Kinh Tây
(ngày nay là quận Thụy Hưng, Hoàng Hải Đạo). Ngài sanh vào năm thứ 17 đời
vua Nghị Tông Cao Ly. Thuở nhỏ, Ngài rất nhiều bịnh hoạn. Cha là ông Quang
Ngộ thường đi chùa cầu hết bịnh cho Ngài. Tám tuổi Ngài được Thiền Sư Huy
thuộc Tào Khê Tông thế độ. Tuy là ở với thầy thường, nhưng chí khí Ngài
cao xa vượt chúng. Hai mươi lăm tuổi Ngài được tuyển làm tăng. Rồi sau đó
Ngài đi về phương Nam đến Xương Bình ở lại chùa Thanh Nguyên.
Một hôm, nơi phòng học Ngài đọc Lục Tổ Đàn Kinh ngộ được “Thể dụng của
chơn như tức là định huệ”. Do đấy nên Ngài bỏ hết ý niệm danh lợi, ưa
thích ở rừng núi u-nhã.
Đời vua Minh
Tông năm thứ mười lăm, Ngài đi xuống vùng núi Kha Sơn ngụ tại chùa Phổ Môn
để nghiên cứu Đại Tạng. Năm thứ hai mươi bảy Ngài ẩn cư tại Vô Trụ am, ở
Trí Dị sơn (nay là Khánh Thượng, Nam Đạo). Nơi đây cảnh trí u tịch thật là
cảnh tu thiền. Một hôm, Ngài đọc Hoa Nghiêm luận của Lý Thông Huyền, Ngài
biết yếu chỉ viên đốn của giáo lý Hoa Nghiêm cùng yếu chỉ Thiền Tông quyết
không trái nhau. Lại đọc Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập Đô Tự của Ngài Khuê
Phong, cùng ngữ lục của Ngài Đại Huệ, Ngài bỗng nhiên “khế hội”. Xác chứng
rằng định huệ không thể thiên phế.
Niên hiệu Thần
Tông năm thứ ba, Ngài dời về chùa Kiết Tường ở Tùng Quảng Sơn, tu thiền
đàm đạo mười một năm và chuyên an cư trong luật của Phật. Ngài thường
khuyên người tụng Kinh Kim Cang. Ngài còn giảng Lục Tổ Đàn Kinh, Đại Huệ
Ngữ Lục để phát huy tông yếu. Sau đó thiền học được hưng khởi, người tham
học càng ngày càng đông. Ngài lấy “Định huệ gồm tu”, tổng hợp Hoa Nghiêm,
Thiên Thai và Thiền Tông, nhưng trong ấy Ngài đặc biệt làm sáng tỏ Thiền
Tông.
Ngài còn xây
dựng Bạch Vân Tịnh xá và Tích Thúy Am ở núi Bảo Sơn, Khuê Phong Lan Nhã và
Tổ Nguyệt Am ở Thụy Thạch Sơn làm chỗ vãng lai tu thiền. Nhà Vua rất kính
trọng đức hạnh của Ngài và đổi hiệu núi Ngài ở là Tào Khê sơn Tu Thiền Xã.
Lại còn tự đề bảng để ban cho. Ngài còn lập Định Huệ Xã và tuyển “Định Huệ
Kiết Xã Văn”.
Vào tháng hai
đời vua Hi Tông năm thứ sáu, Ngài bỗng nói với Xã Chúng rằng: “Ta còn trụ
thế chẳng bao lâu nữa, các người phải nỗ lực”. Ngày 20 tháng 3 hiện có
chút bịnh, đến ngày 27, Ngài mặc y hậu và vào pháp đường, chúc hương thăng
tòa, vấn đáp xong, Ngài ngồi dan chơn ra bỗng nhiên thị tịch.
Nhà Vua nghe
tin, ban thụy hiệu là Phật Nhật Phổ Chiếu Quốc Sư. Tháp hiệu là Cam Lộ.
Ngài hưởng thọ 53 tuổi, tuổi đạo được 36 hạ. Trước tác của Ngài ngoài hai
tác phẩm này còn “Khuyến tu định huệ kiết xã văn”, “Khán thoại quyết nghi
luận”, “Viên đốn thành Phật luận”. Ngoài ra còn “Chú thích Đại Huệ Thiền
Sư thơ”, “Phê bình Khuê Phong Thiền Sư” v.v…
TỰ
Hỏi: Diệu đạo
của Tổ Sư có thể được biết không?
Đáp: Người
xưa há chẳng nói: “Đạo chẳng thuộc biết cùng chẳng biết”. Biết là vọng
tưởng, còn chẳng biết là vô ký. Nếu đạt đến địa vị chẳng nghi, thì rỗng
suốt như thái hư, há có thể gán cho là phải quấy ư?
Hỏi: Thế thì
chư Tổ ra đời không ích lợi cho quần sanh sao?
Đáp: Phật, Tổ
ra đời không có một pháp cho người, chỉ cần yếu là chúng sanh phải tự thấy
bản tánh của mình. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Biết tất cả pháp tức là tự tánh
của tâm, sự thành tựu huệ thân chẳng do nơi khác mà ngộ”. Cho nên Phật, Tổ
không khiến người mắc lầy trong văn tự, chỉ cần yếu phải thôi dứt để thấy
bản tâm mình. Do đó nhập môn Đức Sơn liền bị đánh, nhập môn Lâm Tế liền
nhận hét. Đã là một sự dò xét thái quá như thế, sao lại lập ngữ ngôn ư?
Hỏi: Xưa nghe
Ngài Mã Minh tạo luận Khởi Tín, Lục Tổ nói Đàn Kinh, Hoàng Mai truyền Bát
Nhã, đều là dùng tiệm thứ cho người, đâu không dùng phương tiện chỉ pháp
ư?
Đáp: Trên
đảnh núi Diệu Cao từ xưa tới nay chẳng cho thương lượng. Nhưng đầu non thứ
hai, chư Tổ tóm lược dung hòa cho nói cho hiểu.
Hỏi: Xin hỏi
đầu non thứ hai là lược bày phương tiện ư?
Đáp: Đúng
thay lời nói này. Đạo lớn mầu nhiệm mà rộng rãi, chẳng phải có chẳng phải
không. Chơn tâm u vi dứt nghĩ dứt bàn. Cho nên người chẳng từ cửa đó mà
vào, tuy tìm xét năm ngàn tạng giáo cũng chẳng là người thấu suốt chơn
tâm. Chỉ nói ra một lời để so sánh thì sớm trở thành pháp dư thừa. Nay
chẳng tiếc mi mao (lông mày) kính viết mấy chương để phát minh chơn tâm,
hầu làm căn bản lần hồi vào Đạo.
WP: Mỹ Hồ
] |