ĐƯỜNG VÀO ĐẠO
Người Phật tử
khi tu Phật, trước cần phải biết những cách thức trị tâm, ứng dụng pháp tu
vào đời sống như thế nào. Bởi nếu chúng ta không biết rõ đường đi hoặc
không nắm được hướng vào đạo thì việc tu khó đạt được kết quả mong muốn.
Để giúp Phật tử có đường lối tu hành rõ ràng, buổi nói chuyện hôm nay
chúng tôi sẽ nói về Đường vào đạo.
Hầu hết các
kinh điển Đại thừa, Phật dạy người muốn báo ân Phật, muốn làm cho ngọn đèn
chánh pháp sáng mãi trên đời thì phải tu. Một chữ tu thôi, cũng không phải
là chuyện dễ dàng. Vì sao? Vì khi Phật tử có nhiệt tâm muốn tu, nhưng
không tìm được thầy hay, bạn tốt hướng dẫn tu hành đúng như chánh pháp nên
cuối cùng không vào đạo được mà có khi còn cách xa đạo nữa. Đó là những
hiện tượng cụ thể trong giới Phật giáo chúng ta hiện nay.
Nếu Phật tử
nào tu hành lâu năm nhưng thấy tâm độc không giảm bớt, nghiệp tập của mình
vẫn còn dẫy đầy thì phải xét lại xem mình tu đúng chưa. Bởi các bậc tiền
bối của chúng ta phát tâm tu hành, hầu hết đều được an lạc giải thoát. Còn
chúng ta ngày nay tu rất nhiều năm, làm tất cả Phật sự mà nghiệp tập phiền
não vẫn còn nhiều, đó là lỗi tại chúng ta tu sai. Đây là vấn đề chúng ta
cần phải suy nghĩ để tìm một hướng tiến trên con đường đạo.
Hiện nay Phật
tử có suy nghĩ đường vào đạo như thế nào? Điều này người con Phật nhất
định phải nắm cho được đường đi nước bước, chúng ta thực hiện tu tập như
thế nào để thực sự an ổn. Như tôi đã nói, chủ trương của đạo Phật là giúp
cho con người được an lạc, giải thoát, làm chủ mình hoàn toàn. Muốn thế
chúng ta phải tự đào xới, sửa đổi, bỏ đi tất cả những gì dở khuyết, chướng
ngại cho sự tu của chính mình.
Tuy chúng ta
tu ít, nhưng nắm chắc đường lối chủ trương thì ngày thành công nhất định
sẽ đến với chúng ta. Như người muốn từ Long Thành về Thành phố Hồ Chí
Minh, đường đi biết rõ, phương tiện sẵn có, kinh nghiệm đường đi nước bước
dày dặn, dù người ấy đi những loại xe thường hay đi bộ, nhưng đi đúng
đường, không sớm thì muộn chắc chắn họ cũng đến nơi. Trái lại nếu người đi
Thành phố Hồ Chí Minh mà đón xe tốc hành loại nhanh nhất, chạy ngược ra
hướng Vũng Tàu, xe siêu chừng nào thì nó càng đưa họ đi xa với điểm đến
chừng ấy, càng đi càng xa gốc. Nên kẻ tu hành mà mê mờ đường vào đạo thì
kết quả không thể biết được.
Đường vào đạo
chúng tôi muốn nêu lên ở đây là tâm nguyện của chúng ta. Người tu phải
phát tâm rộng rãi, tâm đó là tâm chân thật, tâm không tà ngụy, nhất là
không dễ bị lung lay bởi những hoàn cảnh bên ngoài. Phát tâm như thế chưa
đủ, chúng ta còn phải sáng suốt, tinh tấn liên tục mới mong đạt được sở
nguyện ban đầu của mình. Tuy nhiên, trên đường vào đạo nếu không đầy đủ
phúc duyên gặp thiện hữu tri thức giúp đỡ, chỉ dẫn đúng chánh pháp thì con
đường tu cũng khó có thể đoán định được kết quả ra sao.
Nhiều người
đầu tiên đi chùa, đến với đạo bằng những sở nguyện rất bình thường, như
muốn được giàu sang, mạnh khỏe, thông minh, sống dai. Nói chung là họ muốn
tìm niềm an lạc, cởi bỏ những muộn phiền của trần gian này. Nghe bạn bè rủ
rê, họ cũng đi chùa, tụng kinh, niệm Phật để giải sầu. Thời gian sau, thấy
không có kết quả, họ lại chuyển sang cúng kính cầu nguyện hay rơi vào các
hình thức mê tín, tà kiến. Những người này nếu không kịp thời xét lại
những phương tiện tu tập sai lầm của mình thì việc tu tập sẽ dẫn đến hậu
quả tai hại vô cùng.
Khi thực hành
công phu tu, chúng ta xét thấy phương tiện nào giúp mình tăng tiến đạo
hạnh, sự tu hành càng ngày càng được an ổn giải thoát, đó là phương tiện
đúng, ta nên sử dụng tiếp. Trái lại những phương tiện nào làm mình chùng
bước, sự tu không được an lạc giải thoát, thì ta dừng lại, đừng tiếp tục
sử dụng nữa. Ví dụ như mỗi lần làm Phật sự, ta gánh thêm một mớ phiền não,
thì thôi gác lại chuyện ấy đi, đừng gánh nó vô nhà nữa. Cứ mỗi lần làm
Phật sự gánh về một gánh phiền não, riết đầy nhà toàn là phiền não, cuối
cùng mình cay đắng hạ ngữ “Không ngờ trong đạo cũng giống như ngoài đời”.
Có rất nhiều Phật tử nói như thế, tại vì mỗi ngày họ gánh về nhà toàn là
ve chai, hũ bể. Thật sự tu đạo không phải vậy. Nếu người quyết tâm tu theo
một đường lối đúng đắn, thì mỗi ngày mỗi an lạc, chứ không phải buồn phiền
như vậy.
Người tu hành
phát tâm rộng lớn như thế nào? Như những lời nguyện mà Phật tử thường
nguyện: “Nguyện đoạn tất cả phiền não, nguyện tu tất cả pháp lành, nguyện
học tất cả pháp môn cao quý của Phật và nguyện độ tất cả chúng sanh”.
Những lời nguyện này, quả thật là những lời nguyện chân chính. Phật tử
chúng ta nếu có nguyện thì nên nguyện như vậy, không nguyện gì khác hết.
Nói thế chứ cũng khó nhớ lắm. Cứ mỗi lần đốt nhang lại nguyện: “Ngày mai
con đi đường đừng gặp trục trặc, nguyện buôn may bán đắt, nguyện gặp quới
nhân phù hộ”. Nguyện ấy trật rồi, vì nó không có trong Phật pháp.
Muốn không có
những việc tai hại cho bản thân thì phải thực hành pháp Phật dạy, tu sửa
mình đồng thời cũng phải gan dạ, chấp nhận trả tất cả những nợ nần trước
thì mới hết được. Còn nguyện khơi khơi, giao hết cho Phật, Bồ-tát, lâu
ngày e quí vị cũng sẽ nghi Phật. Tại sao? Vì nghe nói Phật là đấng giác
ngộ, thành tựu đạo quả Vô thượng Bồ-đề, từ bi trí tuệ vô lượng mà con
nguyện có một chút cũng không được nữa. Hay là Phật không còn chính hiệu
như người ta ca tụng nên nguyện hoài không linh!
Bản nguyện của
chúng ta chỉ thành tựu khi nào lòng mình an ổn, có tu sửa. Ví dụ như
nguyện Phật cho con bớt khổ, thì mình phải mở rộng lòng tha thứ cho mọi
người, buông hết buồn phiền trong lòng thì mới hết khổ được chứ. Còn ta cứ
đem vô, nắm lại thì khổ càng thêm khổ, làm sao hết được. Dù có nguyện bao
nhiêu cũng thế thôi.
Trong các điều
nguyện, có nguyện độ tất cả chúng sanh. Quí vị nghĩ độ hết chúng sanh là
như thế nào? Đừng nói hết chúng sanh mà nội bạn bè của mình, độ hết cũng
đã khó rồi. Như Phật tử đi chùa được an ổn, mà trong nhà bà con dòng họ có
người hay quậy, muốn độ họ, quí vị thử thuyết pháp cho họ nghe đi. Không
phải đơn giản đâu. Nói người ngoài nghe thì dễ chứ nói người trong nhà
nghe không dễ chút nào. Nếu nói họ không nghe thì mình phiền não, phiền
não rồi buông trôi. Đã buông trôi làm sao gọi là độ chúng sanh được.
Thành ra nói
độ chúng sanh là mình tự độ tất cả phiền não của chính mình trước. Như ta
khởi một niệm nào giúp người mà họ làm trái ý mình, ta liền bực bội phiền
người đó, thì nên độ niệm này đi. Trước khi độ người, ta phải tự độ những
niệm buồn phiền bực bội của mình về người, thì mới hết khổ. Độ được phiền
não của mình rồi, mới có thể độ người ngoài. Bởi khi bớt hoặc dứt sạch
phiền não, ta nói họ nghe cũng được, không nghe cũng được, ta không thấy
buồn phiền, không mất mình, do đó tâm vẫn an lạc. Nguyện tức là mở rộng
lòng mình ra, soi tới soi lui, cuối cùng thấy lời nói không thật, việc làm
không thật nên mình tha thứ được hết, tự nhiên hết khổ.
Người tu Phật
chúng ta đã phát nguyện rồi thì giữ vững cương lĩnh, thủy chung như một,
chư Phật Tổ nhờ thế mà các Ngài thành tựu đạo quả viên mãn. Như chỉ cần
phát một nguyện “Nhẫn” thôi, ta cũng có thể thành Phật được như thường.
Bây giờ người ta chửi mình, ta cứ mở rộng lòng ra, không phiền gì hết. Nếu
vừa khởi niệm phiền, ta liền tự kiểm lại, khám nghiệm xem niệm ấy có thật
không, người chửi mình có thật không. Biết niệm ấy là xấu, không thật thì
phải bỏ đi, đó là tự độ. Độ là độ chúng sanh ngay trong lòng mình, những
ngổn ngang phiền trược, những rối rắm điên đảo, phải độ cho hết, như vậy
mới hết khổ.
Hằng ngày
chúng ta đối duyên xúc cảnh, đối với bà con thân thuộc, đối với gia đình,
đối với xóm làng, đối với xã hội… tất cả những việc ngang trái, những điều
uất ức, ta nguyện độ hết. Chúng ta phải gan dạ chấp nhận độ hết, bằng cách
là buông bỏ nó đi. Thấy nó không thật, đừng đem nó vào nhà nữa thì trong
nhà hết đồ ve chai. Còn ta cứ đem vô hoài, thấy người kia nói xấu mình,
người nọ hại mình, ta phải làm cho ra lẽ v.v… Đó là kiểu đem rác rến vô
nhà cho nhơ nhớp thêm. Người tu Phật phải là người phát nguyện xả bỏ tất
cả những thứ đó.
Phật dạy pháp
còn phải bỏ, huống là phi pháp. Nghĩa là những thứ tốt mình còn phải xả bỏ
huống là các pháp xấu ác. Không có quan niệm gì về mọi thứ trên đời thì
mới an ổn, mới thành Phật được. Cho nên nói độ mà không độ gì hết, chỉ nó
dấy khởi lên ta biết là phiền não loạn tưởng, buông đi tức là độ chúng
sanh. Bao giờ hết những phiền não lăng xăng, chừng đó mình thành Phật. Tu
như vậy trong mọi sinh hoạt đi đứng nằm ngồi thì dù Phật tử cả năm đi chùa
một lần cũng đã gần kề quả Phật rồi. Đó gọi là tu thẳng tắt hay tu thiền.
Nói tu thiền
là lối tu thẳng tắt, nghĩa là sao? Thẳng tắt vì không qua phương tiện nào,
cốt sử dụng trí tuệ của chính mình để nhận hiểu, thực hành được một cách
dễ dàng. Nhưng với điều kiện lúc nào ta cũng tỉnh sáng, có sức cảnh giác
cao. Đang ngồi thiền mà vừa nghe ai chạm tới tên, mình vụt đứng dậy đỏ mặt
tía tai là biết chưa được rồi. Những hiện tượng ấy ta chưa làm chủ, chưa
hóa giải được thì biết mình còn yếu lắm. Phải phát nguyện mạnh lên, phải
tu nhiều hơn nữa để có sức tự chủ trước những ngoại cảnh bên ngoài cũng
như vọng tưởng bên trong. Nguyện độ chúng sanh là nguyện như vậy.
Đến lời nguyện
học tất cả pháp môn Vô thượng của Phật, là học những pháp môn gì? Pháp của
Phật chỉ một vị sáng suốt, bình đẳng. Bây giờ trong đời sống của quý Phật
tử, đừng để bị kẹt trong cái không chân chính, trong cái mất quân bình,
trong cái tăm tối, nhỏ hẹp. Đời sống ngôn hạnh luôn luôn sáng suốt bình
đẳng, đó là học pháp của Phật.
Pháp ấy, trước
chúng ta nhờ thầy bạn hướng dẫn, nhưng sau phải tự học, tự tập. Ví dụ Phật
tử nghe chúng tôi bảo không tham, không sân, nếu về nhà quên mất hết thì
lâu lâu cũng muốn có nhiều tiền, hoặc ai vừa đụng tới liền nổi trận lôi
đình. Như vậy là chưa tự học, tự hành pháp của Phật. Phải từng phút giây,
từng đêm ngày, trong mọi sinh hoạt, lúc nào mình cũng học pháp. Niệm nào
tăm tối thì bỏ đi, đó là người sáng suốt thực hiện pháp một cách bình
đẳng.
Pháp ấy là
pháp tối thượng, đưa chúng ta tới chỗ an ổn thực sự giải thoát. Ngày xưa
Phật Tổ, những vị tiền bối của chúng ta cũng học pháp ấy mà được an ổn.
Bây giờ chúng ta muốn an ổn, muốn hết khổ cũng phải học pháp ấy. Quí vị
đừng nghĩ phải đọc năm ba quyển kinh quyển luận hay nghiên cứu sách nọ
sách kia mới gọi là học pháp. Điều đó cũng cần thiết nhưng làm sao hằng
ngày mình phải thực hiện cho sự sống của chính bản thân ta được an lạc,
sáng suốt bình đẳng. Tất cả những thứ tăm tối nhỏ nhoi phải bỏ đi. Trong
từng tâm niệm chúng ta đều áp dụng và phát huy như thế, đó là học Phật
pháp.
Nếu được vậy
thì tất cả phiền não, những bất như ý trong đời sống sẽ hết. Người biết tu
Phật nhất định sẽ có kết quả lợi lạc. Khi đã được an ổn thật sự, chúng ta
không cần phải nói trừ phiền não, không nói đến chuyện tu hành thế nọ thế
kia, ta vẫn sống bình thường, mà không gì chẳng là đạo. Người có được mọi
sinh hoạt sáng suốt, bình đẳng, tự tại, giải thoát, người đó đúng là thiền
sư.
Muốn phát tâm
rộng lớn, chí nguyện phải vững chắc. Nghĩa chính của chữ “nguyện” là xin
cho, tức mong cầu điều gì đó. Tại sao chí nguyện phải vững chắc? Vì con
đường Phật đạo, việc hóa giải tất cả những nghiệp tập của mình có rất
nhiều chướng ngại, lại phải trải qua thời gian lâu xa. Bởi nghiệp tập
nhiều đời quen như vậy rồi, cái mũi quen ngửi mùi thơm, con mắt quen nhìn
sắc đẹp, lỗ tai quen nghe tiếng khen, thân thể quen với khí hậu tươi mát…
khác đi một chút là chịu không được. Bây giờ muốn chuyển hướng đâu phải
dễ, đòi hỏi có nhiều thời gian và đồng thời cũng có một quyết tâm vững
chắc lắm mới được.
Tu hành là hóa
giải được tất cả phiền não bên trong, sự cám dỗ của các pháp bên ngoài.
Làm chủ được mình như thế gọi là tu. Nên người lập nguyện vững chắc thì
trên con đường Phật đạo mới có thể thành tựu. Thế nên chúng ta cần phải
xét lại tâm nguyện của mình xem đã vững chắc chưa hay còn bị lung lay? Gặp
một trở lực nào hoặc có hiện tượng gì lạ xảy ra, những xung đột bất như ý
trong cuộc sống… tất cả những điều đó có làm cho sự tu hành của chúng ta
thối chuyển hay không? Nếu ta hoảng sợ trước những tình huống như thế thì
biết tâm nguyện chưa vững, lòng nghi dễ sinh, từ đó có thể đi đến bỏ đạo.
Ví dụ như từ
lâu mình nghe Hòa thượng nói tất cả các pháp không thực, duyên hợp như
huyễn. Phật tử hiểu và tập sống được như vậy thì an ổn, làm chủ được các
pháp, thấy có chút an lạc. Nhưng bất thần có người nào đó nói rằng tất cả
các pháp là thật, là những tinh hoa do trời đất hợp thành, rất cần thiết
cho cuộc sống. Nghe thế ta liền đắn đo suy nghĩ, trong lòng lưỡng lự không
biết ai đúng ai sai, thế là tâm nghi phát sinh, làm chướng ngại việc tiến
đạo rồi. Người có đủ lòng tin thì không như vậy. Ai nói gì thì nói, họ chỉ
một lòng tu theo pháp mình đã học, tăng tiến đạo hạnh, không hề lay
chuyển. Cứ như thế mà hành trì, từng bước từng chút nếm được pháp vị an
lạc, người ấy gọi là người tâm nguyện kiên cố.
Ngày xưa đức
Phật trải qua sáu năm khổ hạnh, thân thể còm cõi đến mức độ không thể
tưởng tượng nổi, nhưng ý chí của Ngài không hề lay chuyển. Khi quán sát
biết rõ ràng phương pháp khổ hạnh không đem đến đạo quả, Bồ-tát liền rời
khổ hạnh lâm, tìm phương tiện khác điều hòa lại thân tâm và tiếp tục thiền
định. Dưới cội Bồ-đề, Ngài đã phát thệ nguyện như thế này: “Nơi đây, nếu
không đạt được đạo quả, dù thịt nát xương tan ta quyết không rời khỏi chỗ
ngồi này”. Nhờ thệ nguyện kiên cố ấy mà đức Thế Tôn đã viên thành Phật quả
trong vòng chỉ bốn mươi chín ngày đêm. Vì đức Phật không rời khổ hạnh lâm
với tâm niệm chán nản, thoái hóa, nhu nhược nên Ngài mới được thành công
như thế. Gương hạnh ấy, chẳng những chúng ta luôn khắc ghi học tập mà còn
phải quyết tâm thực hiện cho bằng được mới thôi.
Trong kinh
Phật, có chỗ nói tâm Bồ-đề tức là tâm giác. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Người tu
hành, thực hành tất cả pháp mà không phát tâm Bồ-đề thì tất cả những việc
làm ấy có thể gọi là không đúng chánh pháp”. Người tu hành dù tu pháp nào,
tại gia hay xuất gia cũng đều có tâm Bồ-đề tức tâm giác vậy. Nếu không có
tâm này chỉ đạo, việc tu của chúng ta sẽ không đi đúng đường hướng. Kết
quả nguy hại ra sao thật khó đoán. Cho nên khi phát tâm, nếu không phải
tâm Bồ-đề thì không nên phát huy. Phật tử cần dè dặt điều này, tránh phát
những tâm sau đây:
Một là tâm tà
ngụy. Tà ngụy là chỉ cầu quả vui mai hậu, ham thích nổi tiếng, hoặc ưa
theo dục lạc thế gian, luyện thân này cho khỏe mạnh theo những hình thức
bên ngoài. Phát tâm như vậy gọi là phát tâm tà. Không phải tâm Bồ-đề mà tu
muốn được thành Phật, chuyện ấy không bao giờ có. Ví dụ quí vị phát nguyện
tu để bản thân và gia đình được hưởng quả này quả nọ, đó không phải là tâm
Bồ-đề mà là tâm tà. Làm sao tâm nguyện của mình đừng bị hạn hẹp, đừng bị
kẹt vướng trong một phạm vi nào. Theo tinh thần luật nhân quả, người tu
đúng chánh pháp, gieo nhân thế nào thì đạt kết quả thế ấy. Gây nhân tà mà
muốn được thanh tịnh giải thoát là chuyện không bao giờ có.
Hai là tâm vị
kỷ, chỉ mong cầu tự mình được an ổn thôi, ai sao đó mặc. Đối với tinh thần
thiền, tinh thần Đại thừa Phật giáo, rất tối kỵ tâm nhỏ hẹp này. Chỉ mong
cho mình được như vậy là tâm ích kỷ, không phải tâm rộng rãi. Người như
thế dù cho có nỗ lực tu hành đến đâu, kết quả cũng trong một phạm vi nhỏ
hẹp của cá nhân mà thôi. Bồ-tát đạo không chấp nhận người tâm hạnh như
thế.
Trong tinh
thần Phật đạo luôn lấy vị tha làm gốc. Chứng kiến từ sự khổ đau của chúng
sanh, ta phát tâm tu hành. Ví dụ thấy bà con ruột thịt của mình hoặc những
nơi có chúng sanh đang bị cảnh điêu đứng cùng cực, ta khởi lòng thương
phát nguyện giúp họ hết khổ bằng cách tự tu sửa mình rồi sau đó độ họ.
Tinh thần vô ngã vị tha của đạo Phật là thế, chứ không phải thấy người
khổ, ta lo tu rút một mình để đừng bị cảnh như vậy. Niệm ấy là niệm tự
lợi, chưa có lợi tha, nên chưa đủ công đức để thành tựu Phật quả. Ta phát
tâm Bồ-đề, cầu thành Phật để độ tất cả chúng sanh đều được hết khổ, an vui
giống như mình.
Phát tâm tu
hành vì tất cả chúng sanh gọi là phát tâm chân chính. Trái lại, cứ nghĩ bo
bo cho mình thôi, thì dù có phát tâm tu hành vẫn chưa phải là chân chính.
Phát tâm như thế là thiên lệch một bên, chưa phải rốt ráo. Người tu hành
không lý do gì lại để bị kẹt trong chỗ nhỏ hẹp, không chân chính, dù có tu
trăm ngàn kiếp cũng không thành tựu được Phật vị an ổn giải thoát.
Ở đây, nói đến
tu hành nhất là tu thiền, tức là nói đến ông Phật gốc của chính mình.
Người tu thiền là người nhận được ông Phật nhân. Trong tất cả việc làm,
phải phát huy để sống thực với Phật nhân đó. Không lý do gì khi ta đã biết
mình có Phật nhân mà cứ ngồi đó nhìn những thứ tăm tối, tự đánh mất thì
giờ, không có lợi gì. Tuy nhiên, trên bước đường tu, chúng ta phải chuyển
lần lần, chớ không thể đi thẳng ngay được. Ví dụ lâu nay mình sống hạn
cuộc, chỉ nói chuyện với những người thân, bây giờ với ai ta cũng nói
chuyện, với ai ta cũng quan hệ vui vẻ bình thường, tạo một sinh khí sống
động trong sự tu hành của chính mình, dần dần tiến lên, thiện ác tốt xấu
bình đẳng, ta sống vô phân biệt mà làm tất cả chuyện trong tinh thần tự
tại vô úy.
Có lời dạy thế
này: “Người tu hành là phải liên tục, chỉ cầu Phật đạo và độ chúng sanh,
nghe khó khổ không thoái chí, độ chúng sanh cang cường cũng chẳng sờn
lòng, như leo lên núi cao, quyết tới đỉnh, lên tháp cao phải tiến đến
cùng”. Ở đây dạy, nếu gặp những đối tượng cang cường, chúng ta càng vững,
càng phấn chấn kiện toàn hùng lực dũng lực của mình, hướng tâm Bồ-đề giúp
đỡ cho những chúng sanh này.
Trong cuộc đời
những điều bất như ý luôn luôn đến với chúng ta. Gặp những trường hợp này,
chúng ta phải có đủ lực để hóa giải, khuyến khích tương trợ nhau cùng tu
cùng tiến để cùng đạt đến chỗ an vui thật sự. Người có tâm nguyện như vậy,
kết quả có thể thành Phật không khó. Chúng ta đã có Phật nhân rồi, bây giờ
làm sao phát huy Phật nhân ấy phát triển viên mãn. Đó là mục đích chính
của người tu Phật.
Khi thực hành
công phu tu chúng ta nên biết thêm điều này, “Người không biết phải quấy,
ngoài tốt trong xấu, ban đầu thì siêng năng, sau lại lười nhác, có tâm tốt
nhưng bị danh lợi giao xen, có cái hay nhưng bị nhuốm bẩn bởi vọng hoặc”.
Đây là một thứ bệnh, ban đầu rất siêng năng học đạo, chấp nhận tất cả
những khó khăn. Nhưng về lâu về dài, lại thoái lui, do nghiệp tập quá dày,
hoặc bị động bởi những thứ chung quanh. Tuy cũng có tu, nhưng trong lòng
đã lay chuyển, tâm Bồ-đề đã lui sụt. Gặp những trường hợp như thế, không
cách gì hơn là chúng ta phải chấn chỉnh, luôn khắc ghi trong lòng thủy
chung trước sau như một. Khi phát tâm tu hành rồi thì phải tiến, không để
thoái lui, không bị động bởi bất cứ thứ gì chung quanh. Có thế mới trung
thành với bản nguyện ban đầu của mình.
Người ban đầu
phát tâm tốt nhưng bị danh lợi giao xen, thì việc tu không còn đúng nghĩa
giác ngộ giải thoát nữa. Danh lợi thường hay xoa dịu tâm cao ngạo của con
người, khiến cho ta tự đánh lừa mình hồi nào cũng không hay. Nếu Phật tử
thật tâm tu hành thì phải dè chừng tâm danh lợi.
Đức Phật dạy
“Bằng sự cố gắng hăng hái không buông lung, tự khắc chế lấy mình, người
thiện trí tạo cho mình một hòn đảo, không bị ngọn thủy triều nào nhận chìm
được”. Chúng ta phải tự tạo cho mình một hòn đảo mà không lượn sóng tham
ái hay tà kiến nào có thể làm chìm đắm được.
Nói tóm lại,
người tu hành chân chính phải phát tâm Bồ-đề, vì sự sinh tử, vì khổ đau
của mình và tất cả chúng sanh mà phát tâm tu hành. Phát tâm tu hành như
vậy mới là phát tâm chân chính, phát tâm không tà ngụy, đó mới là phát tâm
đúng với tinh thần thiền, tinh thần Phật đạo. Đức Thế Tôn cũng như tất cả
những vị đi trước chúng ta đều nhắc nhở, dạy bảo như vậy. Mỗi chúng ta tự
cố gắng để đừng bị nhận chìm bởi những vọng tưởng điên đảo của chính mình
và ngoại cảnh chung quanh.
Nỗi khổ của
chúng sanh là vọng tưởng đảo điên. Có thể nói đó là nỗi khổ lớn lao nhất
của chúng ta. Bao giờ ta làm chủ được, dứt được nó thì mới hết khổ. Có một
ông cụ bị bệnh tim, sống chung với một chàng thanh niên phóng túng trong
một căn gác nhỏ. Anh ở tầng trên, ông cụ ở tầng dưới. Mỗi khi đi đâu về,
anh cởi giày liệng từng chiếc xuống sàn nghe rầm rầm, ông cụ chịu đựng hai
tiếng “rầm” này tới muốn bức thở. Sau một thời gian chịu đựng, ông già
nghĩ kiểu này chắc có ngày mình chết vì cái tật của nó. Nên một hôm ông
già nói với chàng thanh niên:
- Qua có bệnh
tim, mỗi lần em về, đề nghị mở cửa nhẹ nhẹ một chút, em mở cửa mạnh quá
làm qua muốn đứng tim. Nếu có cởi giày thì em làm ơn để nhẹ nhẹ xuống, chứ
em cởi rồi liệng cái rầm, tim của qua nó muốn nhảy ra ngoài. Qua già rồi,
em thương chút.
Anh chàng nghe
vậy hối hận lắm, hứa sẽ thay đổi. Nhưng tuổi trẻ hay quên nên vẫn chứng
nào tật nấy. Hôm ấy, đi làm về anh cũng lỡ tay mở cửa mạnh, nhưng ông già
đã chuẩn bị ôm cái ngực trước. Sau đó lên gác, anh cởi một chiếc giày
liệng cái rầm và chợt nhớ tới lời ông già, anh giật mình cởi chiếc thứ hai
để nhẹ nhẹ xuống. Ông già dưới này ôm ngực chịu đựng và chờ tiếng “rầm”
thứ hai. Cuối cùng chịu hết nổi, ông kêu lên: “Còn một chiếc giày nữa, làm
ơn liệng xuống mau dùm cho, tôi chờ hết nổi rồi”.
Vọng tưởng của
chúng ta như vậy đó. Cuộc sống của con người cứ trải qua những dòng vọng
tưởng cuồn cuộn, làm cho ta sống dở chết dở. Mà đã là vọng tưởng thì đâu
có đúng, thế nhưng trong chúng ta có ai không tưởng và không khổ vì những
thứ tưởng tượng viển vông của mình. Ví dụ đang còn trẻ mà ta đã tưởng
tượng “không biết khi già ai nuôi mình đây” hoặc “mai này chết rồi không
biết ai săn sóc con cháu nhà cửa của mình”. Có vô vàn thứ tưởng rồ dại như
thế.
Đạo Phật yêu
cầu chúng ta phải loại bỏ những thứ vọng tưởng ấy đi. Người tin chắc nhân
quả, thực hiện nhân quả, biết mình đã gây những nhân gì thì sẽ hưởng những
quả ấy. Họ không tưởng tượng hay sợ hãi viển vông. Sống đúng với tinh thần
từ bi trí tuệ, nói ra lời nào, hành động điều gì đều nắm chắc kết quả
trong tay. Từ tưởng tượng mà sanh điên đảo, điên đảo thì lại càng thêm
vọng tưởng rồi khổ sở. Bây giờ bỏ hết những tưởng tượng thì mọi chuyện an
ổn cả. Muốn thế trước ta phải có trí tuệ, thấy đúng như thật về con người,
về các pháp ở thế gian này là không thật, ta không mê chấp nên không khổ
sở vì nó. Nếu không có trí tuệ, không làm chủ được thì không thể bỏ được
nó.
Có ai hỏi quí
vị tu thiền thế nào, quí vị chỉ cần trả lời: “Những gì loạn tưởng điên đảo
thì bỏ đi”. Thế thôi. Thiền là sự sống, là những sinh hoạt hết sức bình
thường mà ở đó lúc nào ta cũng tỉnh thức, biết rõ không lầm về mình và các
pháp. Như vậy là đủ rồi, không thêm bớt gì cả. Tu thiền không phải là cái
gì ngoài cuộc sống này. Trong kinh nhắc nhở thế này “Những đống rác quá
khứ không tốt đẹp, chúng ta đừng bới móc nó nữa”. Nghĩa là phải dừng vọng
tưởng ngay bây giờ.
Ở đây muốn nói
cách dừng vọng tưởng. Một trong những cách đó là, những gì thuộc về quá
khứ thì chúng ta hãy để cho nằm im như quá khứ. Tương lai là những gì chưa
đến, thì chớ nên ước mơ tưởng tượng, vì nó cũng không thật. Cho nên quá
khứ bỏ đi, không bới móc nữa, tương lai cũng đừng suy nghĩ viển vông, chỉ
sống với cái hiện tại của chính mình là hợp pháp nhất. Song nên nhớ cũng
không được đắm nhiễm trong hiện tại. Vì sao? Vì hiện tại cũng không thật,
cũng do duyên hợp sanh diệt liên tục. Ta chỉ cần thấy biết ngay cái đang
là mà không đắm nhiễm hay mắc kẹt vào thời điểm nào cả. Đó là sống đạo,
sống thiền.
Những phương
tiện bên ngoài chỉ được sử dụng trong giới hạn của nó thôi, quan trọng là
nghiệp tập tham sân si của mình cần phải loại bỏ hết. Chúng ta xét trong
mọi sinh hoạt, những việc đã qua, những ước mơ sắp đến, nếu mình làm chủ
được và ngay trong hiện tại sáng suốt bình tĩnh, từng bước tu tạo công đức
lành, từng bước một bỏ nghiệp tập tham sân, thì không nói đạo quả gì nhưng
ta cũng thành tựu địa vị của những bậc giác ngộ giải thoát.
Thành ra chúng
ta có thể kiểm nghiệm xem mình học thiền tiến hay không, bằng cách nhìn
vào sự chuyển hóa nghiệp tập tham lam, sân hận, si mê của mình. Chúng tôi
tin rằng, qua một thời gian dài quí vị đã nghe giảng dạy, hướng dẫn tu
thiền của Hòa thượng Viện trưởng, quí vị nhận ra cách sống đúng với chánh
pháp và gần gũi với những điều tôi đã nói. Như vậy mới không hổ thẹn là
người con Phật, nhất là Phật tử tu thiền.
Kinh Duy Ma
nói: “Do giác ngộ mà phát khởi tâm từ bi”. Thường thường người tu phải có
tâm từ bi. Tâm từ bi chân chính phát xuất từ tâm Bồ-đề. Nhiều Phật tử
không hiểu chữ từ bi trong đạo Phật, nên cứ thương tràn trề lai láng, thấy
ai cũng thương, người ta khổ mình cũng bi lụy theo. Thương như vậy không
phải là tâm từ bi. Tâm từ bi phải được uốn nắn từ tâm Bồ-đề của chính
mình. Từ bi để hướng người đến giác đạo, chứ không phải từ bi vì xoa dịu
những tình cảm riêng tư.
Phật tử có
lòng thương với tất cả là tốt, nhưng phải căn cứ từ tâm Bồ-đề làm gốc. Mọi
việc làm đều bắt nguồn từ tâm giác ngộ, không có gì khác. Ví dụ ta giúp đỡ
ai thì mong người đó phát huy được trí tuệ của họ, hướng về con đường giải
thoát mà thực hiện Phật đạo. Không phải vì ta thương, vì thấy người đó có
tình cảm hợp với mình hoặc gia đình mình mà giúp họ. Cuộc sống của người
Phật tử phải lập cước trên tâm giác mà phát huy mọi mặt. Như vậy chúng ta
mới đi đúng hướng của Phật dạy và đạt được sự an vui như đức Phật.
Thật ra chữ
Tăng bảo trong nhà Phật bao hàm hai ý nghĩa lớn. Một là chúng tăng thanh
tịnh tu theo giáo pháp của đức Phật. Hai là sự trong sạch, hoan hỷ, hòa
thuận trong lòng của chúng ta. Phật tử có thể buông bỏ hết phiền não, tha
thứ cho mọi người, sống vui vẻ tương trợ nhau. Đó là tinh thần hòa hợp,
hoan hỷ, thanh tịnh của Tăng. Người Phật tử ngay trong sinh hoạt của gia
đình mình, sống đúng với tinh thần chánh pháp, thể hiện cuộc sống hoàn
toàn thanh tịnh giải thoát. Đó là quí vị sống theo tinh thần Tam bảo rồi.
Ví dụ như nói
nhờ đi chùa ta biết được đâu là chánh đâu là tà, nên bây giờ áp dụng vào
cuộc sống của mình. Nhờ học pháp mà biết được pháp nào chân thật, đưa mình
đến chỗ thực sự an ổn giải thoát, nên tâm hồn ta trong sáng định tỉnh hơn
trước. Những gì chân chính thanh tịnh thường đem lại cho đời sống của mình
an vui, chúng ta theo đó mà áp dụng tu hành. Quí vị có thể tụng kinh hoặc
ngồi thiền miễn trong tâm yên ổn vui vẻ là tốt. Nên nhớ luôn luôn xét lại
và sống đúng với tinh thần đạo lý giải thoát thanh tịnh.
Đã là Phật tử
chúng ta đừng làm khổ mình nữa. Các pháp trôi chảy trên thế gian như dòng
nước, nếu nó còn lại trong ký ức thì cũng như chiếc máy quay phim chụp
hình vậy thôi. Ta có nhìn thấy thì cũng chỉ là những hình ảnh trên phim,
có thật đâu mà buồn mà nhớ. Ví dụ quí vị thương một con người nào đó, thì
hình ảnh của họ cũng là hình ảnh thôi. Chưa chắc bây giờ mình nhớ thương
họ mà họ còn nhớ thương mình như hồi nào. Thôi ta trở lại vị trí của mình,
người Phật tử sống chân chánh, phải sáng suốt không bị quá khứ kéo lôi,
tương lai dẫn dắt, mọi vọng tưởng đều là bóng dáng hư ảo, buông bỏ hết đi.
Được vậy thì hết buồn hết khổ ngay thôi.
Mong rằng toàn
thể quý Phật tử có thể từng bước một thực hiện cuộc sống như vậy. Nhớ là
tất cả những gì đã qua thì cho nó qua luôn, đừng kéo lại. Làm sao ta hài
hòa, sáng suốt trong cuộc sống hiện tại. Đó là tinh thần sống thiền cũng
là đường vào đạo của người Phật tử.
Chúc quí vị
thành công.
? |