TỰ TU TỰ AN ỔN
Tinh thần tu
hành chủ yếu trong đạo Phật là Tự Tu Tự An Ổn. Vì vậy nếu tự mình không an
thì không ai có thể đem đến sự an lạc cho mình. Tự chủ, tự tỉnh, tự quyết
định công việc của mình. Đó là tư cách của một người con Phật.
Nếu chúng ta
không tự tỉnh, tự yên thì sự đối diện, tiếp cận, quan hệ hằng ngày sẽ là
những chướng ngại cho mình. Người tu để mất thì giờ, để ồn cả đời, đó là
một khuyết điểm lớn. Cho nên chúng ta phải tự chỉnh lại chỗ này. Chỉnh
được rồi nhất định mình tu tiến, không sợ, không đổ thừa cái gì cả. Trước
khi nói đến tinh thần tự tu tự tỉnh, tôi dẫn lời đối đáp của các vị Thiền
sư.
Một hôm Thiền
sư Huệ Tịch hỏi thầy mình là Thiền sư Linh Hựu:
- Trăm ngàn
muôn cảnh đồng thời đến phải làm sao?
Thiền sư Linh
Hựu trả lời:
- Xanh chẳng
phải là vàng, dài chẳng phải là ngắn. Các pháp mỗi pháp ở địa vị của nó.
Chẳng can hệ đến việc của ta.
Câu hỏi này có
thể xem là một câu đại diện cho những thắc mắc chung của chúng ta. Trong
cuộc sống hiện nay, những quan hệ tương giao, trăm ngàn muôn cảnh đồng
thời đến, chúng ta phải làm sao? Thiền sư đáp: Xanh chẳng phải là vàng.
Nếu chúng ta lầm xanh là vàng, tức mình mất tự chủ. Đạo lý thiền giản dị
như vậy. Nó không là cái gì để chúng ta suy luận cả. Màu xanh là màu xanh,
màu vàng là màu vàng, cứ thấy một cách trung thực như thế là tốt. Đừng nên
thay đổi vị trí của các pháp, cũng không nên xen dự vào các pháp. Tại sao
sống đơn giản như vậy mà chúng ta lại không sống được? Mỗi pháp tự ở trong
địa vị của nó, chúng ta cũng ở trong địa vị của mình, không can hệ gì đến
nhau. Thật bình an, thật giản dị.
Nếu chúng ta
tỉnh táo, sống an ổn trong địa vị của mình, mặc cho các pháp bên ngoài
lăng xăng bao nhiêu, ồn ào đến đâu cũng là việc bên ngoài, không can hệ gì
đến ta. Nói thì dễ nhưng khi sống lại thấy khó. Bởi vì chúng ta luôn luôn
bị đọâng, bị kéo lôi, vướng mắc cho nên vừa có pháp trần nào dấy lên thì
liền dính, liền chạy theo. Chạy theo nên vướng mắc, bởi vướng mắc nên khổ.
Cứ thế mà tạo nghiêïp loay quay lẩn quẩn trong vòng luân hồi, đời này kiếp
nọ không có lối thoát.
Ở đây các
Thiền sư dạy pháp trần là pháp trần, cảnh duyên là cảnh duyên, những hiện
tượng bên ngoài đó không can hệ gì đến tâm của chúng ta. Nên tôi nói tự tu
thì tự an là vậy. Làm sao chúng ta đừng lầm lẫn, đừng bị động, đừng vướng
mắc pháp trần. Hòa thượng thường mượn hình ảnh chăn trâu để đưa ra phương
pháp giữ tâm thanh tịnh, giúp hành giả tu không bị động trước mọi cảnh
duyên bên ngoài. Người chăn trâu phải nắm dây dàm, cầm roi giữ, nếu trâu
không chịu đi theo hướng của mình thì quất nó. Đó là cách tu giản dị nhất
trong nhà Thiền thường nêu lên. Nếu muốn chăn được con trâu hoang của
mình, luôn luôn tay phải nắm dây dàm, nắm roi. Có thế trên đường dù có cỏ
non nước trong, ta cũng không sợ con trâu phóng đi, dùng roi và dây dàm
điều phục nó theo hướng của mình.
Việc tu hành
tự an tự ổn tâm mình cũng vậy. Chúng ta không đổ thừa cho hoàn cảnh, ở đâu
cũng tu được nếu mình biết điều phục tâm. Có một Thiền sư làm bài kệ chăn
trâu thế này:
Tôi có một con trâu,
Sanh ra chỉ tự chăn.
Dây roi trong tay sẵn,
Mới khỏi chạy lăng xăng.
Đó! Cách chăn
trâu là phải có dây và roi, luôn luôn sẵn sàng. Như vậy trâu mới sợ, không
dám chạy lăng xăng. Tổ không dạy chúng ta phải đọc bao nhiêu sách, có bằng
cấp gì mới tu được. Các Ngài chỉ bắt ta chăn trâu, dạy cách chăn trâu.
Giản dị như thế, ai làm cũng được.
Bờ
suối cỏ xuân tươi,
Dưới ao nước xuân biếc,
Tùy nghi vừa no đủ,
Ứng dụng nào có việc.
Hình ảnh mục
đồng thả trâu bên bờ suối ăn cỏ hoặc uống nước dưới ao, tùy nghi vừa no
đủ, ứng dụng không việc gì khác. Đoạn này áp dụng vào đời sống của chúng
ta. Làm sao tùy nghi sử dụng theo phước duyên của mình, đừng tơ tưởng vượt
hơn phạm vi ấy. Như sáng nay mình đi chùa, nghe pháp thì chỉ biết đi chùa
nghe pháp, chừng ấy việc thôi, đừng thêm gì nữa. Đó là người biết chăn
trâu.
Nói thế nhưng
thực hành không phải dễ. Nếu chúng ta làm chủ được thì không có gì khó
khăn, nhưng ngặt nỗi ta không làm chủ được. Vì sao? Vì ngồi đây mà tâm để
ở nhà, nhớ việc này việc nọ chưa làm xong, bồn chồn không yên nên chẳng
nghe được pháp. Có những chuyện năm ba năm nữa mới tới mà bây giờ chúng ta
lại cứ nghĩ, cứ vẽ ra. Thật ra nghĩ như vậy đâu có đúng. Bởi thời gian đổi
thay, sự vật có gì tồn tại hoài đâu? Mình định trước làm sao đúng được.
Sống như vậy nên lúc nào ta cũng không an ổn.
Trong cuộc
sống này, thật ra ai không suy tư, không nghĩ tưởng, không toan tính.
Nhưng phải biết hạn chế sự nghĩ tưởng ấy trong một phạm vi có thể thực
thi, chớ đừng quá viển vông, mà trở thành ảo tưởng. Chúng ta là Phật tử,
sắp đặt như thế nào vừa phải, trong điều kiện dây roi có thể quất tới thì
mới không thất bại. Con mắt thấy rõ bờ cỏ, khe suối, trâu vừa liếc ngó
liền dùng roi quất cho nó quay trở lại đúng đường. Sự tu hành hằng ngày
phải như vậy.
Tất cả những
việc ngồi thiền, tụng kinh đều là phương tiện để chúng ta chăn trâu. Tâm
ta còn không yên, mắc cái này vướng cái kia thì không đảm bảo cho việc tu
hành của mình. Người xưa áp dụng cách tu cũng như chúng ta, nhưng nhờ miên
mật, liên tục nên các Ngài thành công. Chúng ta bây giờ dễ phóng túng,
buông lung tức là chăn trâu không kỹ nên dễ bị cuộc sống kéo lôi. Thiền sư
dạy tùy nghi vừa no đủ, tùy nghi tu tập, tùy nghi làm tất cả các công
việc, nhưng nhớ tâm luôn chánh niệm.
Chúng ta đừng
nghĩ rằng ăn chay mới tu được, ăn mặn không tu được. Ở đây chỉ căn cứ nơi
tâm, ổn định tâm mình là tu.
Như thế ba mươi năm
Nó
trông lúa mạ người
Dạy nó chẳng liếc ngó
Đây cuộc sống xinh tươi.
Cứ như thế mà
sống, như thế mà chăn trâu, đừng tính kể thời gian, dần dần con trâu của
chúng ta sẽ được thuần hóa. Nghĩa là các vọng tưởng lăng xăng lặng hết,
chúng ta tự ổn định, bấy giờ cuộc sống rất lạc quan, xinh tươi. Khi tâm an
ổn, sự tu hành sẽ được đắc lực hơn.
Sắc lông đà biến đổi,
Đầu sừng cũng tự thành.
Ý
người đà chẳng trái,
Không dẫm đạp mạ xanh.
Khi trâu đã
thuần rồi, tức tâm không còn bị bức xúc nữa, dù mỗi ngày ta có đối đầu với
biết bao công việc. Như quét sân, nấu cơm, tiếp khách, dạy học, nghiên
cứu… nhưng việc nào ra việc nấy, không có gì chống trái nhau. Không phải
quét nhà mà nghĩ tới ăn cơm, ăn cơm lại nghĩ đến đi chợ. Trong mọi sinh
hoạt bình thường, chúng ta gìn giữ thân tâm cho ổn định, đừng lẫn lộn làm
mất thăng bằng trong cuộc sống.
Ngay đây nếu
ta chưa ổn định, chưa sắp đặt được cho mình vững chãi thì đừng mong có
ngày mai an vui tự tại. Niết-bàn trong nhà Phật nói là Niết-bàn ngay hiện
tại, trong khi tiếp duyên xúc cảnh, làm bất cứ việc gì cũng an vui, thoải
mái, không mắc mứu gì cả. Đó là người vô sự, có sức mạnh vô địch.
Ba
năm việc nông nghỉ,
Một bờ liễu xinh xinh.
Người trâu cả hai bặt,
Mây trời gợn lung linh.
Chăn được con
trâu của mình là làm chủ được chính mình. Trong mọi tương giao, lúc nào ta
cũng tươi tỉnh bình thản, không có vấn đề gì. Đó là người an lạc nhất. Đó
là tinh thần chăn trâu mà người xưa đã áp dụng, dạy lại cho chúng ta. Cho
nên bước vào cửa thiền, các Thiền sư dạy chúng ta phải buông để tâm được
yên. Tâm yên là tự an tự ổn.
Ở đây nói tùy
nghi làm việc, tùy nghi tiếp xúc, tùy nghi ăn cơm, tùy nghi mặc áo, tùy
nghi đi đứng, tùy nghi làm tất cả công việc, nhưng với một điều kiện vàng
là vàng, xanh là xanh, dài là dài, ngắn là ngắn thì các pháp bên ngoài mới
không làm gì được ta. Còn nếu có sự lẫn lộn thì chúng ta chưa ổn.
Chúng ta không
luận là hàng xuất gia hay tại gia, là Phật tử đi chùa lâu học đạo nhiều
hay ít, mỗi ngày tự kiểm xem qua tất cả sinh hoạt, mình ổn chưa, có làm
chủ được không hay cứ thấy lăng xăng dính cái này vướng cái kia. Nếu còn
yếu mặt nào thì phải tự khắc phục, tự lo, tự chăn con trâu của mình. Vì ta
chưa chăn được con trâu của mình nên nó mới lăng xăng như vậy. Chứ nếu dây
dàm nắm được, cái roi cầm sẵn, trâu vừa ngó qua ngó lại là ăn đòn thì nó
đâu dám hung hăng. Đây là cách tu hành giản dị nhất, tất cả chúng ta đều
có thể làm được.
Người xưa dạy:
“Đối với tất cả cảnh, tâm không yêu không loạn, không thu nhiếp, không
phân tán, thấu tất cả thanh sắc không bị dính ngại, gọi là đạo nhân”.
Người tu trước nhất đối với tất cả cảnh, tâm không yêu không loạn. Yêu nói
đủ là yêu thích, nghĩa là không bị cái yêu thích làm ồn hoặc quấy động,
cũng không bị tán loạn bởi những cái lăng xăng của các cảnh. Không thu
nhiếp cũng không phân tán, tâm bình tĩnh sáng suốt vững vàng, không bị
động bởi tất cả cảnh duyên.
Thấu tất cả
thanh sắc không bị dính ngại, là thấy suốt tận nguồn gốc của tất cả các
pháp. Hòa thượng dạy thấy đến mé thật của tất cả các pháp là thấy được
tánh không, người đó sẽ tự tại giải thoát. Chúng ta quán chiếu soi rọi để
cuối cùng thấy cho được thực chất của tất cả các pháp là hư giả. Lâu nay
chúng ta thấy xanh vàng đẹp xấu… là thấy bên ngoài, thấy trên hình thức
thôi. Còn mé thực của các pháp là không thật, có gì tồn tại mãi đâu, cho
đến thân mạng mình yêu thích nhất cũng không bảo đảm được.
Đạo nhân là
nói tư cách, cuộc sống, sinh hoạt, tinh thần của người tu. Ở đây nói tâm
không khởi yêu ghét, không để bị loạn bị động bởi tất cả cảnh duyên bên
ngoài, và thấy được mé thực của tất cả các pháp, đó là đạo nhân. Vì vậy
nói về Giới học trong đạo Phật, Giới có nghĩa là Biệt giải thoát. Biệt
giải thoát là gì? Là khi ta giữ được một giới nào, thì giải thoát được
phần ấy. Ví dụ như giới không sân chẳng hạn. Nếu người hay nóng nảy, bây
giờ quan tâm giữ giới, vừa nghe trong bụng phừng phừng muốn phát hỏa liền
hạ xuống, tự răn “mát lạnh” đi, hỷ xả hết tức là ngay đó được giải thoát.
Nhờ thế không tạo nghiệp sân hận, nên thoát được một phần quả báo xấu.
Chúng ta phải khéo tự hóa giải ngay trong lúc tâm vừa máy động, thì sẽ tự
an tự ổn.
Có vị nói:
“Tôi tu theo pháp Đại thừa”, nhưng không biết Đại thừa tu thế nào? Theo
tinh thần thiền, người đối với thiện ác phải quấy không dùng, không mến,
cũng không lấy không bỏ, tâm bất động. Đó là Đại thừa. Bây giờ chúng ta
nghiệm lại xem tâm mình đã bất động chưa? Nếu chưa thì đừng nói tôi tu
pháp Đại thừa. Tâm của chúng ta luôn luôân dấy động, muốn nó bất động
không phải là chuyện dễ. Cần phải hạ thủ công phu nhiều năm tinh cần,
không thối chuyển mới có chút hy vọng. Người xưa khi liễu đạt Phật pháp,
còn phải vào sâu trong núi rừng hoặc ở trong tùng lâm hai ba mươi năm
trưởng dưỡng thánh thai, mới thành một khối. Chúng ta chớ nói suông mà có
tội đại vọng ngữ.
Ở đây chỉ yêu
cầu là phải tỉnh, phải thường biết. Một điều đó thôi, làm cho được cũng đủ
để an ổn rồi. Ví dụ mình chưa tỉnh táo thì cố gắng làm sao cho tỉnh táo.
Tất cả các pháp không can hệ đến mình thì mình cũng đừng đụng đến nó, ai ở
phận vị nấy. Yêu cầu khẩn thiết nữa là chúng ta đừng lầm lẫn cái này ra
cái kia, tức là đừng để vọng tưởng chi phối điều khiển, khiến cho mê loạn
đối với các pháp.
Có khi nào cái
ghế nó tự đứng lên nói “Ông không được ngồi trên cái ghế này” không? Không
hề có. Ta ngồi một người, nó cũng im; mà chất lên năm bảy người, nó cũng
không nói gì hết. Nhẫn đến sập đổ, gãy cẳng gãy chân nó cũng không lên
tiếng. Các pháp là như vậy. Nhưng con người cứ gán cho nó thế này thế kia
rồi tự sanh phiền não. Thật vô lý quá chừng!
Thật ra đối
với nhà thiền không nói gì cả. Chúng ta tự khắc phục điên đảo vọng động
của mình, khi nào chúng lặng hết thì cũng không có gì để nói, để tu. Bởi
các pháp vốn Như sẵn rồi, do ta động nên mới có tạo tác và chấm dứt tạo
tác. Chúng ta thấy như trong nhà này biết bao nhiêu pháp: Nào là cây gỗ,
quạt trần, máy móc, tranh ảnh, bàn ghế… nhưng từ lúc mới hình thành cho
tới bây giờ, tôi không hề nghe cái quạt máy nó cự với tấm vách, hoặc là
cái bàn gây với cái nhà. Không hề có. Nếu có là huynh đệ chúng ta gây với
nhau thôi. Người không đồng ý sao cái cửa nhỏ quá, người bảo cái nhà dài
sọc, người nói đáng lẽ sơn màu xanh lại sơn màu vàng… Hai ba người lý luận
một hồi từ nhỏ tiếng tới lớn tiếng, rồi gây gổ nhau… Quả thực chỉ tự mình!
Song những lý
luận đó từ vọng tưởng mà ra. Đã là vọng tưởng thì nó có thật đâu, thế mà
người ta vẫn cứ cãi, không biết mình đang bị động bởi các pháp. Ví dụ như
cái bàn này của chùa thì thôi, nhưng nó là “của tôi” thì đừng ai đụng tới.
Một khi cái tôi dính trong này rồi thì hư cái bàn, bởi vì nó là “của tôi”,
chứ không phải là cái bàn. Như thế là mình bị động. Sở dĩ bị động là vì ta
chưa an, chưa tỉnh, chưa thấy được mé thực của tất cả các pháp.
Nên yêu cầu
cấp thiết của người tu chúng ta bây giờ là làm sao thấy được mé thực của
các pháp, để đừng bị động. Pháp nào pháp nấy, nó là như vậy. Hãy để cho
cái đồng hồ chạy một cách thoải mái, tiếng tích tắc của nó là những nhỏ
giọt thời gian báo động sự đổi thay vô thường. Nó làm được chức năng của
nó một cách trọn vẹn là nhờ sự tỉnh táo của mình, đừng can dự chi cả. Được
thế chúng ta sẽ có Niết-bàn ngay khi đối diện với cái đồng hồ. Ngược lại,
nếu ta can dự vào sinh hoạt, hình dáng của nó thì mọi thứ đều đảo lộn, như
vậy tu chừng nào mới giải thoát? Đó, việc tu khó hay dễ, lâu hay mau đều
do chúng ta cả.
“Phải quấy,
tốt xấu, đúng lý phi lý, các tình cảm thấy biết không thể trói buộc, nơi
nơi đều được tự tại, gọi là Bồ-tát phát tâm tu hành thành Phật”. Tinh thần
tu hành của Bồ-tát là phải thành Phật mới thôi. Thật ra đỉnh cao nhất của
chúng ta nhắm là tu hành để thành Phật, chứ không có gì khác. Mà Phật là
gì? Là giác ngộ. Như vậy không cần đợi đến có Phật ra đời ta mới giác ngộ
mà ngay đây mình không mê lầm nữa tức là giác ngộ thành Phật.
Nếu ở ngay chợ
mà mình giác ngộ thì ta là Phật ngồi giữa chợ, giáo hóa chúng sanh trong
chợ. Nếu đang ở nhà, quản lý sự nghiệp cơ sở mà giác ngộ thì ta là Phật
trong gia đình, giáo hóa những người thân trong nhà. Ở mặt này nếu hiểu và
chịu tu, chúng ta là những sứ giả của Như Lai, làm lợi lạc cho Phật pháp
nhiều lắm. Bản thân chúng ta hưởng được giá trị thiết thực đối với lời dạy
của Phật, mà còn mở rộng phong trào tu học cho mọi người tu theo để cùng
nhau giải thoát. Như thế đâu nhất thiết trong chùa mới có Phật.
Tôi nói lại
“Giác là Phạât”. Chúng ta tu là để giác ngộ thành Phật. Lúc nào ta giác
ngộ thì lúc đó ta là Phật. Người đang ngồi thiền mà giác ngộ thì ngay đó
có một vị Phật đang ngồi thiền. Đang nấu cơm mà giác ngộ thì có Phật đang
nấu cơm. Cho nên lúc nào ta cũng có thể làm Phật, ở đâu cũng có Phật.
Người tu thiền phải nhanh, phải tinh nhuệ như vậy mới được. Hiểu thế chúng
ta sẽ phấn khởi hơn trong việc tu hành.
Chủ trương của
đạo Phật từ xưa đến nay luôn đem tinh thần từ bi trí tuệ phổ cập trong
cuộc đời. Làm sao để mọi người cùng được giác ngộ giải thoát, an vui, chớ
không chỉ riêng mình. Muốn thế trước tiên ta phải tỉnh giác, luôn sống
thực với tính giác của mình. Không thể đem tâm lăng xăng mà khuyên người
sống định tĩnh được. Ta phải tự tu tự an trước, sau mới giáo hóa người.
Việc làm chủ mình phải được thể hiện trong mọi hoàn cảnh, mọi điều kiện,
mọi thời gian.
Vô thường
không cho hẹn, chúng ta phải tu ngay bây giờ. Dù cho người có quyền lực
hay tài ba tới đâu cũng không bảo đảm được mạng sống của mình. Chính chúng
tôi cũng thế, thở khì một cái không hít trở lại là đi luôn. Tài sản, quyền
lực, quyến thuộc… tất cả đều bỏ lại, chỉ có nghiệp là mang theo thôi. Thế
thì tại sao ta không nhìn thủng điều đó để tự tỉnh, tự yên ổn, mình đã làm
mất đi thời gian cả một đời rồi, bây giờ còn hẹn tới bao lâu nữa mới chịu
tu. Hòa thượng thường nhắc: “Mình phải biết thương mình”, chính là báo
trước cho chúng ta biết đường trước mờ mịt, ngay bây giờ nếu không chịu
chuẩn bị, khi vô thường đến thì không kịp nữa rồi.
Chúng ta phải
hiểu các pháp vốn chẳng tự nói không, chẳng tự nói sắc, chẳng tự nói nhơ
sạch phải quấy v.v… cho nên nó không có ý trói buộc ta. Trói buộc là tự
mình khởi niệm trói buộc các pháp thôi. Tôi nhớ có lần chúng tôi làm rẫy,
một vị Phật tử thấy quý Thầy dùng cây cuốc làm bằng loại sắt mỏng, cuốc
rất mau hư. Vị đó thương mới làm cả chục cây cuốc bằng lưỡi máy cày chế
biến lại, xách tới một xâu. Đó là một loại thép ngoại quốc, tốt lắm. Nhưng
chúng tôi đâu phải người làm nông chuyên môn, người ta cho đồ tốt mà không
biết, làm xong thảy đại ngoài hiên thật lâu. Một hôm vị Phật tử đó trở
lại, thấy mấy cây cuốc cũ, ông hỏi:
- Ủa! Con gởi
cho quí Thầy mấy cây cuốc tốt lắm, sao quí Thầy không xài?
- Cuốc làm sao
đâu?
- Con đã làm
từ dĩa của máy cày, tốt lắm. Quí Thầy có dùng nó không?
- Sao tôi quên
rồi.
Nói chuyện một
hồi, vị Phật tử ấy theo quí Thầy vào nhà dùng cơm trưa. Ăn cơm xong, anh
đi vòng vòng ra ngoài hiên phía sau, thấy một đống cuốc nằm đó, anh nói:
“Trời ơi! Thật là quí Thầy… Cho cuốc tốt như vậy mà bỏ đây”. Rồi anh xách
vô, tra những cán cuốc cũ lại. Vừa tra anh vừa nói: “Thầy biết không, cái
cuốc này ở ngoài nó bán mấy chục ngàn một cây lận, quí Thầy bỏ cả chục cây
ở đây, ve chai nó gặp là xách đi hết rồi”.
Chừng đó mấy
Thầy mới biết, khi bắt đầu sử dụng càng thấy được giá trị của nó. Bấy giờ
chia nhau mà cất. Mỗi người cất một cây, thành ra cây cuốc của mình. Hồi
xưa bỏ ngoài sọt không ai thèm ngó tới thì không sao, bây giờ cũng cây
cuốc ấy nhưng đã cất riêng thành của mình, ai đụng tới là không được. Quả
thực là tự mình, cây cuốc từ thủy chí chung có nói gì đâu. Bỏ nó ngoài hè
cũng được, mà nâng niu dấu dưới gầm giường cũng không sao. Nhưng quí thầy
giữ gìn kỹ lưỡng cách mấy tới bây giờ cũng đâu thấy cây nào. Nó ở đâu? Mất
hết. Thời gian qua mài giũa, thay chủ, đổi người, làm bỏ tới bỏ lui đến
bây giờ kiếm không ra một mảnh nào của cây cuốc đó.
Thân này còn
không giữ được, nói gì cây cuốc. Người trước như vậy, người sau như vậy,
tới lượt mình cũng như vậy. Xét thế rồi, ta trói buộc chấp giữ làm chi.
Cho nên người tu hành phải tỉnh, làm chủ lấy mình để tự an tự ổn. Con trâu
của mình đã được nắm dây dàm, tay ta cầm roi, dẫn nó đi theo lối của mình,
chắc chắn nó sẽ không phá lúa mạ của người, không gây tổn thương cho ai.
Tổ Quy Sơn
dạy: “Nôïi ngoại chư pháp tận tri bất thật. Tùng tâm biến khởi, tất thị
giả danh. Bất dụng tương tâm tấu bạc”. Nghĩa là trong ngoài các pháp đều
biết chẳng thật. Từ tâm biến khởi thảy đều là giả danh. Chẳng đem tâm của
mình mà toan tính suy xét. Tinh thần của người tu đối với các pháp là như
vậy. Chúng ta sống tỉnh táo sáng suốt như thế thì tự an tự ổn, các pháp
bên ngoài là giả làm gì được ta? Nó đã không thật thì tại sao ta lại bị
mắc mứu, bị kéo lôi lăng xăng cả đời đối với nó? Nên người biết thương
mình là không để lầm lẫn theo các pháp và khổ vì nó một cách mê muội.
Tôi không dám
khuyên Phật tử phải xuất gia, bỏ hết tài sản vào chùa tu, nhưng chỉ đề
nghị quí vị thứ nhất là phải tỉnh. Thứ hai là đối với tất cả cảnh duyên
phải làm chủ được và biết rõ nó không thật. Đã không thật thì ta đừng đem
tâm vọng tưởng chạy theo để vướng mắc làm gì. Đó là chúng ta sống được với
Ông chủ của mình, tự an tự ổn.
Chúc quý vị
thành công như vậy.
? |