PHÁP VỊ CỦA NGƯỜI TU
Tất cả chúng
ta sau một thời gian nỗ lực tu hành, ít nhiều cũng có kết quả nào đó, như
vậy mới có thể tiếp tục đi hết con đường Phật đạo. Cho nên hôm nay chúng
tôi sẽ nói về Pháp Vị Của Người Tu.
Chữ “Vị” là
mùi vị, “Pháp” là Phật pháp. Chúng ta hưởng được mùi vị Phật pháp chân
chính sau khi trải qua một thời gian tu, đó gọi là pháp vị. Nói thế không
có nghĩa là ta cầu chứng đắc hay mong mỏi chứng đắc. Đây là một hiện thực,
nếu người quyết tâm, nắm vững phương pháp, khẳng định công phu tu hành
tăng tiến thì sẽ được pháp vị.
Pháp vị trong
nhà Phật không phải dễ dàng thưởng thức. Muốn thưởng thức được pháp vị,
người xưa đã phải khắc chữ “Tử” lên trán hoặc “coi như mình đã chết”. Kiểm
lại chúng ta ngày nay chưa thể coi như mình đã chết, mà còn ham sống sợ
chết nữa là khác. Bởi ham sống nên đối duyên xúc cảnh, ta không thể tha
thứ bất cứ một việc lớn nhỏ nào, hiện tượng nào mình cũng chiếu cố. Bởi
chiếu cố nên vui thì cười, buồn thì mặt mày méo xẹo.
Thiền sư đã
dạy đệ tử như thế này: “Ông hãy giữ cái miệng của ông như cây quạt mùa
đông ở cao nguyên”. Ông thầy không cho đệ tử nói chuyện, nhất là những
chuyện không thích hợp với việc tu hành, với đời sống sinh hoạt của người
xuất gia. Lời dạy ấy rất giản dị, nhưng cũng không phải dễ dàng thực hiện.
Bởi chúng ta có bệnh hay nói, chuyện của mình nói đã đành, chuyện của
người ta không can dự gì đến mình cũng nói, để chứng tỏ ta là người biết
nói. Bởi nói chuyện tào lao nên mất lòng, sanh sự rồi phiền não dẫy đầy.
Người như vậy dù tu bao lâu cũng không hưởng được pháp vị.
Vậy thì người
nào được hưởng pháp vị? Như tôi vừa giới thiệu, người chịu tu, quyết tâm
tu, coi như mình đã chết, người gắn được chữ “Tử” lên trán, hoan hỷ tha
thứ, buông bỏ hết là người hưởng được pháp vị. Tuy nhiên, không thể nhất
thời chúng ta hoàn chỉnh một loạt những điều như vậy. Bây giờ tuần tự từng
phần, từng giai đoạn chúng ta hoàn chỉnh. Nếu phần nào khó khăn, chúng ta
vận dụng dũng lực công phu tu hành nhiều hơn nữa, nhất định tiến chớ không
lùi.
Vận dụng công
phu tu hành nghĩa là vận dụng năng lực của sự dũng mãnh ở bên trong chúng
ta. Như khi ta có một việc gì không yên trong lòng, cảm thấy bức xúc thì
lúc bấy giờ mình nghe mà như không nghe, nhìn mà như không nhìn, tức là
không để ý gì hết, tự nhiên sẽ được yên. Điều này tuy đơn giản nhưng phải
vận dụng năng lực, sức mạnh bên trong mới làm được.
Thường khi
muốn giấu những nỗi buồn bực, người ta hay nói đông nói tây, giận chuyện
này mà đánh trống lảng chuyện kia. Như thế chỉ có sức mạnh khắc phục được
những gì bên ngoài, nhưng chưa khắc phục được chính mình. Bởi vậy những
thành công đó thực chất của nó là sự thất bại. Chỉ có người nào làm chủ
được mình, tự khắc phục chính mình, có thể tha thứ, khoan dung, từ ái,
nhẫn nhịn và bình an với mọi người, đây mới đích thực là người có sức
mạnh. Sức mạnh này không phải từ bên ngoài đem vô, cũng không do năng lực
của thần thánh nào ban cho, mà đây là sức mạnh do ý chí và năng lực của
chính mình.
Ví dụ chúng ta
đang tu theo đạo Phật, nhưng có người bạn nói: “Tu hành như anh biết bao
giờ mới thành Phật, bỏ quách đi theo tôi nè, chỉ ba tháng là được thần
thông quảng đại”. Nếu chúng ta không có sức mạnh thì dễ nghe lắm. Cho nên
người tu Phật phải có lập trường vững vàng, bất động trước mọi cám dỗ bên
ngoài. Thiền sư khi đã được bất động rồi, các Ngài khẳng định thế này:
“Nếu như ngay bây giờ, con bị những nghiệp báo oan khiên nhiều đời hành
hạ cùng cực, giả như phải chết đi, bị đọa vào địa ngục, chịu khổ vô vàn,
nhưng đối với tâm đạo, đối với trí tuệ Bát-nhã, con xin khẳng nguyện sau
khi trả hết những oan báo nợ nần đó, con quày đầu trở lại với trí Bát-nhã,
tiếp tục tu hành cho tới ngày thành Phật. Trong quãng đó, ai nói gì về
pháp tu của con, con cũng bình thường”.
Kiên tâm và
lời khẳng định của người tu hành là như vậy. Chỉ khi nào được như thế ta
mới hưởng được pháp vị. Vậy những cách thức cụ thể để hưởng pháp vị như
sau:
Thứ nhất là
đừng dính mắc. Có dính là có mắc, do đó hai từ này thường đi chung, chỉ
cho sự ràng buộc, mắc mứu, gỡ không ra. Bây giờ đối với tất cả hiện tượng
trước mắt, chúng ta đừng dính mắc. Những hiện tượng đó là gì? Hoàn cảnh
chung quanh ta như ăn mặc, ngủ nghỉ, tiếp xúc, đi lại, địa vị, tiền bạc,
tình cảm… mọi thứ trên đời. Ta gỡ từ từ, giống như trước mắt mình có một
mớ dây rối bời, bây giờ ta bình thản, ngồi gỡ lần lần thì nó sẽ hết rối.
Thời gian chậm mau không đặt thành vấn đề, mà với tâm cương quyết sáng
suốt, bình tĩnh, nhất định ta sẽ gỡ ra hết.
Sợi dây đó ví
cho dây tiền bạc, địa vị, tài sắc, quyền lợi, quyến thuộc… tất cả các thứ.
Nghĩa là mọi thứ trong cuộc đời này như mớ bòng bong, cuộn chúng ta lại
không biết đường chui ra. Thử kiểm lại xem có phải mình ham tiền không?
Phật dạy, người tu đừng ham tiền, ta mở thảy ra. Mình có ham ăn không? Tu
mà ham ăn coi sao được, ta mở thảy ra. Mình có ham chơi không? Tu mà ham
chơi làm sao định được, ta mở thảy ra. Nhớ thảy cái nào cho gọn cái nấy,
chứ đừng để gần rồi nó quến trở lại. Làm sao trong tay nải của mình chỉ có
pháp ấn thôi. Pháp ấn là gì? Là Phật pháp để mở tất cả những sợi dây ở
trên đó. Mở thảy ra chừng nào thì nhẹ nhàng chừng ấy, chừng nào trong tay
nải sạch sẽ, không còn gì nữa thì ta tự tại giải thoát.
Người sáng
suốt không dại gì giữa trời trưa nắng gắt, đường xa gánh nặng mà cứ chất
đồ lên hoài. Không có ông Thượng đế nào tới gỡ cho mình được đâu. Chỉ có
ta khôn thì thảy bớt đồ trong gánh ra là nhẹ thôi. Đường dài sanh tử vô
cùng vô tận, đối với các vị thánh thì đó là chuyện không thật nhưng nếu
chúng ta mở không ra, dứt không được, buông không xong, thì nó cứ lầy nhầy
hoài từ đời này sang kiếp nọ, không có ngày dứt.
Có nhiều cụ
già cả trăm tuổi lụm cụm đi không nổi, mà vẫn cứ chăm lo con cháu, chút
chít, không buông bỏ được. Trong gia đình giải quyết chuyện thằng hai chưa
xong, chuyện thằng ba rối tới, mấy đứa cháu nội, cháu ngoại… đủ thứ hết.
Tới lúc mình không còn thở nổi nữa nó cũng lại hỏi bên tai, mấy thẻ vàng
để đâu, chia cho đứa nào, mỗi đứa bao nhiêu, hỏi kỹ lắm. Tính không xong,
lát nữa mình nằm xuống nó quật lên xem có cất đâu trong người không. Con
cháu nó thương mình lắm, sợ chết chưa lãnh phần nên dựng dậy coi cho kỹ.
Cuộc đời này là như vậy.
Cho nên người
khôn ngoan phải giải quyết cho xong trong đời mình, làm sao hưởng được
pháp vị trước khi nhắm mắt ra đi. Pháp vị chỉ có ở sự bố thí, buông đi,
giống như gánh nặng thảy xuống thì nhẹ. Đừng nói bánh ít bánh tét tôi thảy
được, còn ngọc ngà châu báu làm sao thảy? Thưa, món nào trong gánh cũng
nặng hết, không lựa là bánh ít bánh tét nặng còn vàng ngọc không nặng.
Chúng ta hay lựa chọn, bởi lựa chọn nên cứ gánh hoài. Gánh từ hồi mới mười
lăm mười bảy tuổi cho tới sáu bảy mươi tuổi, đi còm lưng gánh hết nổi mà
vẫn cứ gánh.
Muốn hưởng thụ
pháp vị, chúng ta phải nỗ lực bằng chính sức mạnh của mình, phần nội tại
phải vững mới không bị lay chuyển bởi mọi thứ chung quanh. Tránh tình
trạng một nắng mười mưa, tức là bước tới một bước, bước lùi hai ba bước,
như vậy làm sao tới nơi tới chốn được. Người buông được không dính mắc là
người làm chủ được tất cả, là người biết thương mình. Người như thế luôn
sống trong thế bình an, giống như kẻ đang ngồi yên ở chỗ gò cao, nhìn mọi
thứ qua lại trước mắt mà vẫn bất động.
Trong huynh đệ
chúng ta, ít nhiều cũng hưởng được đôi chút pháp vị rồi. Nhưng làm sao bồi
dưỡng, phát triển cho nó được rộng rãi, lớn lao hơn nữa mới tốt. Điều đó
còn tùy thuộc vào hoàn cảnh, điều kiện, sự tu tập của từng người. Ở đây
điều thứ nhất là không dính mắc mà thường biết, chớ không phải không ngơ,
không biết gì. Như Hòa thượng dạy, người tu thiền các giác quan rất sáng
suốt bén nhạy, không một trở ngại nào làm mờ tối các giác quan. Nghĩa là
đối duyên xúc cảnh, chúng ta không bị bất cứ một cảnh duyên nào kéo lôi.
Mắt vẫn thấy các sắc tượng mà không chạy theo bất cứ một sắc tượng nào. Và
ngược lại không một sắc tượng nào làm lầm, kéo lôi được sự tỉnh giác của
chúng ta. Đó là hiện tướng của người hưởng được pháp vị.
Thực sự khi
chúng ta có công phu tu hành sâu sắc, những dấy niệm lăng xăng giảm thiểu,
chắc chắn mùi vị an lạc hiện tiền. Những giây phút ấy thống khoái đặc biệt
và thời gian đó chúng ta không thể nào nói ra hoặc tính được. Như buổi
sáng ta ngồi thiền một tiếng đồng hồ không ngủ gục, không đói bụng, không
có gì bức xúc, chúng ta thấy rất khinh an. Còn ngồi thiền mà mọi việc từ
sáng tới chiều giải quyết chưa rồi, bây giờ ngồi đó nhớ lại, thân thể
giống như đang ngồi trên sóng biển, hoặc trên lưng tuấn mã vậy. Nó nhồi
mình hết cái này tới cái kia, hớ một chút nó dẫn mình đi mất. Quả thực
pháp vị mình không nếm được. Cho nên một tiếng đồng hồ với công phu sâu
sắc sẽ nếm được pháp vị không thể tính kể.
Dù cho chúng
ta xuất gia mấy mươi năm mà trong công phu tu hành, kiểm điểm lại thấy bị
mất mình thì biết chưa hưởng được một chút pháp vị nào hết. Đó là những
dẫn dắt bình thường trong tư tưởng dấy niệm, không có gì hiện thực cả,
huống là những cảnh vức, những sự kiện hiện thực trước mắt, liệu xem mình
có làm chủ được không? Do đó chúng ta có thể trả lời một cách dứt khoát về
việc sanh tử của chính mình, bằng cách nhìn vào hiện tại ngay bây giờ mình
có làm chủ được hay không? Mọi dấy niệm chúng ta có làm chủ được không?
Những vọng tưởng điên đảo có dừng được không? Nếu ta có năng lực, có công
phu dừng được nó thì con đường luân hồi sanh tử có thể dừng được. Còn kiểm
lại hiện tại nếu chúng ta buông lỏng, cứ bị kéo lôi thì không có gì bảo
đảm cả.
Khi chới với
không còn đủ hơi thở để sống, ta mới thấy không có phép mầu nào, thần dụng
nào cứu gỡ được mình bằng pháp vị. Cho nên pháp vị là sức mạnh, là nội
lực, là công phu tu hành thông qua định tuệ của chúng ta, chớ không có gì
khác. Hiểu thế rồi chúng ta khỏi đợi chờ, khỏi mong cầu. Nếu làm điều tốt
thì sẽ có những người tốt hỗ trợ cho ta, nếu làm điều tăm tối thì ma mị sẽ
đến thúc bách sau lưng ta.
Là những người
con Phật, nắm chắc luật nhân quả và có công phu tu hành, chúng ta kiểm lại
thấy rõ ràng, nếu tâm ta chân chính, công phu tu học đúng phương pháp thì
nhất định sẽ không bị rơi lạc vào ma mị nên ta không sợ hãi chúng. Điều mà
ta sợ là những dấy niệm ta không làm chủ được. Bởi khi ta lên sáu bảy mươi
tuổi thì mạng sống không có gì bảo đảm, có thể duyên kết thúc bất cứ lúc
nào, không biết được. Do đó nếu không chuẩn bị, không có pháp vị thì thật
đáng sợ. Hưởng được pháp vị cũng như có pháp ấn trong tay nải, không còn
gì để sợ nữa.
Nói tới đây,
tôi nhớ hồi còn nhỏ, các cụ lớn tuổi kể cho tôi nghe về tấm giấy bạc có
hình bộ lư. Chỉ gia đình ai giàu mới có tiền này, cậu nào cuỗm được chừng
năm chục một trăm, mang ra đổi cũng không ai có tiền đổi hết. Giá trị của
nó lớn lao như vậy. Bây giờ nhớ lại, tôi thấy tờ giấy bạc ấy cũng như pháp
ấn vậy. Chúng ta đi đâu mà có pháp ấn trong tay nải thì không sợ gì hết.
Không sợ ma, không sợ quỷ, không sợ địa ngục, cũng không khoái thiên
đường. Bởi pháp ấn trùm khắp ba cõi, thống lãnh ba cõi, làm chủ ba cõi thì
còn gì để sợ chứ!
Đạo lý nhà
Phật chỉ thẳng chỗ chính yếu đó cho chúng ta tu, nếu chưa yên là tại ta
thôi. Có thể nói năng lực chủ động trong mọi thứ bất an bất ổn là si mê.
Bởi si mê nên mình chấp cái này, dính cái kia, chạy theo cái nọ, mất đi sự
thăng bằng nên pháp vị không còn nữa. Bây giờ chúng ta giữ thế chủ trì trở
lại, lập cước trên việc tu hành của mình, loại bỏ những gì si mê mờ tối
ra, tự nhiên tâm trong sáng hiện tiền, pháp vị phát sinh.
Si mê là gì?
Là những vọng tưởng điên đảo lăng xăng. Chúng ta ngồi lại cứ tơ tưởng
không dừng được, hết bà con dòng họ tới công ăn việc làm đua nhau tấn công
mình. Cái mà chúng ta thường cho là tâm mình đó, Phật nói không phải là
tâm. Nó là bốn loại quyến thuộc của si mê, đó là tưởng tượng, cảm thụ,
phân biệt và suy nghĩ. Nó là bà con gốc gác của si mê. Chúng ta cứ tưởng
suy nghĩ của mình là ngon, thưa không phải đâu. Có những việc không nên
suy nghĩ hoặc suy nghĩ không ra, ta tưởng cố suy nghĩ, phân tích là giỏi.
Nhưng không phải, càng phân tích là càng điên đảo.
Chỉ một pháp
ấn thôi, ấn xuống thì tự nhiên gốc gác họ hàng của si mê điên đảo không
còn ngóc đầu dậy nổi. Nó không sống dậy thì xem như chúng ta đã cắt đứt
những dây mơ rễ má của si mê, tự ổn định dần. Khi ngồi thiền, có những
kinh nghiệm chúng ta cần lưu ý, như vừa có một suy nghĩ chạm đến nó liền
dội ra. Nhưng ta đừng tưởng nó dội ra rồi thôi. Nó dội ra để chuẩn bị tấn
công mạnh hơn. Nếu mình sơ hở lần thứ hai nó sẽ nhập vào đột phá thành trì
của tâm. Vọng tưởng lì lợm dữ lắm, nó văng ra té ngửa té nghiêng như thế,
nhưng rồi cũng bu tới, đợi mình sơ hở là xâm nhập liền. Nếu không cầm chắc
pháp ấn trong tay, ta sẽ bị gạt dài dài.
Hòa thượng
thường nhắc nhở Tăng Ni: “Phải làm chủ cho được”. Đây là một pháp ấn. Bởi
không làm chủ được xem như công phu của chúng ta trôi mất hết. Thành ra
đối với việc tu hành, chúng ta cần phải lập chí vững chắc, kiên trì. Quan
trọng đừng để lọt vào vọng tưởng hoặc không ngơ. Có người nói cứ buông
hoài riết thành ngu, không nhớ gì hết. Không phải đâu. Ta không nhớ vì rối
nhiều chớ không phải vì buông. Nếu gỡ được mọi suy nghĩ, tưởng tượng, phân
biệt và cảm thụ, thì tuệ giác sáng suốt chiếu soi, ta nhớ và giải quyết
mọi việc thật tỉnh táo chính xác. Điều này chỉ khi nào cảm nhận được ta
mới thấy thích thú.
Bây giờ tôi
mới cảm thông được lời của một Thiền sư nói: “Trên đường không gặp kiếm
khách thì đừng trình kiếm, không phải nhà thơ chớ nói thơ”. Bởi có ai cảm
thông đâu mà nói. Ví dụ như tôi mất ngủ, sáng mai tôi nói với mấy thầy
chung quanh. Họ bảo kiếm thuốc ngủ cho tôi uống, điều này không giải quyết
được. Phải biết nguyên nhân của sự mất ngủ đó là do đâu, thuộc sinh lý hay
tâm lý. Nếu có nội kết bên trong chưa tháo gỡ được, dù uống cả vỉ thuốc
ngủ vẫn không chợp mắt như thường. Cho nên chủ yếu là tự mình giải quyết.
Người chung quanh chỉ hỗ trợ phần nào thôi.
Thiền sư Tuyết
Phong, được sư huynh là ngài Toàn Khoát nhấn cho một pháp ấn rằng: “Ông
phải biết, những của báu gì từ bên ngoài đem vô, không phải thật”. Bởi do
vọng tưởng ta nhìn lại, nhớ lại mà thấy thì không phải chân thật, làm sao
thuộc về mình được. Từ sự định tỉnh an lạc trong tánh giác phát sinh mới
là chân thật, đây chính là pháp vị của mình. Chúng ta biết, trong tính
giác, trong trí tuệ sáng suốt của chúng ta không có phiền não, không có
gia đình, không có nhà cửa, không có địa vị tiền tài gì cả. Nó rỗng rang
sáng suốt nên không do vọng tưởng mà biết được.
Điều thứ hai
là không trụ vào chỗ an lạc. Bởi vì còn trụ là còn đối đãi với dao động.
Mà giao động thì pháp vị mất, từ đó ta không tiến được. Cho nên phải nhớ,
an lạc cũng vượt qua, mà không an lạc cũng không chấp nhận. Tổ Lâm Tế dạy
“Phùng Phật sát Phật, phùng ma sát ma”. Nghĩa là chỗ an ổn hay là không an
ổn gì, chúng ta biết đều là không thậät. Trên lộ trình chúng ta còn phải
tiến nữa, chứ không phải ngang đó là rồi. Nên thay vì được pháp vị mà do
trụ pháp vị nên bị loạn tưởng cột chặt, không tiến lên được nữa. Những
loại vọng tưởng này gỡ không ra, phải nhờ bậc thầy cao tay ấn đả thông mới
mong thoát khỏi. Nếu không ta cứ bị loay hoay lẩn quẩn trong đó, công phu
không tiến được nữa, rất nguy hiểm.
Cho nên chớ
trụ pháp, chớ vướng mắc các trạng thái trong quá trình tu tập. Trong giai
đoạn chúng ta rất bén nhạy với cảnh duyên. Bởi do công phu tu hành, chúng
ta có chút đạo lực nên tuệ giác hơi lóe sáng, chớ chưa phải thật. Vì thế
nếu không khéo ta bị chính cái tuệ giác tưởng như thật này, làm cho mình
dễ duyên theo cảnh. Cái nhìn, cái thấy, cái nghe, cái hiểu biết của chúng
ta bây giờ bén nhạy lắm.
Người tu đến
giai đoạn này dễ bị vướng, không vượt qua được. Mà không vượt qua được
những giai đoạn này, vô tình chúng ta trở thành thầy bói. Thầy bói lúc này
ăn tiền ngon lắm. Bởi vì ta nói những điều thuộc về tâm lý bên trong khá
sâu sắc. Nhìn trên sắc diện, ánh mắt, dáng đi, giọng nói là mình biết
người đó đang bị cái gì, ra sao, nên nói trúng phóc. Nói đến mức độ mà
đồng tiền cất kỹ trong tủ sắt cũng phải nhảy ra. Thầy bói như vậy mới ngon
chứ. Người tu có công phu mà trở thành thầy bói, phục vụ chúng sanh kiểu
này thì uổng lắm, phải không?
Thành ra tới
chỗ này, các Tổ, các thiện hữu tri thức đi trước dặn chúng ta phải bước
qua, mới tiến thẳng được, mới thật sự đơn đao đột nhập Vô thượng giác. Nếu
không chúng ta bị những cảnh trí do chính công phu của mình chắn lối, làm
trở ngại lớn lao đến việc tiến đạo.
Điều thứ ba,
chúng ta nỗ lực tu tập đừng để bị vướng vào đâu cả. Điều này phải tế nhị
lắm mới được. Bình thường ta có đủ thứ công việc, không vướng cái này cũng
mắc cái kia. Ví dụ các vị học giỏi thì làm giáo thọ, các vị sẽ vướng vào
việc diễn giảng, phải nghiên cứu. Các vị có bản đạo, có đệ tử đông thì
vướng vào việc chăm sóc bản đạo, đệ tử. Các vị viết lách, làm thơ làm văn
hay thì vướng vào những việc này. Thế nên chúng ta phải nhớ lại pháp ấn
của Phật dạy “Tất cả đều là huyễn”, nếu không ta sẽ bị vướng.
Trong hành
trạng của ngài Hám Sơn, có đoạn nói rằng khi công phu đã thuần, Ngài có
một cảm xúc lạ lùng, nếu lúc đó cầm bút, Ngài ghi tới đâu thì thơ văn trào
ra tới đó. Nhưng Ngài bảo đó là một loại bệnh thiền. Hồi xưa khi đọc tới
đây, tôi ngạc nhiên “Ủa! Sao được như vậy mà Ngài nói là bệnh thiền, huống
là mình ngồi nắn nót một bài báo cả tuần lễ!” Ngài nói bệnh này nếu không
trị thì trở thành điên, điên chữ đó. Nghe cũng ngán. Nhưng quả thật là
bệnh.
Người mắc bệnh
này không làm chủ được mình. Cầm bút ghi một hồi, cây bút này hết mực, lấy
cây bút khác ghi tiếp, ghi hoài. Ở đâu cũng ghi được hết. Có khi đang tụng
kinh, ý tưởng nhảy ra phải dừng tụng, ghi. Đang ăn cơm, mới vừa bưng chén
lên lại phải ghi. Đang ngủ, giựt mình thức dậy, mở đèn lên ghi. Như vậy rõ
ràng là bệnh rồi. Buồn quá, vui quá, ăn quá, ngủ quá đều là tình trạng bất
thường, không phải là người tỉnh. Cái gì mà có chữ “quá” là bệnh.
Tu hành tới
mức này nếu không buông được những trạng thái như vừa kể trên là thành
bệnh. Điều này đáng sợ chứ. Cho nên tôi nêu lên đây để cảnh giác huynh đệ,
vì biết rằng sẽ có huynh đệ tu tới giai đoạn này.
Chúng ta nhớ
không phải đợi đưa vô nhà thương Biên Hòa, nói sàm nói nhảm mới gọi là
điên, mà mê bất cứ cái gì cũng là điên, mất bình thường là điên. Cho nên
chỗ này rất tế nhị, người tu phải giữ ở mức bình thường mà tiến, chớ không
phải tiến trong cái bất thường. Hồi xưa còn ở Chân Không, Hòa thượng
thường nói với chúng tôi: “Mấy chú thấy mình như người leo núi, đi lên
ngược dốc, không được quyền đứng lại liếc ngó gì trong lúc đang leo. Ráng
lên, ai té phải ngồi dậy, đi không nổi thì bò lết sao cho lên tới đỉnh mới
được ngồi yên. Dù khoảng giữa này có gió mát, có hát bội, múa lân gì cũng
đừng chiếu cố. Phải đi, trèo lên như vậy mới tiến tới đỉnh được”. Những
lời dạy này thật giản dị mà sâu sắc làm sao, ai có công phu tu hành mới
thâm cảm được.
Có một lần Hòa
thượng nhắc tổ Khánh Anh với những câu chuyện mà Tổ đã kể tràn đầy pháp
vị. Ngày xưa có một Hòa thượng sống ngây ngô như không biết gì. Tới giờ
ăn, thị giả thưa: “Bạch Hòa thượng dùng cơm”. Ngài nói: “Ờ, dùng cơm”. Tới
giờ tắm: “Bạch Hòa thượng đi tắm”. “Ờ, đi tắm”. Tới giờ nghỉ: “Bạch Hòa
thượng đi nghỉ”. “Ờ, đi nghỉ”. Năm đó, một ngôi chùa lớn mở trường hạ và
thỉnh Ngài chứng minh. Trên đường đi, ngang qua khe suối, thầy trò phải
lột hết đồ lội qua. Qua rồi Hòa thượng đi tỉnh bơ. Thầy thị giả nói: “Thưa
Thầy, mặc đồ lại”. Hòa thượng nói: “Mặc đồ lại”.
Người thế gian
cho vậy là ngơ ngáo. Nhưng trong đạo, những bậc như thế là đã thể nhập
pháp vị.
Đến nơi, sau
khi làm lễ an cư rồi, trong lời nhắc nhở Hòa thượng căn dặn đại chúng phải
đắp bờ lên cao năm tấc, chứ không nước sẽ tràn vào. Miền trung giữa mùa
nắng hạn, chùa lại ở núi non mà cụ dạy đắp bờ bao vùng giới tràng. Mấy
thầy lớn nghe nói không dám cười nhưng cũng không tin hẳn. Nào ngờ độ
chừng nửa tháng sau, một trận mưa lũ tràn về, nước ngập vô tràn lan. Lúc
đó mọi người mới biết Hòa thượng là hiện thân của Bồ-tát. Nào ngờ bề ngoài
ngơ ngơ ngáo ngáo ấy lại chứa Thánh hiền bên trong.
Người thật tu
không chú trọng hình thức bên ngoài. Quan trọng là phải được pháp vị, phải
làm chủ. Đối với tất cả những hiện tượng chung quanh biết hết mà không
dính mắc bất cứ hiện tượng nào. Đó là nhờ định tuệ đầy đủ, khi tuệ phát
thì vô minh tan biến. Muốn thế chỉ có công phu tu hành mà thôi.
Trong kinh kể
lại, lần đó đức Phật nhập định trong cái chòi rẫy của một Bà-la-môn, bất
ngờ nửa đêm có một trận mưa lớn, sấm sét dữ dội. Đức Phật vẫn an nhiên
nhập định, không nghe thấy gì hết. Sáng Ngài đi khất thực, thấy người ta
đang mổ những con bò con trâu bị sét đánh chết. Ngài hỏi nguyên do. Mọi
người ngạc nhiên nói:
- Vậy chứ khi
hôm Ngài ở đâu?
- Ta ở đó.
- Trời mưa bão
sấm sét như vậy mà không biết, lúc đó Ngài ngủ hay thức?
- Như Lai
không từng ngủ.
Không từng ngủ
là thức, tại sao Phật không nghe sấm sét, không thấy trời mưa đến đỗi bò
trâu bị sấm sét đánh chết cũng không hay biết. Thật ra lúc đó Ngài đang
nhập đại định, nên mọi thứ bên ngoài không chi phối nổi định lực của Phật.
Hy vọng trong
huynh đệ chúng ta một lúc nào đó, cũng sẽ được ở trong chánh định như đức
Phật, thì mọi tiếng động, mọi ồn ào chung quanh không còn tác động đến
mình nữa. Có thể trong khi tu hành, chúng ta áp dụng công phu của mình và
sẽ gặt hái được những lợi lạc như vậy.
Tuy rằng hiện
tại chúng ta còn là phàm phu, nhưng với quyết tâm tu hành, thì pháp lạc có
thể nếm được. Song đòi hỏi ở công phu tu hành rất nhiều. Nên nhớ trên bước
đường ta phải độc hành độc bộ. Việc của mình tự mình đảm đang, cô đơn
thôi. Nhưng xin nhớ cho rằng cô đơn là sức mạnh, là thước đo của tâm hồn
để ta đốt lên ánh sáng trí tuệ, soi đường đi tới Phật đạo.
Vậy thì xin
chúc quí vị cô đơn triệt để và thành công trên con đường Phật đạo, tận
hưởng trọn vẹn pháp vị.
? |