TINH TẤN
Hôm nay chúng
tôi sẽ nói một số cách thức tu hành phổ thông, Phật tử tùy theo căn cơ, sở
thích mà tự chọn pháp tu thích hợp với mình. Được vậy công phu mới tinh
tấn liên tục, niềm tin vững chắc, không bị lay chuyển bởi bất cứ trở lực
nào bên ngoài.
Nói về những
điều kiện tu hành, người xưa thường dạy chúng ta, thứ nhất là không sợ
sệt. Dù mình thấp kém, nghèo khó hơn người nhưng một khi đã nhận được pháp
tu rồi, vững tin Tam Bảo thì không sợ sệt gì hết. Từng bước, từng phút
giây ta thực hiện công phu tu hành. Hiện tại con người có nhiều thứ để sợ
quá. Cái làm cho chúng ta sợ nhất là chết. Cho nên anh em chúng tôi hay
nói với nhau “Chết không sợ thì thôi, không sợ gì hết”.
Quả thật như
vậy, ai cũng sợ chết. Người con Phật không sợ chết thì nhất định không sợ
những thứ gì khác. Trong cuộc đời này, cơm ăn, áo mặc, danh vọng, tiền
tài, sắc đẹp là những thứ mà con người ngược xuôi cả đời tìm kiếm đuổi
bắt. Cũng từ đó mà phát sinh ra đủ thứ lo sợ. Sợ thiếu cái này, mất cái nọ
v.v… Phật tử phải là người bình tĩnh hơn ai hết, tự nghiệm lại mình xem ta
cần phải chuẩn bị những gì.
Thật ra danh
vọng, tiền tài, giàu nghèo đẹp xấu, thân bằng quyến thuộc có mất đi chưa
phải là cái đáng sợ. Còn một cái quan trọng nhưng chúng ta xem thường, cứ
để thời gian qua, không chịu chuẩn bị. Đó là gì? Như các Thiền sư nói đến
đêm ba mươi tối, ta phải từ giã tất cả người thân, bỏ lại những gì đã từng
ôm giữ, quý mến. Lúc ấy ta không còn giữ được sự chủ động về thân này, tâm
này, hà huống là những thứ chung quanh. Nếu có sợ thì nên sợ phút giây đó.
Cho nên người ta sợ chết cũng phải. Bởi chưa chuẩn bị hành lý cho một
chuyến đi nguy hiểm, mà chỉ có một mình mình thôi. Đi bằng nghiệp lực,
bằng phúc báu hoặc những vốn liếng gì ta đã tạo lúc sinh tiền. Chỉ người
nào đã chuẩn bị sẵn sàng, không thiếu gì cả, đầy đủ tư lương và biết rõ
con đường mình đi thì mới không sợ.
Vậy thì những
tư lương ấy là gì? Là nghiệp là phúc, là tất cả những công đức do sự tu
tập liên tục của chúng ta. Nếu có công đức thì ta vượt qua chỗ tăm tối đã
không làm cho mình phải sợ sệt. Muốn có các thứ tư lương ấy thì ngay trong
sinh hoạt hàng ngày, chúng ta phải chuẩn bị. Phật dạy làm lành lánh dữ
chính là chỉ dẫn cho chúng ta cách tạo vốn liếng, tư lương để dành lúc ra
đi không bị sợ hãi vây khốn. Do đó giáo lý nhân quả trong Phật giáo là nền
tảng căn bản cho Phật tử tu tập.
Chúng ta phải
nắm vững, hiểu rõ và liên tục tu hành mới có đầy đủ công đức. Khi hiểu
được Phật pháp rồi, quan trọng là sự hành trì liên tục, tinh tấn. Không
thể một nắng mười mưa, hôm nay siêng ngày mai lười nhác mà được kết quả
tốt đẹp. Người có tâm dễ duôi xem thường như thế, dù trải qua ba bốn mươi
năm tu hành cũng chẳng được kết quả gì. Có những vị tu hành cũng năm mười
năm, thậm chí hai ba mươi năm cũng chưa hết sân. Một quá trình tu tập dài
như thế mà vẫn còn đầy dẫy phiền não, thì thử hỏi người ấy tu cái gì? Cho
nên điều này, mỗi chúng ta cần phải kiểm nghiệm lại chính mình, xem cách
thức tu hành ra sao, kết quả thế nào? Tự vấn như thế đôi khi giúp ta có
tỉnh.
Nếu sợ, ta nên
sợ những điều này. Sợ sự tăm tối của vô minh điên đảo, sợ không kiểm soát
được những thói hư tật xấu của mình, để nó tạo nghiệp lẫy lừng, sợ sự cố
chấp ngông cuồng của chính ta. Chúng ta phải biết sự hiện diện của mình
đây là do nghiệp báo đời trước. Nghiệp báo ấy chỉ có công phu tu hành mới
giải tỏa nổi thôi. Nếu không chịu tu thì ta cứ cụng đầu trả vay nợ nần mãi
thôi. Cho nên chỉ người tu mới có đủ lực hóa giải nghiệp báo. Ta chuẩn bị
là chuẩn bị tu tập như vậy.
Nếu tư lương
đã đủ, sự chuẩn bị đã kỹ càng thì ta không sợ gì nữa hết. Tu là đầu tư lực
dụng, trí tuệ để phá tan tất cả si mê điên đảo của chính mình. Bởi nghiệp
lực không thể dùng danh vọng tiền tài khống chế được. Danh vọng tiền tài
đắp vô càng làm nó tăng trưởng dữ dội. Chỉ có định tuệ và sự tu hành tinh
tấn liên tục mới trừ khử những điên loạn của chúng ta.
Người hiểu
đạo, biết lo cho mình rồi sẽ thấy không đủ thì giờ, để làm việc gì gì nữa
cả. Vì tất cả đều tập trung vào chủ đề duy nhất là làm sao tiêu vọng hoặc
điên đảo trong lòng mình. Ngày nào chưa dẹp được nó thì ta phải sợ, vì nó
sẽ dẫn mình đi trong những chỗ tối tăm đau khổ. Ngày xưa, dòng họ Thích Ca
phải chịu đại nạn bị vua Lưu Ly giết sạch, đức Phật đã không ngăn nổi vì
đó là nghiệp của họ Thích đã gây tạo. Đến lúc phải trả, không ai có thể
cứu được, ngay cả bậc Vô thượng như Phật cũng đành bó tay.
Nói thế để trở
về vấn đề nghiệp, vấn đề nhân quả. Đây mới là những vấn đề chúng ta phải
đầu tư lo sợ, chuẩn bị cho mình. Bởi trên mặt nghiệp thì không ai có thể
thay thế cho ai được. Chí thân như cha mẹ, anh em, hay thầy tổ chúng ta tu
hành đắc đạo cũng không thể cứu vớt được mình. Ngoài đời cũng thế, ví dụ
người giàu có muôn hộ, mà con cháu nhậu nhẹt, hút xì ke ma túy, cuối cùng
chúng phải vào khám đường thôi. Nếu nó chịu cải tạo thì có ngày được trở
về với cha mẹ, trái lại nếu không chịu cải tạo thì cuộc đời kể như đi đứt,
không còn gì để nói nữa. Tu hành cũng vậy, bản thân ta không chịu tu sửa,
chuẩn bị cho mình thì nghiệp quả phải tự chuốc lấy.
Cho nên mỗi
người cần ý thức, tự lực bảo trì, lo lắng cho mình, không đổ thừa cũng
không nhờ vả ai. Đức Phật, thiện hữu tri thức chỉ là người nhắc nhở, hướng
đạo, còn tự thân chúng ta phải thực hành, chuyển đổi những nghiệp xấu
thành tốt. Từng bước tu sửa như vậy, lâu ngày tích lũy thiện nghiệp thì ta
sẽ được hưởng quả an vui.
Trong kinh Tứ
Thập Nhị Chương đãù nêu lên một ví dụ như vầy: “Như có một khúc gỗ trôi
trên dòng sông theo thủy triều lên xuống không dừng. Muốn cho khúc gỗ ấy
trôi tới bến đỗ, thì phải đủ những điều kiện thế này: Đừng mục nát giữa
chừng, đừng tấp bên này hoặc bên kia, đừng bị nước xoáy nhận chìm, đừng bị
người vớt lấy. Với những điều kiện đó, bảo đảm khúc gỗ ấy sẽ trôi được tới
bến”.
Cuộc đời tu
hành của chúng ta cũng vậy, muốn tu tới nơi tới chốn, được dự vào dòng
Thánh, được an vui vĩnh viễn thì phải như khúc gỗ Phật đã dạy. Nghĩa là
đừng tấp bờ bên này hay bờ bên kia, vì tấp bên nào cũng bị người ta vớt
lấy, hoặc bị kẹt trong các lùm bụi. Hai bên bờ không phải là nơi yên ổn
cho chúng ta, đó là điều hẳn nhiên rồi. Kế nữa là giữ đừng để mục rã, tự
mình đừng gây tạo nhân gì làm thối hóa tâm Bồ-đề, làm tan vỡ niềm tin đối
với Phật pháp, đối với Tam Bảo. Đó là những điều cần thiết chúng ta cần
phải nhớ.
Đối với những
trở lực chung quanh, nếu không biết tu, không sáng suốt bình tĩnh, chúng
ta sẽ đổ thừa tại cái này, tại cái kia, tại hoàn cảnh hay tại thầy lôi
thôi, tôi tu không được… đủ thứ “tại”. Những dòng nước xoáy ấy nhận chìm
mình không hay vì ta chỉ hướng ra bên ngoài. Người tu phải sáng suốt, vững
tin hơn ai hết, tinh tấn liên tục, sáng suốt liên tục, không để lầm bất cứ
thứ gì, dành lấy thế làm chủ cho mình. Những cái “tại”, “bị” chung quanh
chúng ta phải dùng ánh sáng trí tuệ, thiền định mà phá tan hết.
Niềm tin là
một yếu tố quan trọng trong việc tu đạo của chúng ta, nhưng phải tin như
thế nào mới đúng? Trước hết là tin mình có khả năng thành Phật. Chư Phật
tu thành Phật, chư Thánh tu thành Thánh, thì không lý do gì chúng ta tu
không thành Phật. Các Ngài cũng là con người, các Ngài tu được, chúng ta
cũng là con người nên cũng phải tu được. Nếu mình luôn thắp sáng ý thức
ấy, trí tuệ ấy thì tâm Bồ-đề không bao giờ bị lui sụt và nghiệp lực không
còn là vấn đề đáng sợ nữa.
Người Phật tử
phải gan dạ, dũng mãnh khắc phục tất cả trở lực chung quanh. Ai đi không
nhanh thì đi chậm, chớ nhất định không dừng bước hoặc bỏ cuộc. Chúng ta
nên nhớ điều này, hễ có đi thì có tới, chỉ trừ khi ta đứng ì một chỗ thì
không tới đâu hết. Chúng ta là những người đang đi, quyết đi và nhất định
phải đi đến nơi. Phật nói tất cả chúng sinh là Phật sẽ thành, nếu chúng ta
đứng ì một chỗ thì câu nói của Phật sai mất. Nói sẽ thành Phật mà không
chịu tu làm sao thành được. Thế nên ai không tu là vô tình làm cho lời nói
của Phật giảm giá trị. Nói đủ là thế này, tất cả chúng sanh đều sẽ thành
Phật nếu sửa bỏ tham sân si, những nghiệp tập điên đảo loạn tưởng của
mình.
Chúng ta tu để
phát triển trí tuệ, gầy dựng chủng duyên Phật thì xin nhớ cho, đừng bao
giờ để các duyên bên ngoài tác động làm cho trí tuệ, chủng duyên ấy tắt
ngủm. Bởi chỉ có trí tuệ mới giải quyết được tất cả. Cho nên dù gặp bất cứ
duyên thuận nghịch thế nào, làm ảnh hưởng đến việc tu tập, chúng ta nhất
định gác qua một bên, quyết tâm tu đạo đến nơi đến chốn. Vì thế Phật dạy
đừng để khúc gỗ bị người vớt đi. Nhiều vị chủ quan, hơi xem thường ngoại
duyên, để rồi cuối cùng bị mất mình bởi các duyên đó.
Đức Phật trải
qua ba A-tăng-kỳ kiếp khổ cực, chịu đựng tất cả mọi gian nan mới thành tựu
được giác ngộ giải thoát. Ngài truyền dạy lại cho chúng ta pháp tu để an
vui như Ngài. Thế nên trong quá trình tu học, chúng ta đã đốt được một
đoạn đường quá dài. Nếu nửa chừng đổ vỡ thì thật uổng phí biết bao!
Khi thấu suốt
được thực tướng của các pháp, đức Thế Tôn cho chúng ta biết tất cả các
pháp trên thế gian đều là tướng duyên hợp, không thật, chớ khổ nhọc theo
đuổi nắm bắt nó nữa. Vì lâu nay thấy thật nên ta tranh đấu, ngược xuôi vật
lộn cả đời, gầy dựng đủ thứ. Cho tới khi hơi thở sắp chấm dứt, con mắt
muốn mở mở không được, cái miệng muốn nói nói không xong thì sự việc đã
muộn quá rồi. Nghiệp lực gây tạo cuốn hút đi không làm gì được. Nên khi
còn trai trẻ mạnh khỏe, có người chỉ cho ta biết con đường về nhà, ta
không phải ra công tìm kiếm đào xới gì cả, chỉ có cất bước. Công ơn ấy lớn
lao biết chừng nào!
Phật dạy những
loạn tưởng lăng xăng điên đảo không thật, bỏ đi. Bỏ được thì sống với thể
thanh tịnh tròn đầy, trí tuệ chánh định đầy đủ. Chánh định đó không phải
trên bồ đoàn, trước điện Phật mới có, mà ngay khi ta đang làm việc, tiếp
khách, ăn cơm… bất cứ loạn tưởng nào dấy khởi cũng đều biết nó là vọng,
buông đi thì được đại định. Thấy như vậy, áp dụng được như vậy, lóe lên
chút ánh sáng trong cuộc đời, nếm chút chút hương vị ấy rồi, mình mới thấy
công ơn của những bậc đã tái tạo cuộc đời chúng ta to lớn đến chừng nào.
Cho nên trong
lúc ta còn bén nhạy tinh nhuệ nên dụng công tu đắc lực, đừng để các giác
quan kém đi thì việc tu khó hơn. Phật tử nên nhớ tu không phải nhắm mắt,
đóng lỗ tai, khép miệng suốt ngày. Con mắt cứ mở, lỗ tai cứ nghe, miệng cứ
nói, tất cả đều bình thường nhưng biết rõ ràng. Những gì loạn tưởng thì bỏ
đi, đó chính là gốc của sự tu. Lục tổ bảo ấy là đại định hiện tiền.
Chúng ta sống
trong hoàn cảnh bận bịu việc nọ việc kia, thì cần phải tự khắc tự hứa với
lòng, thực hiện cho bằng được công phu như thế. Pháp tu này chú trọng trên
trí tuệ, cho nên chúng ta có thể tu trong mọi hoàn cảnh, động cũng như
tịnh. Đừng để thời gian trôi qua, trễ quá ta sẽ già nua đi lụm cụm, không
làm chủ được thì tu không nổi nữa. Thế nên tôi nói chuẩn bị là lúc mạnh
khỏe mình phải lo tu, không nhất thiết trong hình thức nào.
Trong nhà
thiền, “biết” là chủ đạo. Dùng trí tuệ quán chiếu cái nhà không thật, con
người không thật… tự khắc chúng ta sẽ hiểu tất cả đều không thật. Áp dụng
như thế thì đâu còn tranh giành với nhau nữa. Cho nên phải sáng suốt vững
vàng chúng ta mới tu được. Tu hành cốt phải hết phiền não, phát tâm Bồ-đề.
Nếu hóa giải được phiền não thì phiền não tức là Bồ-đề. Ví dụ như có người
nói mình là con bò, ta cứ bình tĩnh nghe họ nói từ sáng đến tối cũng được,
thử xem mình có thành con bò không? Ngay việc phiền não mà ta không phiền
não tức tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh là Bồ-đề chứ gì?
Người đời
không như thế, vừa nghe nói con bò là đấm người ta rồi. Phải chi họ nói
con bò, ta thành con bò thật thì nên giận. Đằng này nói khô cả cổ họng ta
vẫn không biến thành con bò, như vậy có mất mát tổn thương chi đâu mà ta
nổi trận lôi đình. Thì ra tuy thân mình không biến thành bò, nhưng tâm
cũng ngu si như con bò nên mới phiền não như vậy. Cho nên người biết tu
hay không biết tu là ở chỗ đó. Nếu nhận được các pháp không thật, ngôn ngữ
không thật, tâm lúc nào cũng yên ổn thì phiền não tức là Bồ-đề.
Trong kinh
A-hàm kể lại. Một hôm đức Phật đi khất thực, có một ông Bà-la-môn lẽo đẽo
theo sau chửi Phật hoài. Nhưng đức Thế Tôn vẫn im lặng đi, gương mặt bình
thản không một nét phiền giận. Ông kia tức quá, mới chận đường Phật và
hỏi:
- Cồ-đàm! Ông
có điếc chăng?
Đức Phật trả
lời:
- Ta không
điếc.
- Vậy tại sao
tôi chửi ông không trả lời?
Phật dùng một
ví dụ để trả lời:
- Ví như nhà
ông có giỗ, mọi người đến dự xong ra về, ông gởi mỗi vị một gói quà. Nếu
những người ấy không nhận thì quà đó thuộc về ai?
Ông ta trả
lời:
- Nếu họ không
nhận thì số quà đó thuộc về tôi, chứ còn về ai nữa!
- Cũng thế,
ông chửi ta nhưng ta không nhận thì những lời đó thuộc về ai?
Ông Bà-la-môn
nghe Phật nói thế liền nhận ra đạo lý, nên quy kính và nguyện làm đệ tử
của Phật. Bài thuyết pháp của đấng Thế Tôn quả thật là đặc biệt, chỉ một
câu thôi đã chuyển được tâm của vị Bà-la-môn kia.
Chúng ta thấy
rõ ràng tu hành như thế có khó khăn gì đâu. Từng phút giây cải thiện những
tâm niệm hẹp hòi, tăm tối của chính mình, loại bỏ nó đi. Chúng ta ngồi
thiền cũng để loại bỏ nó, tụng kinh cũng để loại bỏ nó, đi chùa cũng để
loại bỏ nó, lạy Phật cũng để loại bỏ nó, làm tất cả công đức đều hồi hướng
cho mình đủ lực để loại bỏ những tăm tối nhỏ nhen, ích kỷ tỵ hiềm ra hết.
Chính những tâm này là hàng rào kẻm gai ngăn bó ta lại, không thể phát huy
trí tuệ được. Bây giờ muốn tháo gỡ hàng rào kẽm gai ấy thì phải chặt đứt
hết dây mơ rễ má, những thứ ràng buộc tăm tối.
Tôi nhớ câu
chuyện thời Phật còn tại thế. Một cô gái mất mẹ sớm, sống bên cạnh người
cha và anh của mình. Cả hai người đàn ông rất cưng chiều cô gái, họ sống
hạnh phúc được một thời gian. Sau đó ông già mạng chung, cô gái đau đớn
khóc cha chưa nguôi thì chẳng bao lâu sau người anh trai duy nhất cũng từ
giã cõi đời. Trước nỗi thống khổ ấy, cô gần như sảng sốt vì mất nơi nương
tựa nên cuối cùng bỏ nhà đi lang thang, xin ăn đầu đường cuối chợ. Tuy
nhiên, đến tối cô tìm về nương náu trong Tinh xá hoặc các ngôi miếu.
Hôm đó, một
Tôn giả đại đệ tử của Phật đi khất thực nhìn thấy người con gái tiều tụy,
nhưng gương mặt và dáng dấp không phải là người thường. Tôn giả nghĩ chắc
cô gặp một hoàn cảnh như thế nào đó, nên liền dùng huệ nhãn xem thấy cô có
duyên với Phật pháp. Bấy giờ Tôn giả nghĩ cách muốn hóa giải sự đau khổ
cho cô, Ngài bèn đi đến mái hiên cái miếu hoang, chỗ cô nghỉ để khất thực.
Thấy Tôn giả đến, cô nói:
- Bạch Ngài,
con nghèo khổ lắm không có gì để cúng, thỉnh Ngài đi nơi khác.
Tôn giả nói:
- Phước cúng
dường chư Tăng rất lớn. Nếu con muốn hết khổ thì nên phát tâm cúng dường,
bất luận thứ gì cũng được.
Cô gái nghe
thế, nhìn thấy chung quanh mình không có gì khác hơn miếng cơm cháy. Cô
vui vẻ phủi sạch miếng cơm cháy ấy dâng lên cúng dường Tôn giả bằng tất cả
lòng thành. Tôn giả cũng rất hoan hỷ nhận vật cúng dường và nhất tâm hồi
hướng phước đức cho vị đại thí chủ này.
Bởi công đức
cúng dường ấy nên thời gian sau cô chết và được sanh lên trời Hóa Lạc, tức
là nơi vui vẻ hạnh phúc, đầy đủ tất cả. Nơi đó không mất người thân, không
thiếu cơm gạo, hoàn toàn an vui khoái lạc. Nhớ lại ân đức của Tôn giả, cô
trở lại đảnh lễ tạ ơn và báo cho Ngài biết do công đức cúng dường ngày
trước mà cô đã được sanh thiên. Tôn giả nhắc nhở thêm cho cô:
- Ngày xưa
trong hoàn cảnh nghèo khổ, con đem hết lòng thành cúng dường cho ta nên
thoát được khổ đau. Bây giờ đã an hưởng hạnh phúc cõi trời, cũng nên nhớ
nuôi dưỡng tâm lành, làm việc phước thiện, vun bồi trí tuệ, đừng ích kỷ
nhỏ nhen thì phước báu ấy sẽ không mất, lại còn tăng trưởng. Nếu không như
thế, con chỉ hưởng phước một thời gian, sau khi hết phước cũng phải đọa
lạc trong cảnh khổ nữa.
Từ bài pháp
ấy, vị trời phát tâm tu tiếp, do đó nên đời đời kiếp kiếp hưởng phúc lạc
vô biên.
Qua câu chuyện
trên chúng ta thấy, cô gái chỉ phát tâm cúng dường một miếng cơm cháy với
lòng thành mà được kết quả như thế. Nhưng với người nghèo đói thì một
miếng cơm cháy là cả sự sống của họ, muốn phát tâm cúng dường không phải
là chuyện dễ. Từ đó chúng ta kiểm lại trong cuộc đời, trong sự tu tập của
mình để tinh tấn tạo phước duyên nhiều hơn.
Ta dám đánh
đổi, dám bỏ những gì gắn liền với mạng sống của mình, gan dạ buông bỏ, bố
thí, thì phúc lạc ấy dĩ nhiên sẽ chờ đón ta. Không đợi sau khi chết mình
mới được an vui, mà ngay trong hiện đời cũng được an vui, vì cõi lòng được
cởi mở. Nhà Phật gọi sự an vui ấy là hiện tại lạc trú Niết-bàn, tức niềm
vui ngay trong hiện tại. Ngược lại, nếu lúc nào ta cũng bo bo chấp giữ thì
chẳng những hiện đời sống đau khổ mà đời đời phải chịu khổ đau.
Cho nên Phật
nói người khổ là người chấp, người nắm lại. Người dám buông là hết khổ.
Chúng ta đa số nắm chứ không dám buông thành ra khổ hoài. Như tôi đã nói
lẽ ra người tu không sợ gì hết, nhưng quả thật chúng ta đang sợ. Sợ đủ thứ
hết. Sợ cho miếng cơm cháy, lát nữa không có gì ăn, sợ cho hết mấy trăm
đồng lát nữa đi xe không có tiền, sợ già bệnh không có ai nuôi… Bởi sợ nên
bo bo cất giữ thủ trước, nên chưa mở rộng lòng ra thì Niết-bàn, Bồ-đề làm
sao có được! Nói thì hay lắm mà không có gì tương ứng, không có gì là kết
quả cụ thể. Nếu chưa cởi mở được, chưa chuẩn bị sẵn sàng thì việc tu khó
lắm, không phải dễ đâu.
Thêm một câu
chuyện nữa. Như chúng ta đã biết Tôn giả Mục Kiền Liên là vị đại đệ tử
thần thông đệ nhất của đức Phật. Một hôm Tôn giả du hành xuống địa ngục,
thấy vô vàn sự khổ đau. Những chúng sanh ở đó gặp Ngài vây quanh than khóc
về những nỗi thống khổ mà họ phải chịu. Đồng thời họ nhắn gởi về người
thân còn sống trên nhân gian nên tu tập, làm các việc công đức, đừng gây
tạo các nghiệp ác để chuốc quả khổ như họ.
Tôn giả nhận
lời và làm tròn nhiệm vụ của mình xong, Ngài thưa với đức Phật tìm cách
cứu vớt chúng sanh đang chịu khổ đau dưới địa ngục. Đức Thế Tôn chấp nhận
tổ chức những buổi lễ cho Phật tử về Tinh xá cúng dường trai tăng, nhờ
công đức tu hành của chư Tăng hồi hướng cho những thân nhân khổ đau dưới
địa ngục. Sau đó, Tôn giả Mục Kiền Liên dạo xuống địa ngục một lần nữa,
thì được biết nhờ công đức cúng dường và sức chú nguyện của chư Tăng, các
chúng sanh đó đã chuyển đổi tâm dữ nên được sanh lên cõi trời, hết khổ.
Lần sau Tôn
giả dạo lên thiên đàng, thấy chúng sinh trên đó sung sướng không gì sánh
bằng, sắc diện tươi đẹp vô cùng. Nhưng có một điều nguy hại, là vì chúng
sanh ở đây không có khổ, nên họ không được nghe âm thanh khổ, không thấy
sự kiện khổ và lòng họ không có niệm gì về sự khổ nên họ cũng không chút
nghĩ tới việc tu hành. Nhân đó Ngài thuyết pháp nhắc nhở: Các vị có phước
nếu chỉ lo hưởng thì sẽ hết phước. Chi bằng cố gắng vun bồi thêm phước
đức. Nếu không, khi hết phước sẽ rơi xuống địa ngục thọ các quả báo xấu mà
mình đã tạo trong những đời trước.
Qua lời cảnh
tỉnh ấy, có một số vị trời khắc tỉnh nhưng cũng có một số chưa tỉnh. Bấy
giờ ngài Mục Kiền Liên mới vận thần thông đem một chút lửa dưới địa ngục
lên cho các vị trời thấy. Chỉ một chút lửa thôi mà vị nào vị nấy sém mày
sém mặt hết, bởi sức nóng của nó có thể thiêu đốt tất cả. Lửa ấy là lửa
gì? Lửa tham sân điên đảo, lửa ham vui ngũ dục, lửa không biết tu hành.
Các vị trời hoảng quá, tất cả đều phát tâm tu hành.
Ở đây tôi muốn
nói trong từng bước, chúng ta tu là có kết quả, có công đức. Hết tham thì
được Niết-bàn an vui. Hết sân thì lửa giận không còn thiêu đốt thân tâm
nên được mát mẻ thanh lương. Hết si mê điên đảo thì trí tuệ sáng suốt,
không còn mê lầm tạo nghiệp đi trong trầm luân sanh tử nữa. Những điều này
chúng ta có thể thực hiện được ngay trong cuộc đời hiện tại. Từng niệm,
từng khắc thực hành thì sẽ được kết quả. Chứ nếu không tu mà nói cao tột
thì khi nghiệp đến, mình chỉ như nắm bụi bị cơn lốc cuốn đi vùn vụt.
Trở về vấn đề
tu hành của chúng ta, làm sao từng phút, từng khắc chúng ta đừng bỏ quên
Niết-bàn hiện thực. Đó là gì? Là bỏ tham, bỏ sân, bỏ si. Rõ ràng chính mỗi
chúng ta đang có Niết-bàn mà mình không dám nhận. Chúng ta cứ nguyện cứ
mong cái gì bên ngoài, ở đâu đem đến hoặc cầu trời khẩn Phật ban cho mà
không nhớ Phật ở trong tâm mình. Ví dụ bây giờ muốn thành Phật thì phải
tu, phải siêng năng liên tục, áp dụng đúng pháp Phật dạy thì nhất định đạt
được kết quả như ý.
Tu nghĩa là
sửa. Sửa những gì ta đã sai quấy. Như phiền não là sai quấy, bây giờ biết
tu rồi ta đừng phiền não nữa. Hết phiền não là an vui, chớ có gì lạ. Nhưng
muốn hết phiền não, được an vui thì phải có trí tuệ. Trí tuệ mà thiếu đi
thì phiền não dẫy đầy, nghe một câu nói chướng tai là nổi nóng liền, rõ
ràng như vậy. Phật tử đi chùa sửa được những điểm dở của mình, khắc phục
được vọng tưởng, phát huy trí tuệ của mình thì đi chùa lạy Phật ấy là tu.
Còn đi chùa lạy Phật mà loạn tưởng điên đảo hoài, si mê chấp chặt đủ thứ
hết thì không phải là tu.
Việc tu hành
thật ra không phải là khó, nhưng nói cho đúng cũng không phải dễ. Biết thế
rồi chúng ta cố gắng sắp đặt cho việc tu của mình có kết quả. Ví dụ tháng
này vọng tưởng của mình một trăm phần, thì tháng sau bớt được còn chín
mươi chín phần chẳng hạn. Tháng sau kế bớt chút nữa. Năm này bớt được một
phần trăm, năm sau bớt được một phần trăm. Từ đây cho đến ngày thân này
tan rã, những loạn tưởng si mê của mình cũng mất đi kha khá. Được vậy, đó
là người sáng suốt, người có trí, người tu đúng chánh pháp, có kết quả.
Trái lại cứ ù lì ra đó, ngày nào cũng tụng kinh, lạy Phật sám hối mà kể lể
đủ thứ chuyện phiền não, thì đó chưa phải là người biết tu, chưa phải đệ
tử Phật.
Cho nên yếu tố
tinh tấn trong nhà Phật rất quan trọng. Tinh tấn ở đây là siêng năng quán
chiếu liên tục để buông bỏ vọng tưởng, phiền não. Sửa những nghiệp dở,
những sai lầm tăm tối, khắc phục, loại bỏ chúng. Đó là gốc của sự tu, chớ
không phải tụng kinh nhiều lạy Phật nhiều mà đầy dẫy tham sân phiền não.
Chúng ta chỉnh được mình rồi thì đốt nhang thưa với Phật thế này: “Kính
bạch Phật, hôm nay con đã sửa được tật nóng giận rồi… Tính ra con đã lạy
Phật bao nhiêu ngàn lạy, mà chỉ hôm nay mới biết sửa mình, biết tu”. Đó là
niềm vui lớn nhất của chúng ta.
Mong rằng với
sự tinh tấn ấy, nhất định chúng ta sẽ thành tựu được lời của đức Phật đã
nói: Tất cả chúng sanh đều là Phật sẽ thành.
? |