TÂM VÀ KIẾN
Buổi nói
chuyện hôm nay chúng tôi nói về “Tâm” và “Kiến” của người tu, nhất là
những hành giả tập tễnh đi vào con đường thiền. Đây là những pháp cần
thiết trong khi áp dụng tu, nhất là trong sinh hoạt hằng ngày. Phải điều
dụng tâm như thế nào, giải quyết những kiến chấp ra sao, hóa giải nó để
chúng ta được thực sự an ổn.
Nói về tâm,
trước hết chúng ta phải biết tâm là cái gì? Thường trong kinh nói tâm là
chỉ cho cái thanh tịnh, sáng suốt, lặng lẽ nơi mỗi chúng ta. Nhưng muốn
sống được với tâm ấy, chúng ta phải tu làm sao, áp dụng Phật pháp như thế
nào để sống được với tâm của mình. Lâu nay nhiều người đã hiểu lầm tâm là
những suy nghĩ của mình. Thưa, cái ấy không phải là tâm chân thật đâu, nó
là vọng tưởng, bóng dáng của sáu trần, chợt khởi chợt hiện vọng động không
dừng. Muốn sống được với tâm chân thật, chúng ta phải bỏ những vọng động
kia, chỉ chừng ấy việc thôi.
Bây giờ làm
sao bỏ được những vọng động ấy đây? Trong cuộc sống hàng ngày, bao nhiêu
kinh nghiệm, kiến thức, hiểu biết, lúc nào nó cũng đầy dẫy như sóng biển.
Chúng ta phải dừng được, buông được những thứ đó thì may ra mới có thể
sống trở lại với tâm chân thật. Ví như chủ nhà có làm chủ được mình, thì
mới giữ đúng cương vị, vai trò của một gia chủ. Luôn luôn sáng suốt quán
xét mọi việc một cách phân minh hợp lý, khi khách khứa tới đông đảo, không
để khách dẫn dắt đề nghị thế này thế nọ, người đó mới thật sự yên ổn.
Nhược điểm của
chúng ta lâu nay là muốn được yên ổn nhưng cứ lao theo vọng tưởng. Muốn
như thế chỉ là ước muốn mà thôi, chứ không bao giờ trở thành hiện thực. Do
đó chúng ta không nhận được tâm chân thật của mình, thì việc sống với tâm
ấy làm sao có được. Chỉ khi nào ta làm chủ được mình, nhận và sống được
với tâm ấy thì mới có hạnh phúc, an lạc thực sự. Nhưng bao giờ ta làm chủ
được mình? Đây là một câu hỏi mà mỗi người cần phải tự vấn.
Sống với vọng
tưởng thì một ngày có bao nhiêu chuyện phiền phức, quấy rầy chúng ta. Sớm
trưa khuya tối và trong bất cứ giờ giấc nào, không bao giờ vọng tưởng để
cho mình yên. Ăn nó cũng đến, nghỉ nó cũng không tha, làm việc nó cũng xen
vào, luôn cả giờ tu học, nó cũng phá rối. Nhiều vị tu rất lâu năm mà vọng
tưởng cứ dẫy đầy, cứ tràn lên. Cũng có vị biết cách sử dụng trí tuệ để hóa
giải nó, nhưng cũng có người thua cuộc, mặc tình nó lôi kéo đi đâu thì
theo đó, trôi hết cả một đời tu. Đấy là hiện trạng không thể chối cãi
trong đời sống tu hành của một số tu sĩ chúng ta.
Như tôi đã nói
những hiện tượng lăng xăng trước mắt, chợt khởi chợt hiện, ấy là vọng
tưởng. Cho nên người thấy được chân lý là người có trí tuệ thấy được lẽ
thực của các pháp. Lẽ thực ấy là gì? Ở đây tôi không muốn dẫn quí vị đi
vào lối mòn của ngôn ngữ, định nghĩa giải thích thế này thế nọ. Bởi tất cả
những việc ấy cũng chỉ là nói suông thôi, không có giá trị thật. Như tôi
có thể nói lẽ thực của các pháp là Không, là duyên hợp giả có v.v… Nhưng
đó không phải là điều đem lại sự an vui hạnh phúc cho chúng ta.
Ở đây, chúng
tôi cốt làm sao mỗi chúng ta phải tự thể nghiệm lời Phật tổ dạy thông qua
ngay cuộc sống của mình, ngay kinh nghiệm quán chiếu tự tâm mà nhận hiểu.
Như vậy Phật pháp mới có giá trị và lợi ích thiết thực. Cho nên chân lý
mỗi vị phải thầm thầm nhận lấy. Thử buông hết những vọng tưởng, xem nội
tâm ta như thế nào, chân lý hiện ra sao. Khi nào mình làm chủ được, buông
được thì nó hiện tiền, còn bám theo thì càng mê muội, không thể thấy biết
gì cả.
Cho nên nói về
tâm, thường thường người ta nói phải minh tâm. Nghĩa là tự mỗi người thầm
nhận, chứ diễn tả thì không phải là tâm, đó chỉ là ngôn ngữ vọng động mà
thôi. Trong kinh Viên Giác Phật dạy muốn thấy mặt trăng thật, nên từ ngón
tay chỉ mà nhận ra, chớ ngón tay không phải là mặt trăng thực. Phật pháp,
đạo lý, tất cả những hiểu biết, kinh nghiệm về chân lý cũng như thế. Muốn
đến chỗ đó thì chúng ta phải thầm nhận. Nhận ra rồi sống với nó, thâm nhập
phổ biến trong diệu dụng hiện tiền. Chớ còn trình bày, không khéo càng nói
lại càng xa.
Đôi khi chúng
ta vẫn biết các pháp không thật, nhưng cũng chưa buông được ổn. Đó là vì
ta còn lao lung, còn chưa mở sáng con mắt trí tuệ để nhận chân rõ thực
tướng của chúng, nên vẫn bị vọng tưởng, tức là bóng dáng của các pháp chi
phối, lảng vảng mãi không thôi dứt. Suy cho cùng, vọng tưởng không phải là
cái khó khắc phục, khó buông, nhưng vì chúng ta chưa đủ gan dạ để buông.
Thế nên người
tu cần phải lập chí vững mạnh, kiên quyết đấu tranh với chính mình, mạnh
dạn sấn bước, không nhún nhường cho những lý lẽ của tâm thức ma mị. Được
thế dù một bước rất nhỏ rất chậm, nhưng chúng ta bước đúng thì cũng sẽ đến
nơi đến chốn. Trái lại rất kỵ những bước nhảy thật dài, nhưng thiếu vững
chãi sẽ đưa ta tới hiểm họa khó lường. Thà là không làm, hễ làm thì phải
đúng, thà là không tu, hễ tu thì phải được an ổn. Đó là vấn đề mà mỗi
người chúng ta cần phải nắm vững hơn ai hết.
Trở lại vấn đề
làm sao nhận ra và sống với tâm lặng lẽ sáng suốt của mình? Nếu những niệm
dấy khởi lăng xăng lắng xuống, ta vẫn thấy nghe hiểu biết rõ ràng, không
dao động và tỉnh sáng, ấy chính là tâm chân thật của chúng ta. Bây giờ
chúng ta biết cái lặng lẽ sáng suốt, đó là tâm của mình, nhưng không cần
phải nghĩ như thế. Khi đối duyên xúc cảnh, mọi tình huống chung quanh đến
với mình, ta lao theo rồi buồn vui đủ thứ, đó không phải là sự có mặt của
tâm chân thật, mà nó là tâm vọng tưởng. Ngược lại đứng trước mọi cảnh
thuận nghịch ta thấy biết rõ ràng, bình tĩnh giải quyết theo thứ lớp các
duyên, lòng vẫn an ổn, đó chính là sự có mặt của tâm chân thật. Tôi nói
như thế là nói trắng ra rồi, đối trong nhà thiền nói như vậy là tử ngữ,
phạm môn quy đấy. Bởi cái không thể nói mà mình gượng nói thì nó không
đúng, cho nên chỗ này biết thì được, chớ không nên nói.
Ở đây vì
phương tiện giúp cho Phật tử nhận ra được phần nào cốt tủy để tu, buộc
lòng chúng tôi không thể làm khác hơn. Tuy nhiên mục đích chánh là làm sao
chúng ta hiểu đạo, áp dụng đạo trong đời sống của mình thì mới cảm nhận
cái lý thú của đạo. Chớ cả ngày điên đảo ngược xuôi trôi theo dòng đời,
quả thật có nói giáo lý hay tới đâu cũng chẳng lợi ích gì. Chúng ta phải
khéo nhận được tâm mình từ cuộc sống, từ những sinh hoạt bình thường, chớ
không phải tìm nơi nào khác.
Giống như dòng
sông nước chảy cuồn cuộn, tâm của mình cũng hòa lẫn với dòng sông cuồn
cuộn như thế. Bây giờ ta muốn dừng lại, không lý đắp ngăn dòng sông ấy.
Cách duy nhất là trở về với lòng sông, nhận ra tính chất luôn tuôn chảy
của nó có một cái không bao giờ thay đổi đó là tánh ướt của nước. Tâm ta
cũng vậy, mặc cho bao nhiêu vọng động cuồn cuộn dấy khởi, tâm lúc nào cũng
biết một cách hồn nhiên vô tư, không có ý kiến phân biệt xen vào. Nhận ra
như thế là dừng được dòng chảy của vọng tưởng, là chân tâm hiện tiền.
Minh tâm chính
là sự sáng suốt của mình. Muốn trở lại với nó càng giản dị càng gần, càng
buông càng không mất. Nguyên tắc chỉ có thế thôi. Ngày nào chúng ta thử
ngồi lại tỉnh táo, dám buông, dám bố thí hết những ý niệm lăng xăng thì sẽ
được rỗng rang sáng suốt, rõ ràng như vậy. Trong chúng ta, ai có được phút
giây ngồi lại dừng lặng vọng tưởng, sẽ thấy công phu này không khó đến nỗi
mình không làm được. Nhưng có điều thói quen làm cho mình khổ. Bởi thói
quen nên ta không dừng được, cứ lao theo, lăng xăng cả đời. Ngày qua ngày
như vậy, ta mất mình trong dòng vọng động cuồn cuộn trôi chảy.
Chỉ khi nào
vọng tưởng tự lặng thì sẽ yên. Không lực gì có thể ngăn nó. Nếu dùng một
lực bên ngoài ngăn thì giống như lấy đá đè cỏ, chẳng những nó không chết,
mà sau này gặp cơ hội thuận tiện nó sẽ vọt lên cao hơn nữa. Cho nên người
làm chủ là nhận diện được vọng tưởng, không theo thì tự nó lặng. Tuyệt
nhiên không đè nén hay kềm chế gì cả. Công phu như thế lần lần vọng tưởng
thưa dần, cho tới khi chúng lặng lẽ hoàn toàn, tâm chân thật bấy giờ hiển
lộ, sáng suốt tròn đầy. Đó là nói về phần tâm.
Đến kiến là
những thấy biết, kiến chấp của mình. Ví dụ như hồi xưa ta đã được học như
thế, những quan niệm ý tưởng ấy đã in sâu trong trí nhớ và ta cho đó là
đúng. Nhưng đến thời này, người ta không chấp nhận kiến thức của mình nữa,
họ bài bác nọ kia. Thế là ta cảm thấy bất bình và cho rằng cái hiểu biết
bây giờ kỳ quặc, không đúng như ngày xưa. Những gì mình đã dán nhãn rồi,
ai đụng tới là không được. Như thế gọi là “kiến” hay nói đủ là định kiến.
Bây giờ làm sao hóa giải được cái “kiến” đó, chúng ta mới an ổn được.
Phật dạy các
thứ kiến chấp, hiểu biết, con người cho là thông minh, trí tuệ, sáng suốt…
thật ra đều không thật. Chúng ta dám buông những thứ đó thì mới thật sự an
ổn. Tại sao tôi nói như vậy? Vì có những Phật tử nói sao con tu hoài mà
không hết vọng hoặc, không được an ổn. Tại vì còn những kiến chấp sâu nặng
bên trong, cho đó là hiểu biết của tôi, trí tuệ của tôi, không dám buông
bỏ thì làm sao thấy được lẽ thật. Bây giờ phải buông hết những thứ đó, nên
nhớ nó cũng là sự vay mượn bên ngoài, đâu phải cái của mình mà chấp cho là
mình thì thật vô lý.
Tuy nhiên
trong giai đoạn tu tập ban đầu, chúng ta cần nương nhờ những phương tiện
đó. Ví dụ có những vọng tưởng, tuy ta biết nhưng nó vẫn không tan. Bây giờ
phải sử dụng đến cái kiến soi rọi nó, nghĩa là nương theo pháp Phật đã
dạy, lời Tổ đã khuyên nhắc để chiếu phá vọng tưởng. Nhưng nhớ khi nó lặng
rồi thì những phương tiện kia cũng bỏ luôn, cũng cho nó lặng luôn. Nếu
vọng tưởng đã lặng mà còn ôm giữ pháp quán, đó là bệnh. Mà bệnh này là một
loại vọng tưởng rất khó trị.
Nói về tâm và
kiến là những thứ luôn hiện diện trong đời sống của chúng ta. Vì vậy trong
kinh nói: “Dù phát bốn thệ nguyện lớn, độ vô lượng chúng sinh, trai giới
thanh tịnh, tu thiền học tuệ, được chánh định rất sâu mà không tăng tiến
được cũng chỉ bởi tại vì mình còn có cái kiến, chưa quên được cái kiến cho
nên không tiến được. Chỉ bao giờ mình quên được những cái kiến đó, bỏ được
những cái kiến đó thì mới khỏi bị động bởi lưới ma, mới tăng tiến được”.
Nếu người có chút công phu mà thấy mình có công phu thì chính cái thấy đó
ngăn trở công phu của họ.
Ở đây nói dù
người phát bốn thệ nguyện lớn: Độ hết chúng sinh, đoạn hết phiền não, học
hết Phật pháp, tu hành thành Phật. Giả như được như thế, lại thêm trai
giới thanh tịnh, trí tuệ trùm khắp nhưng nếu còn thấy có cái được, chính
cái thấy ấy làm tấm chắn giới hạn công phu, bước tiến của mình. Cho nên
phải buông cái kiến chấp đó mới thật là người thực hành đúng pháp.
Như tôi phải
mang kiếng mới đọc chữ được, gỡ ra thì không thấy rõ nên không đọc được.
Nhờ mang kiếng vào nên thấy rõ, nhưng nếu lầm cái kiếng này là con mắt tôi
thì có vấn đề rồi. Phải biết cái kiếng chỉ là phương tiện, con mắt mới là
chánh yếu. Khi cần thì mang, không cần thì buông ra cho con mắt được thanh
thản. Việc tu hành cũng thế, phải nhận ra cách thức để mà áp dụng, sau đó
buông luôn cách thức, chỉ giữ kết quả cứu kính thôi. Cho nên muốn tới chỗ
tâm chân thật phải buông được cái kiến của mình.
Khi tâm sáng
suốt, có trí tuệ rồi, đối với các trần cảnh tương đối mình làm chủ được,
nhưng vẫn còn chút lao lự là vì còn cái kiến. Bây giờ dám buông cái kiến
đó thì mới nhảy sang giai đoạn thứ hai, có sự yên ổn lớn hơn, nhận ra tâm
thể trùm khắp hơn. Nếu còn bị cái kiến đó bó buộc thì dĩ nhiên ta còn bị
giới hạn, chưa thể tiếp xúc với tâm chân thật được.
Nhiều người
nói tu thiền khó lắm, thật ra điều này không hẳn như vậy. Nếu khó thì
không ai tu được, nhưng chúng ta thấy rõ vẫn có người tu được và tu có kết
quả. Có thể nói pháp thiền là pháp dễ dàng, đơn giản nhất, nhưng vì người
ta giải thích nhiều quá thành ra sai mất tông chỉ ban đầu nên trở thành
khó. Do đó người tu thiền cần phải lưu tâm về điểm này. Trong công phu
hằng ngày chúng ta phải khéo buông bỏ tất cả những niệm từ thô đến tế,
phải tiến từng bước vững vàng, không bị lầm bởi các thứ ý thức, các kiến
giải xảo ngụy. Có thế mới hy vọng gần được chỗ chân thật, sống được với
tâm thể trùm khắp, bình ổn.
Chúng ta
thường nghe nói người tu hay gặp các ma sự. Đó chẳng qua là những vọng
tưởng phát xuất từ trong tâm mình, chiêu cảm với các cảnh giới bên ngoài
mà có. Nếu chúng ta dẹp hết các niệm, buông sạch cái kiến của chúng ta,
không chấp vào công phu của mình thì nhất định không có ma mị nào vây hãm
chúng ta được. Chỉ khi nào ta đam mê chấp trước vào những cảnh giới, những
công phu tu tập cho đó là thật, là của ta thì mới rơi vào lưới ma. Cho nên
hành giả tu thiền cần phải vươn lên vượt thoát những cái kiến, thì mình
mới phá thủng lưới ma, thực sự yên ổn trong cảnh giới thiền định.
Cảnh giới
thiền là gì? Thật ra thiền không có cảnh giới nên ta không thể định nghĩa
được. Có thể nói nôm na thiền là một lối sống không hạn cuộc trong một
hình thức nào. Bởi vì người đã nhận ra và sống được với tâm thể trùm khắp
của mình thì không nói họ cũng ở trong cảnh giới thiền, có sự sống tiêu
diêu an nhiên tự tại, không gì trói buộc được. Đó là một chân trời thênh
thang không dành riêng cho ai, nhưng tuyệt nhiên không có thứ ma nào quấy
nhiễu được.
Tới đây tôi
muốn nói đến tánh giác linh diệu sáng suốt của chúng ta. Người tu, khi đã
làm chủ được những vọng tưởng của mình rồi thì tánh giác này sẽ hiện ra.
Bấy giờ ta sống và hành xử tùy duyên nhưng vô cùng sáng suốt, trong nhà
Phật gọi là diệu dụng. Tánh linh giác có đủ các diệu dụng nên làm gì cũng
là Phật sự, là trí tuệ tỉnh thức. Cho nên các Thiền sư nói nín động tịnh,
làm việc gì cũng là đạo, là giải thoát. Còn chúng ta có bắt chước theo
cung cách, kiểu dáng, ngôn ngữ của các Ngài, nhưng tâm còn mờ tối thì dù
ta nói thiền nói đạo hay cách mấy, mình vẫn là một chúng sanh mê muội như
thường.
Nói về tánh
linh giác, có những đoạn sách dẫn thế này: “Người cùng muôn vật đồng tánh
linh giác, chỉ khác là vật có mà chẳng biết. Chư Thánh biết rõ tính này
đầy đủ trọn vẹn, các bậc hiền biết mà chưa sống trọn vẹn với nó. Hoàn toàn
bỏ quên tánh này là hạng vô trí phàm phu”. Như vậy người cùng muôn vật đều
có tánh linh giác. Ai biết và sống trọn vẹn với tánh này, đó là Thánh. Thế
nên Thánh phàm chỉ khác nhau ở chỗ là sống được với không sống được mà
thôi. Phàm phu tục tử chúng ta cũng có tánh giác, nhưng không chịu sống
với nó, không chịu nuôi dưỡng phát huy nên mãi mãi là phàm phu.
Đức Phật là
người trí tuệ, sống trọn vẹn với tánh linh giác đó. Phật tử chúng ta cũng
phải theo hướng như vậy, sống trở lại với tánh giác của mình. Ta có thể
làm phước, ăn chay niệm Phật, tụng kinh, giúp người khổ sở, đắp đường làm
cầu… tất cả những việc đó đều là pháp môn tu tập nếu ta không bỏ quên tánh
giác. Thành ra cũng là việc làm ngay trong sự sống này, nhưng cách xử lý
của chúng ta tập trung theo hướng chỉ huy của tánh giác, đó là chánh đạo.
Còn nếu chúng ta làm trong ngã kiến của mình thì không phải là chánh đạo.
Đức Phật ngay
sau khi thành đạo, Ngài ngạc nhiên vì sao tất cả chúng sanh đều có trí
tuệ, đều có tánh linh giác, nhưng lại ngu mê để bị trôi giạt trong luân
hồi sinh tử. Đó là tại vì chúng ta không chịu phát huy, không chịu sống
lại với tánh giác của mình, mà cứ dong ruổi, lăng xăng theo những thứ bên
ngoài. Cho nên bây giờ phải quay về, đừng soi rọi bên ngoài nữa. Tất cả
chủ lực đều tập trung về tánh giác, như vậy là người biết tu và tu như vậy
mới thu ngắn đoạn đường trở về chính mình.
Chỉ biết tính
bản hữu và luôn sống với nó, quên tất cả duyên trần bên ngoài thì sẽ ổn
định thật sự. Đây là cách thức tu hành thẳng tắt nhất. Ở đây nói quên tức
là tu, là trở về với chính mình. Còn tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền, ăn
chay, bố thí… chỉ là hình thức tạo phước hữu lậu, không giải quyết tận gốc
nỗi khổ trầm luân sanh tử được. Người tu thiền đến giai đoạn này gọi là
sống với ông chủ, chỗ này không thể lý luận mà đòi hỏi phải sống được. Nói
sống được hay thể nhập cũng là một lối lý luận nên các Thiền sư rất kỵ nói
đến chỗ này. Vì vậy các Ngài thường dùng những phương tiện kỳ lạ để chúng
ta không bị kẹt trong ngôn ngữ.
Người tu khác
với người đời ở chỗ phải nuôi dưỡng ý chí vững mạnh, không chạy theo công
danh sự nghiệp bên ngoài, mà tập trung định lực xoay về bên trong. Người
đời càng gom về mình nhiều là càng thành đạt. Ngược lại người tu càng
buông bỏ nhiều càng vươn tới đỉnh cao, bao giờ loại bỏ được tất cả những
kiến chấp điên đảo của chính mình là thành công. Ai chưa buông được kiến
chấp của mình chưa thể gọi là hành thiền.
Khổ từ đâu mà
có? Từ những vọng tưởng, những kiến chấp của mình. Bây giờ muốn hết những
thứ đó ta phải mạnh dạn, dứt khoát với vọng tưởng, nuôi dưỡng ý chí phấn
đấu đến kỳ cùng trong bất cứ hoàn cảnh nào. Cho nên người có công phu tu
hành là người sử dụng được tâm thể của mình trong tất cả mọi sinh hoạt.
Chúng ta nói tu mà đến chỗ nào phương tiện sống không đầy đủ thì không tu
được, như vậy có khác chi người đời. Ví dụ mình đến nơi đó không có Phật
tử ủng hộ, không có người để nương tựa, ta tu không được, như vậy là không
có ý chí.
Người tu khi
đã quyết định điều gì rồi thì phải vượt qua tất cả mọi trở lực, mọi gian
nan thử thách. Có cơm ăn cũng tu được, mà thiếu cơm thiếu gạo, một ngày
chỉ ăn một lần cháo ta vẫn tu được, như vậy mới mong thành tựu đạo nghiệp.
Như vị giáo chủ của chúng ta, trong thời gian ở khổ hạnh lâm, có khi Ngài
không ăn cơm, chỉ lấy sự định tỉnh sáng suốt làm mạng sống, nuôi ý chí để
vươn lên đỉnh cao là giác ngộ giải thoát. Nhờ khẳng định như vậy mới có
ngày thành tựu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác dưới cội Bồ-đề.
Bậc đại trượng
phu lập chí cần phải như thế mới được. Ta nhất định là người chiến thắng
chớ không để thua cuộc. Những cảnh ngang trái, đói lạnh khổ sở, những cái
bất như ý khổ đau trong cuộc đời, tất cả đều là chất liệu để ta nuôi dưỡng
ý chí, vượt qua tất cả, sống trở về với tánh linh giác bản hữu của chính
mình.
Chúng ta
thường dễ bị lay chuyển ý chí lắm, gặp hoàn cảnh khó khăn một chút là muốn
bỏ cuộc rồi. Tu hành như vậy biết đến bao giờ mới thành Phật, mới hết khổ
được vui. Thưa quí vị, chúng ta phải phấn đấu. Trong khó khăn ta phấn đấu
để vươn lên, trong thuận lợi ta phấn đấu vượt qua. Phải phấn đấu quyết
liệt, khẳng định là chừng nào đạt được giải thoát mới thôi.
Nếu chưa có
bạn hữu, chúng ta lấy giới, định, tuệ làm bạn hữu, làm hòn đảo cho chính
mình. Giới từ đâu có? Từ sự quyết tâm tu hành của ta mà có. Dám buông bỏ
tất cả vọng tưởng bên ngoài, tức là giữ ba nghiệp thanh tịnh. Ba nghiệp đã
trong lặng rồi thì tâm yên định, an ổn, từ đó trí tuệ phát sanh. Điều này
chúng ta có thể thực hiện được. Cho nên người biết chọn giới, định, tuệ
làm bạn hữu chân thực, luôn gắn bó trong đời sống tu hành của mình là
người khôn ngoan, khéo tu.
Phật dạy trong
kinh Viên Giác thế này. Thứ nhất là quán các pháp như huyễn, như hoa đốm
trong hư không, dứt tâm tham sân si, trừ ba nghiệp thân khẩu ý. Tham sân
si chúng ta biết rồi. Thấy người hoặc cảnh đẹp mình thích, muốn sở hữu, đó
là tham. Người ta chọc giận mình nổi nóng lên la lối gây gổ, thậm chí đánh
nhau, đó là sân. Đối với các pháp, loạn tưởng điên đảo không phân biện
được cái nào thật, cái nào giả, mải miết tạo nghiệp, đó là si. Phật bảo
muốn dứt hết những thứ này, phải quán các pháp như huyễn, không thật,
giống như hoa đốm trong hư không.
Trí tuệ của
Phật nhìn thấy tất cả mọi hiện tượng trong cuộc đời này đều là trò huyễn
hóa. Giống như giữa ngã ba đường có huyễn sư, với xảo thuật họ bày ra
những hình ảnh, những việc làm kỳ lạ nhưng tất cả đều là ảo thuật, đánh
lừa thiên hạ để thu tiền. Như hoa đốm trong hư không vốn không thật có,
nhưng do ta ấn tay vào mắt hoặc mắt bị bệnh nên thấy có hoa đốm màu xanh,
màu đỏ, những hình ảnh nhấp nháy lăn tăn hiện đầy trong hư không. Những
hoa đốm đó từ đâu có? Từ ấn con mắt hoặc từ con mắt bệnh, không đối diện
được với thực chất các pháp nên thấy như thế. Kỳ thật không có hoa đốm.
Đối với con
mắt tuệ của người tu, các pháp trong cuộc đời này đúng như Phật nói, chợt
có chợt không, chợt hiện chợt mất, chúng không thật, không trường cửu.
Ngay như cái mình quý trọng nhất là thân này, tâm này nhưng phân tích ra
từng phần, nó cũng không thật, vô thường chóng vánh. Có ai giữ được mãi
những gì mình ưa thích hay có ai sống mãi trong cuộc đời này đâu? Đã biết
như vậy rồi, chúng ta còn lao theo, còn đắm trước để làm gì? Cho nên người
biết tu, tập trung tâm lực phát huy trí tuệ của chính mình, thì mọi si mê
điên đảo sẽ vỡ toang. Si mê không còn thì sân hận, tham lam cũng theo đó
mà chấm dứt.
Bước đầu như
vậy, nếu ta làm chủ được, sống được với trí tuệ chân thật rồi, vòng luân
hồi sanh tử từ nhiều đời sẽ chấm dứt. Nếu như ta có đi trong luân hồi sanh
tử, ấy là do sự tự nguyện của mình, vì thực hành Bồ-tát đạo, tùy duyên đi
trong sanh tử mà không bị biến dịch bởi dòng sanh tử. Đó là đi theo nguyện
lực chớ không phải bị nghiệp lực lôi kéo. Cho nên ở trong sanh tử, các vị
Bồ-tát vẫn làm chủ mình khi chạm duyên xúc cảnh, khéo léo tùy căn cơ chúng
sanh mà giáo hóa, thực hành tự giác giác tha, giác hạnh viên mãn. Đây
chính là tinh thần của Bồ-tát đạo.
Thứ hai là tâm
tuệ ta có được, các kiến chấp phải buông đi, cho nó lặng lẽ luôn thì mới
thực sự sống được, thể nhập được với chân tâm. Nếu mình cứ khư khư chấp
vào tuệ và kiến của mình thì công phu sẽ hỏng, vì như thế là rơi vào lưới
ma. Ví như ta có được một ngôi nhà đẹp nên chấp chặt vào đó, cứ sắp đặt
thế này thế nọ, đi đâu cũng không dám đi, như vậy có tự tại chưa? Giá trị
của cái nhà là để ta che mưa che nắng, dù cho nhà sang hay không sang, nhà
trệt hay nhà lầu cũng chỉ dùng vào một mục đích ấy thôi. Nếu nghĩ cái nhà
đẹp, mình cứ đi tới đi lui trong đó nói “cái nhà đẹp này của tôi, tôi
không thể rời xa nó”. Thế là ta đã trở thành tù nhân của ngôi nhà ấy rồi,
chớ đâu phải là gia chủ nữa!
Việc tu của
chúng ta cũng vậy, tâm vừa được sáng suốt một chút, liền bị sự sáng suốt
đó trói chặt, khiến ta chùng bước không dám tiến thêm, thì nhất định sẽ
không đạt được đỉnh cao của sự sáng suốt. Cho nên giai đoạn thứ hai theo
tinh thần kinh Viên Giác, là phải hóa giải hết tuệ giác đồng với hư không,
đừng có sự bám chấp nào vào tuệ giác đó thì mới tiến được.
Thứ ba, tiến
thêm một bước nữa là biết cái tâm hay biết này tức là trí giác, sở dĩ nó
có là vì ta có những vọng động. Nếu vọng động lặng rồi thì cái trí giác
này cũng không còn. Như tôi đã nói, cái nhà có là để cho thân này có chỗ
che mưa che nắng, nếu không có thân này thì cái nhà kia vô giá trị. Có ai
cất nhà để chơi không? Không có. Dù là nhà mát cũng để trốn nắng, ngồi
hóng mát, nằm võng hoặc uống nước trà, đều có năng dụng của nó chứ. Từ đó
ta nhận ra một điều sở dĩ Phật nói các pháp là vì chúng sanh có các thứ
bệnh. Khi bệnh đã hết, pháp cũng đâu cần. Như người qua sông cần thuyền
bè, đã qua sông rồi thì mang thuyền bè trên lưng làm gì? Khi đã lên bờ rồi
mà ta cõng thuyền bè trên lưng đi nghênh ngang, thì người ta nói ông đó
sảng rồi.
Cũng vậy, khi
ta đã làm chủ được, các pháp không là gì để mình sở hữu, kiến chấp thì khi
ấy cái tuệ cũng lặng luôn. Chỗ này hơi sâu một chút, chúng ta phải lưu ý,
nếu không sẽ bị cái kiến quấy rầy. Do kiến chấp mình đã hiểu thấu, đã an
ổn nên không soi rọi lại mình nữa, mà dòm ngó qua người khác. Càng nhìn
người ta chừng nào càng thấy phiền não chừng ấy. Như thế là công phu đã
hỏng.
Nói tới đây
tôi nhớ câu chuyện “Cửa tùng đôi cánh gài”. Chuyện kể về một anh chàng có
thanh gươm bén và một cái kiếng chiếu yêu gọi là “mê ngộ cảnh”, do sư phụ
trao cho. Khi rọi kiếng đó vào ai thì quỷ quái ma mị gì nơi người ấy hiện
nguyên hình. Anh chàng này đem thanh gươm bén và kiếng chiếu yêu đi vào
cuộc đời với tâm nguyện làm các Phật sự. Dùng mê ngộ cảnh rọi thấy yêu ma
quỷ quái gì, anh liền tuốt gươm bén chặt đứt hết.
Suốt một thời
gian dài anh sử dụng mê ngộ cảnh và thanh gươm ấy, không thấy thần tiên
Phật thánh gì, mà toàn là ma quái thú vật dữ dằn, cho nên anh tuyệt vọng.
Càng tuyệt vọng với những hình ảnh bên ngoài, anh càng ngỡ mình là Thánh.
Bởi vì càng rọi thiên hạ, anh càng thấy tham lam tật đố, nên ngỡ chỉ có
mình là thiện lành. Cho đến cuối cùng, anh thử rọi lại mình. Chu cha ơi!
Cọp gấu hung dữ còn thua xa so với những hình thù quái dị ghê tởm trong
gương bây giờ. Thế là anh đổ vỡ hoàn toàn với chính mình.
Câu chuyện còn
dài, nhưng ở đây tôi muốn nhấn mạnh đến điểm hãy tự quán chiếu mình nhiều
hơn là soi rọi ra ngoài. Nếu ta hóa giải được loài cọp sói nơi mình thì
hãy dùng kính chiếu yêu soi rọi các cọp sói nơi người. Thanh gươm bén ấy
hãy sử dụng thật tốt với những thú dữ nơi mình trước khi đem sử dụng cho
các loài thú dữ bên ngoài. Như vậy mới xứng đáng là kính trừ yêu và gươm
trí tuệ.
Vì vậy theo
tinh thần kinh Viên Giác là chúng ta phải dẹp luôn tất cả những kiến chấp
của chính mình. Như vậy mới tạo được khí thế bình đẳng giữa mình người.
Nếu không như thế, một lúc nào đó ta sẽ tuyệt vọng về chính mình thì khổ
đau tăng lên bội phần. Chúng ta là người tu, luôn luôn dùng mê ngộ cảnh
soi rọi mình trước, đồng thời cũng tạo phương tiện tu hành hằng ngày, tức
là mài luyện thanh gươm trí tuệ cho thật sắc bén.
Nếu chúng ta
thấy rằng mình bị khổ sở, danh lợi nó cứ quấy rầy hoài, bây giờ tụng kinh
niệm Phật, học thiền, nghiên cứu Phật pháp vơi bớt phần nào thì chúng ta
cố gắng đi sâu vào các việc ấy. Đến một lúc nào đó, ta quên hết mọi khổ
đau thế gian, thì xoay lại bỏ luôn những phương tiện kia. Đây mới thật sự
là chỗ tự tại thanh nhàn, không bị lệ thuộc bất cứ một pháp gì. Sống như
thế mới tự tại giải thoát, còn lệ thuộc một pháp nào là còn trói buộc, cho
dù pháp ấy do Phật dạy. Bởi khổ đau vốn không thật, nó chỉ là ảo giác do
vọng tưởng dệt nên. Khi chúng ta đã nhận ra rõ điều này thì tất cả đồng
thời tan biến, tự nhiên liễu ngộ thực tánh các pháp và sống trở về với bản
tâm chân thật, không thông qua một phương tiện nào cả.
Ở đây nói tinh
thần thiền, người sống được với mình là triệt tiêu những ảo giác. Chừng ấy
sống bằng trực giác, thấy sao nói vậy, không tính toán nghĩ suy, không
dính không kẹt vào tâm, vào kiến gì cả. Hỏi thiền nói thiền, hỏi đạo nói
đạo, không hỏi thì im lặng. Xử lý lúc nào cũng hợp thời hợp cảnh hợp lý,
tinh thần luôn luôn trong sáng thanh thản. Cần thì làm, không cần thì mọi
thứ đều ở nguyên vị trí của nó. Chừng ấy mê ngộ cảnh có rọi vào chẳng thấy
được gì, bởi tâm dứt bặt không mảy may vọng lự, thì có gì để hiện bóng?
Khi ấy không muốn thành Phật cũng là Phật.
Được vậy thì
còn gì hạnh phúc, an vui bằng. Cho nên nói buông tất cả là được tất cả,
thật không phải ngoa vậy.
? |