CÔNG PHU TU HÀNH
Trong việc tu hành có những điều hết sức bình thường, nhưng chúng ta không
thể lơ là hoặc không biết. Nhất là đối với sinh hoạt thường ngày, chúng ta
cũng phải cẩn trọng từng chút. Những gì mình đã tiêu xài thì sẽ không còn
nữa. Cũng thế, trong các mối quan hệ, tương giao, tiếp cận, chúng ta không
giữ được mình, phí phạm sức lực và thời gian thì sẽ ảnh hưởng đến công
phu. Sự tiêu xài này đồng nghĩa với một sự tích lũy nghiệp. Mọi thứ sẽ
chấm dứt trước khi ta trút hơi thở sau cuối, chỉ trừ nghiệp là còn lại. Đó
là điểm thứ nhất.
Trong cuộc đời này rồi cũng có lúc ta phải bỏ tất cả. Những gì ta đã tạo
ra thì phải để lại cho người khác. Dù người hay vật mình quí trọng nhất,
cũng không giữ được. Là Phật tử, chúng ta phải hiểu điều này. Càng có tâm
chấp giữ nhiều chừng nào, càng rước khổ vào thân nhiều chừng nấy. Đó là
điểm thứ hai.
Chỉ có những gì ta cho đi thì mới còn lại. Còn gì ? Còn ân đức. Nói cách
khác, khi chúng ta thí xả là đã gầy dựng cho mình một sự nghiệp tốt đẹp.
Khi mình cho ai một điều gì, xuất phát từ tâm thiện, đó là mình biết dành
dụm cho đoạn đường sắp tới của mình. Tôi tạm gọi đây là phúc duyên hay ân
đức. Đó là điểm thứ ba.
Nói như vậy để chúng ta thấy, những gì mình đang có, đang sử dụng chỉ là
tương đối và hữu hạn. Nếu biết dùng những thứ này vào việc công đức, thì
cuộc đời mình sẽ tốt đẹp trong tương lai. Muốn thế việc tu hành trong hiện
tại phải luôn luôn tăng tiến.
Từ lâu tôi đã nói, chúng ta cố gắng tìm những phương thức giản dị, dễ
hiểu, bình thường và gần gũi với cuộc sống, để ứng dụng tu hành. Tháo bỏ
những gì từ lâu chúng ta vẫn ôm giữ bảo thủ, thì mình sẽ cảm thấy yên ổn.
Việc tiếp thu Phật pháp theo đó mà ngày càng tăng trưởng. Dù người hiểu
đạo, học nhiều, nhưng một khi tâm niệm buông xả vẫn chưa được phát huy,
thì nhất định công phu của mình bị giới hạn, nếu không nói là trì trệ. Tôi
nói điều này bằng chính kinh nghiệm của mình.
Người không buông xả được, trong lòng chấp giữ đủ việc thì dù có gắng gổ,
nỗ lực, công phu vẫn bị sự chấp giữ ấy ngăn ngại hoài. Ngược lại, nếu
chúng ta buông được, trong lòng thảnh thơi nhẹ nhàng, không có một vấn đề
gì thì công phu sẽ tăng tiến một cách dễ dàng. Được vậy, ngay trong đời
này, chúng ta cũng có thể đạt được sự an lạc lâu dài. Đó là một trong
những phương thức, chúng ta có thể áp dụng và phát huy trong việc tu tập
của mình.
Quí vị biết, có nhiều người cực khổ cả đời, cho đến tuổi xế chiều mới gầy
dựng được cho mình một căn nhà. Khi sự nghiệp vừa có thì thân thể đã mỏi
mòn, bệnh tật tấn công, người ấy không còn đủ sức để sống và tận hưởng
những gì mình đã gầy dựng. Tâm niệm luyến tiếc sự sản bắt đầu trỗi dậy. Có
người trước khi chết, buộc con cháu phải dìu đi vòng vòng trong nhà, rờ
từng bức tường, tủ thờ, bàn ghế v.v... rồi mới chết. Chết như vậy làm sao
siêu được ! Không siêu được thì cứ luẩn quẩn trở đi trở lại để giữ bàn,
giữ ghế, giữ nhà cho con cháu. Những chuyện như vậy, kinh A-hàm nói rất
nhiều.
Một hôm đức Thế Tôn đi khất thực ngang qua một căn nhà, con chó trong nhà
nhảy xổ ra sủa. Thấy vậy đức Phật chỉ con chó nói vài câu. Sau khi Ngài đi
rồi, con chó buồn rầu và bỏ ăn. Chủ nhà lấy làm lạ hỏi rõ nguyên nhân,
người trong nhà kể lại sự việc trên. Chủ nhà nổi giận đùng đùng, vội tìm
Phật hỏi nguyên do. Đức Phật ôn tồn kể lại: “Trước đây con chó ấy là mẹ
của ngươi. Do vì số của cải cất dấu dưới ngạch cửa chưa nói được với
ngươi, mà mẹ ngươi phải chết. Tâm chấp giữ tham tiếc ấy khiến bà đầu thai
thành con chó, suốt ngày nằm giữ ngay ngạch cửa. Nếu không tin ngươi cứ về
đào lên sẽ rõ”. Chủ nhà y lời của Phật, ông quật cửa lên thì thấy vàng bạc
châu báu cất dấu dưới ấy. Con chó nhờ Phật nhắc cho vài câu mà buông xả
tâm tham tiếc nên được hóa kiếp.
Cho nên biết tâm niệm khi gần chết rất quan trọng. Nếu lúc đó chúng ta đắm
trước thứ gì thì coi chừng, phải chạy theo thứ đó mà thọ khổ. Bị nghiệp
kéo đi rồi thì luẩn quẩn trong vòng tham ái chấp thủ biết chừng nào mới
được giải thoát ? Thành ra chúng ta phải biết và luôn tự khắc, tự tỉnh
chỉnh đốn công phu tu hành của mình.
Ngay trong nếp sinh hoạt hàng ngày của mình, chúng ta phải biết thân này
là đồ bỏ. Dù đang mạnh khỏe tươi tắn, nhưng chỉ cần một cơn gió độc hay
một con rắn độc cũng làm mình mất mạng dễ dàng. Vô thường nhanh chóng, mọi
thứ tạm bợ, không có gì bảo đảm. Đừng để đến khi thân này run rẩy, không
còn sử dụng được nữa, mình mới sắp đặt thì không kịp nữa rồi. Theo đó mà
chìm nổi trong các đường, quả báo thọ sanh tương thân tương oán, không có
ngày cùng.
Tuy nhiên nếu biết tận dụng thân này, chúng ta có thể học đạo, phát huy
được công phu tu hành dễ dàng nhất. Thử tưởng tượng, nếu không được thân
người, mà phải mang một lớp lông lá lù xù, làm sao chúng ta có cơ hội học,
hiểu và áp dụng Phật pháp để tu hành. Khó lắm. Vì vậy để chuẩn bị cho cận
tử nghiệp tốt, chúng ta phải chuẩn bị ngay bây giờ. Đừng để đến lúc gấp
rút mờ mịt, không làm chủ được thì trở tay sao kịp.
Những người thường ngày hay gây tạo ác nghiệp, khi sắp bỏ thân này, họ
thấy sấm chớp, mây đen, mưa phủ, rồi cọp sói xúm nhau tấn công… Tâm trạng
sợ sệt hốt hoảng, họ chạy thục mạng tìm chỗ lẫn trốn. Khi thấy lùm cây,
hốc đá họ núp vào chính là lúc thọ thân sau. Do đó mang lông đội sừng
trong các loài cầm thú. Đối với những người tu tạo công đức lành, khi sắp
bỏ thân này, thân tâm nhẹ nhàng phơi phới. Họ thấy trời trong gió mát,
cảnh trí đẹp đẽ vui tươi. Hoặc thấy ao nước trong, họ thích thú lội xuống
tắm. Đó là lúc họ thác sanh. Người được thác sanh như thế hoặc là sanh
thiên hoặc sanh vào nhà phúc lạc, cao hơn cõi giới của chúng ta.
Tùy tâm trạng lúc gần chết mà chúng ta có các cảnh giới thác sanh khác
nhau. Tâm trạng này tùy thuộc vào nghiệp nhân chúng ta đã gây tạo lúc còn
sinh thời. Đối với người tu, chúng ta có thể chỉnh đốn và chuẩn bị trước
công đoạn này. Nghĩa là ngay bây giờ chúng ta phải buông xả, phải tỉnh táo
và phải tu tập. Tu tập làm sao để có thể gặt hái được những lợi ích thiết
thực trong mọi sinh hoạt lúc sống cũng như khi chết.
Trong công phu tu hành, trước tiên chúng ta phải gầy dựng được các công
đức. Kế nữa là nắm vững phương pháp tu hành, thực tập công phu liên tục
trong từng tâm niệm. Và sau cùng là phải làm chủ, lựa bỏ tháo gỡ những
buộc ràng chung quanh. Đó là ba giai đoạn người tu phải trải qua.
Trước tiên, tôi nói giai đoạn gầy dựng công đức. Bởi công đức chính là
hành trang cho việc tu học của mình. Thường người có nhiều phúc duyên,
nhiều công đức thì các công việc đều thành công dễ dàng. Còn người thiếu
phúc, thiếu duyên thì mọi thứ trở nên giới hạn. Ước mười thì may ra còn
được ba đến năm, có khi hoàn toàn không được gì. Làm thì nhiều mà thành
quả thì không bao nhiêu. Những cái gọi là phúc duyên này chính là những
nghiệp nhân mà mình đã gầy tạo truớc đó. Ta thường gọi là âm đức.
Riêng trong lãnh vực tu hành cũng như thế, người có đủ phúc duyên, đủ công
đức thì việc tu không khó. Bởi công đức này đã hình thành từ những đời
trước, hiện tại họ tiếp tục công việc của mình, nên sự tu tập trở nên dễ
dàng. Như các vị đã từng trải qua mười đời làm Hòa thượng thì bây giờ làm
Hòa thượng không khó. Nếu trước đây chưa từng làm Hòa thượng, thì bây giờ
chắc khó. Tóm lại, ngoài đời hay trong đạo, khi phúc duyên đã đầy đủ thì
ta làm gì cũng dễ thành công.
Để tu tạo các công đức, chúng ta cố gắng hướng ba nghiệp của mình theo con
đường lành. Hành động hướng thượng thì đời sống cao cả siêu thoát. Muốn
vậy, tất cả những gì cù cặn, lỉnh kỉnh, vướng mắc... chúng ta sẵn sàng,
mạnh dạn bước qua để tiến lên. Đây là những thử thách. Có khi những thử
thách này rất bình thường, nhưng nếu chúng ta không tập trung, không chuẩn
bị tinh thần thì sẽ không vượt qua nổi.
Như câu chuyện của một Thiền sư. Sau khi từ bỏ gia đình, xuất gia học đạo
và thành tựu sở nguyện. Trong một nhân duyên Phật sự, Ngài trở về quê. Bà
con thân thuộc trong gia đình rất mừng rỡ. Biết Ngài còn ở nhà thêm một
đêm nữa, họ bàn nhau tổ chức họp mặt đông đảo thăm hỏi. Thiền sư nghĩ mình
đã cắt ái, dứt khoát bỏ nhà học đạo. Dù là sáng được việc của mình, nhưng
công đức chưa viên mãn. Nếu bây giờ để cho tình cảm lây nhây, có điều kiện
phát triển đâm chồi mọc rể trở lại, thì quả là không nên. Nghĩ rồi, Ngài
quyết định ra đi trước khi họ đến. Nói là làm, Ngài lập tức cuốn gói đi
thẳng.
Đó chỉ là một việc nhỏ. Nhưng quí vị thấy, nếu không có tâm hướng thượng,
không có sự cương quyết và tỉnh giác, chúng ta cũng khó vượt qua được. Nếu
chúng ta có lòng cương quyết, có ý chí vững mạnh, không để cho bất cứ một
vấn đề nào bên ngoài sai khiển, thì chúng ta phải luôn luôn xem xét công
phu của mình. Công đức, phẩm hạnh, đạo lực của mình hiện nay tới đâu ? Nếu
chưa hoàn chỉnh, chúng ta phải lo cho hoàn chỉnh, mọi thứ khác gác qua một
bên. Việc chính là làm sao cho công phu của mình được tăng tiến. Đó là mốc
đầu tiên, là tinh thần hướng thượng của người tu chúng ta.
Kế đến, chúng ta phải vượt qua được ngã chấp của mình, nó làm cho chúng ta
bị trói buộc, bị vướng víu khổ lụy. Ngã là cái mà người tu phải đương đầu
và phá hủy cho bằng được, nếu muốn thăng tiến trên con đường tu hành. Nếu
chưa diệt được ngã, chúng ta cứ lây quây luẩn quẩn, bị nó sai khiển, kéo
lôi từ kiếp này sang kiếp khác. Người tu sau khi đã định hướng rồi, phải
quyết tâm triệt tiêu ngã. Mà triệt tiêu ngã là sao ?
Như chúng ta đã đi chùa và qui y, nhưng nghe ai nói: “Ôi! Bà đó mà tu cái
gì, dữ như chằng” là nổi sùng liền. Đó chính là ngã. Nhắc đến ngã, thì có
muôn vàn ! Dù đang ngồi tiếp khách, ăn cơm hay ngủ v.v... mà nghe ai nói
gì đến mình, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp thì lập tức cái ngã ló đầu ra
liền. Rồi thì sừng nanh, trợn mày chớp mắt, đủ thứ chuyện. Thế là mọi thứ
trên đời phát sinh, nối tiếp dây dưa vô hạn định. Thành ra chúng ta phải
kiểm tra thường xuyên. Dù mình tu học bao nhiêu năm, mà vẫn còn như thế
tức là chưa quyết tâm phá trừ ngã chấp.
Phật nói tất cả chúng sanh đều có pháp thân. Pháp thân ấy sáng suốt, trùm
khắp, bất sanh bất diệt. Nhưng chúng ta lại quên mất pháp thân mà sống với
báo thân nhiều hơn. Báo thân tức là thân quả báo này. Nó là kết quả của
những nghiệp nhân mình gây tạo ở quá khứ. Cho nên báo thân không ai giống
ai, dù cho sinh đôi chăng nữa cũng có điểm khác nhau. Chúng sanh chấp vào
thân nghiệp báo này cho là thật, và cứ lây quây luẩn quẩn với thân ấy từ
đời này qua đời khác.
Người biết tu chịu khó quán chiếu, tức phản quan tự kỷ thì sẽ thấy thân
này chẳng có giá trị gì cả. Còn kẻ mê thì bám giữ chiếc thân hư giả này,
ai đụng tới là không được. Chẳng những đụng thân mình không được, mà cả
những cái chung quanh mình cũng không được. Nếu chúng ta chưa phá được
ngã, còn bị lệ thuộc nhiều bởi thân hư giả này, thì công phu tu hành không
thể nào tiến được. Chúng ta sẽ lên xuống trong các đường không biết đến
bao giờ. Người xưa dùng từ “ba vô số kiếp” để diễn tả cho thời gian dài
đăng đẳng này. Cho nên nhà thiền dùng các phương tiện như bắt ngồi thiền
vì sợ mình nằm dài ra ngủ, bắt tụng kinh vì sợ mình lười biếng ham chơi.
Mọi thứ nội qui điều lệ cũng đều vì mục đích mài dũa bản ngã của mình. Lạ
một điều, trị ngã thì chúng ta cũng muốn trị, mà phát huy ngã thì chúng ta
cũng cứ phát huy. Cho nên rồi việc tu tập không đi tới đâu. Đó là vì chúng
ta thiếu ý chí, thiếu quyết tâm.
Giai đoạn kế là chúng ta cố gắng đừng để tham giận, si mê, phiền não, tật
đố... làm chủ mình. Những thứ này luôn nằm sẵn trong túi chúng ta, có cơ
hội là nó lập tức nhảy ra. Quý vị nhớ người nào giận nhiều thì người đó
mau già mau xấu. Ở đời ai cũng muốn mình tươi tắn, dễ nhìn dễ coi, nhưng
cái giận lại không buông. Mà giận là gốc của sần sùi xấu xí. Không buông
cái giận thì làm sao tươi đẹp được.
Ngoài việc làm già nua thân thể, nóng giận còn làm mất tất cả các công đức
của mình. Chư vị Bồ-tát có công đức chính là trị dứt những loại phiền não
này. Các Ngài buông được sự nóng giận là do các Ngài làm chủ được. Nếu
chúng ta cũng tu tập như thế là chúng ta biết tu theo công hạnh của
Bồ-tát. Công hạnh của Bồ-tát gồm có sáu thứ là bố thí, trì giới, nhẫn
nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ.
Nên trong mọi tương giao hằng ngày, chúng ta kiểm soát được mình, dẹp tan
nóng giận, tham lam, phiền não, tật đố… những cái dở của mình, đó là chúng
ta tu hạnh Bồ-tát. Nghĩa là đối với cảnh sân, chúng ta nhẫn được không
sân, đối với cảnh tham chúng ta tự tại không bị kéo lôi. Trong mọi thời
mọi lúc chúng ta siêng năng, liên tục phát huy trí tuệ của mình, đó là tu
hạnh Bồ-tát. Đây là các phương thức để chúng ta hành Bồ-tát đạo. Trị được
ít thì làm Bồ-tát nhỏ, trị được nhiều thì làm Bồ-tát lớn. Thành tựu được
Bồ-tát đạo rồi mới có thể thành tựu được Phật đạo.
Tóm lại trong mọi hành động, chúng ta phải gìn giữ bảo vệ, đừng để tham
sân phiền não tác động, kéo lôi mình gây tạo những nghiệp nhân bất hảo. Đó
là điều chủ yếu. Ngồi thiền, tụng kinh, sám hối, học pháp... chỉ là những
phương tiện tu tập, cốt làm cho hoàn chỉnh việc chính yếu trên. Chẳng hạn
ba giờ khuya chúng ta phải dậy ngồi thiền. Nhưng từ hai giờ ta đã tỉnh,
kiểm tra tham sân phiền não của mình, không để chúng dấy động, thì việc
ngồi thiền có hay không, không thành vấn đề. Niết bàn giải thoát không thể
tìm kiếm bên ngoài, mà phải từ ngay chúng ta. Hễ chúng ta buông được một
xấu xa, một tham sân phiền não thì chúng ta sống lại được với cái sẵn có
của chính mình. Nghĩa là nếu chúng ta tỉnh sáng, thì chúng ta có được
nguồn an vui ngay trong hiện đời.
Từ mốc đầu tiên là hướng thượng, đến giai đoạn thứ hai là tập trung triệt
tiêu ngã chấp, kế đến hóa giải tham sân, phiền não, rồi phát huy trí tuệ
và cuối cùng là tâm an. Đó là một quá trình hay một phương thức tổng quát
để chúng ta áp dụng tu tập. Ở đây Hòa thượng gom gọn quá trình trên lại
một cách đơn giản là “Một niệm dấy lên, không theo tức là định. Biết vọng
niệm hư giả, không thật tức là tuệ. Định tuệ hiện tiền là người tự tại”.
Với cách thức tu tập như vậy, chúng ta không nhất thiết lệ thuộc vào các
thời khóa như tụng kinh, ngồi thiền… Mà trong mọi lúc khi ăn, khi nghĩ,
khi làm việc, khi tiếp khách… ta đều tỉnh giác, làm chủ được mình. Vọng
niệm dấy khởi mình dừng được, không để nó kéo đi, tức là đã có định. Định
là một năng lực, một sức mạnh mà mình bất kỳ người tu nào cũng không thể
thiếu. Được thế thì tuệ giác hiện bày. Người đầy đủ định tuệ thì không có
gì làm họ dao động được. Phật nói đó là hạng đại lực lượng, là hàng Đại
Bồ-tát tự tại giải thoát.
Tôi đã nói phần gầy dựng công đức rồi, kế đến là phần giữ cho công phu
miên mật. Miên mật có nghĩa là liên tục, không gián đoạn, không bị xen hở.
Người tu thiền phải dụng công liên tục, miên mật trong từng tâm niệm.
Chuyện này không phải đơn giản, vì chúng ta lúc tỉnh lúc mê. Đừng nói
trong một ngày, một buổi sáng, mà chỉ trong khoảng một tiếng đồng hồ thôi,
chúng ta cũng đã khó giữ công phu miên mật rồi.
Quí vị ngồi lại sẽ thấy, hai phút đầu tỉnh thì năm ba phút sau lại mê rồi.
Mê là gì ? Là bị cảnh duyên kéo lôi. Nó kéo mình đi mất, mình ngồi đó mà
tâm thần để tận đâu đâu.
Như sáng nay, quý vị đến Thiền viện lễ Phật, nghe pháp thấy lòng thư thả,
an ổn. Sau đó quí vị ra nhà khách uống trà. Uống một ngụm trà trong người
hưng phấn, rồi cảnh tượng tấp nập xe cộ của thành phố hiện về, cảnh gia
đình con cái tính toán lo toan... Nghĩa là thân thì ở thiền viện, mà tâm
đã bay về tận thành phố, đang đại náo loạn xạ như Tề thiên đại náo thiên
cung. Chưa yên đâu ! Một chiếc xe vừa chạy qua, lập tức dòng vọng tưởng
đổi chiều, “chà chiếc xe đó đẹp quá” và hàng loạt loại xe liên miên nối
tiếp cho đến khi vọng tưởng gặp đối tượng mới…
Ngoài ra cũng có vị ngồi yên lặng nghiêm trang trong chánh điện cả tiếng
đồng hồ. Mới nhìn tưởng như an ổn, ngờ đâu họ đang đắm mình trong dòng hồi
tưởng về cuộc đời thăng trầm đã qua. Thế thì sao ? Dù cho cuộc đời lúc
trước có đi trên nhung lụa hoặc là lội dưới sình lầy thì cũng chỉ là vọng
tưởng thôi. Sao lại hành thân tâm chi cho khổ vậy, sao không để cho mình
đươc chút bình yên ! Thế nhưng ít ai chịu như vậy.
Nếu một tiếng đồng hồ hoặc nửa tiếng thôi, quý vị ngồi chỉ ngồi, bình
thường, hồn nhiên nhìn mọi thứ trước mắt, không bị bất cứ thứ gì kéo lôi.
Nghe tiếng động biết đó là tiếng động. Biết tất cả rõ ràng, nhưng không có
gì kéo lôi được mình. Được như vậy là thiền định. Nhưng thường chúng ta
hay hưng phấn bất tử. Hưng phấn rồi thì trong đầu hình thành những thứ tơ
tưởng, những chương trình đầy ắp. Thở không nổi, buông không xong.
Chúng ta phải tu trên từng tâm niệm. Làm sao một niệm dấy khởi, mình dừng
được thì sẽ an lạc. Làm cách nào để dừng được ? Những niệm buồn, vui làm
thay đổi gương mặt của mình không biết bao nhiêu lần. Nói đến đây, tôi nhớ
lại câu chuyện thời tôi còn nhỏ. Tôi và mấy huynh đệ được mời tới ăn cơm ở
một ngôi chùa người Hoa. Hôm ấy chùa cúng to lắm, có cả việc mở bát bảo
đựng xá lợi của chư vị Tổ sư. Tương truyền rằng, người nào nghiệp tập mỏng
có công đức nhiều, thì nhìn thấy xá lợi tươi đẹp. Ngược lại ai tham sân,
phiền não nhiều thì thấy xá lợi xám tối hay đỏ bầm. Mọi người nghe lời này
thảy đều xôn xao. Ai cũng muốn biết nghiệp tập và phước báu của mình tới
đâu. Tôi không hiểu chuyện ấy thực hư thế nào, nhưng các huynh đệ của tôi,
người thì thấy xá lợi trong xanh, người thì thấy xám xám đen đen…
Đó chẳng qua căn cứ trên tâm niệm của mình. Muốn mọi việc tốt đẹp thì
chúng ta phải tu tập trong từng tâm niệm. Tâm niệm tu tập liên tục thì sự
an lạc, sáng suốt cũng liên tục. Muốn vậy trước tiên chúng ta phải dừng
được những niệm khởi. Niệm khởi thì vô vàn. Ngồi lâu khởi niệm mệt, niệm
đói. Trong người có bệnh phong thấp thì khởi niệm nhức mỏi… Niệm đã phát
sinh thì rất nhanh, chưa có hệ thống vi tính nào tính nổi những dấy niệm
của con người. Tâm niệm bén nhạy, tinh vi, tế nhị vô cùng. Chúng ta khó
phát hiện kịp những hiện hình của nó, cho nên nó dễ dàng kéo lôi mình.
Vọng tưởng kéo đi một khoảng xa, giật mình tỉnh lại té ra nãy giờ bị vọng
tưởng dẫn !
Không dừng được niệm khởi giống như không dập tắt được tàn thuốc nhỏ. Nó
làm cháy rụi cả khu rừng công đức của mình. Trong kinh nói “Một niệm lửa
sân đốt tan cả rừng công đức”. Như từ một niệm sân hận, nếu không dừng
được thì xảy ra không biết bao nhiêu tội ác, đau khổ khiến cho người ta
giết nhau, rồi tù đày v.v… Rõ ràng như vậy. Nổi sân lên mà dằn không được
thì hiện trường sau đó, chúng ta không lường hết được. Cho nên người tu
phải nhìn thấy được hậu quả phát sinh từ các dấy niệm của mình, cố gắng
dừng cho được chúng.
Tất cả những gì chúng ta đã học hiểu, đều là phương thức để tập trung phát
huy cách thức làm chủ các dấy niệm. Người tu, nhất là tu thiền, phải có
năng lực tiêu dung tất cả các niệm. Đi đứng nằm ngồi, trong mọi sinh hoạt
mình phải làm chủ được các niệm, không để nó kéo dẫn đi đâu. Được vậy mới
có thể nhập thiền, nhập định. Người như thế là người biết áp dụng Phật
pháp trong đời sống, hưởng được sự lợi lạc ngay tại đây và bây giờ.
Tóm lại, dù chúng ta có học đạo hiểu đạo, tu tạo nhiều công đức, nắm vững
đường lối chủ trương tu hành, mà công phu của mình không có, thì cũng như
người nói ăn mà bụng cứ đói. Không có công phu mà muốn được giác ngộ, muốn
được giải thoát thì quả là chuyện mơ hồ. Đạo Phật rất hiện thực và rất
khoa học. Chúng ta càng nghiền ngẫm, càng hiểu biết, càng có công phu tu
tập thì chúng ta sẽ càng nhận rõ được điều này. Một khi chúng ta áp dụng
và hành trì đúng đắn, chúng ta sẽ được an lạc và giải thoát ngay trong
cuộc sống này. Chẳng hạn khi tâm sân dấy khởi, mình thấy và hóa giải được,
thì lập tức sự nóng bức sẽ tan loãng. Ngay lúc đó, ta nhận ra sự an lạc
giải thoát phần nào rồi. Bất cứ loại phiền não nào cũng vậy, trị được phần
nào thì được an lạc phần ấy.
Tuy nhiên không phải nói là chúng ta làm được liền. Bởi vì tập nghiệp từ
lâu đời đã ăn sâu, bây giờ muốn gột rửa cần phải nhẫn nại, kiên trì lắm
mới được. Người sáng suốt là người chịu khó kiểm lại xem nghiệp tập của
mình, thứ nào nặng thì trị trước. Nhắm mũi dùi xỉa thẳng, bửa ngay chỗ đó.
Ngày nay bửa chưa được thì ngày mai bửa tiếp, chiều nay bửa không xong thì
tối nay bửa cho xong. Cứ vậy mà làm, có ngày cũng phải xong.
Hòa thượng Viện trưởng dạy chúng ta phải gan dạ, phải phát tâm trường
viễn, phải có ý chí mãnh liệt mới hoàn thành được việc của mình. Thiếu một
trong những thứ đó, chúng ta khó có thể thực hiện chu toàn công phu tu
hành. Như nói tụng kinh, niệm Phật sẽ được hết khổ. Nhưng đâu phải tụng
vài lần, niệm vài chuỗi mà có thể hết khổ. Người đã tu Phật nhiều đời,
tụng niệm vài lần được an lạc giải thoát. Còn chúng ta cạy vẫn chưa chịu
nhúc nhích, nói gì tụng niệm sơ sơ mà được hết khổ.
Tuy nhiên người có đức tin, tin sâu lời dạy của Phật Tổ, thì tu đến bao
giờ hết khổ mới thôi. Ngày nay chưa rồi, ngày mai tiếp tục. Đời này chưa
xong, đời sau sẽ xong. Không gan dạ làm sao dám làm, không có tâm trường
viễn làm sao dám đeo bám, không ý chí thì ắt hẳn phải bỏ cuộc giữa đường.
Cho nên trong việc tu hành, không đặt vấn đề giỏi hay dỡ, mà là ta có dám
làm và chịu làm hay không ? Dám làm sẽ thành công, chịu làm sẽ tăng tiến.
Pháp Phật là tùy nghiệp tập của chúng sanh mà có, thành ra ai cũng có
phần. Có điều đòi hỏi chúng ta phải cố gắng, đầy đủ niềm tin, ý chí và
công phu phải được liên tục.
Gặp nhau trong một pháp hội, ít nhiều chúng ta cũng đã có phúc duyên. Phúc
duyên lớn nhất của mình là gặp được Phật pháp và biết áp dụng lời Phật
dạy. Quí vị cũng biết, nếu thiếu phước duyên chúng ta khó có cơ hội, có
thời gian, có điều kiện để học hiểu và hành trì Phật pháp. Đã có sẵn phúc
duyên để áp dụng Phật pháp thì cố gắng áp dụng cho đúng. Những gì không
cần thiết chúng ta loại ra. Những gì cần thiết cho việc tu học, dù khó đến
đâu chúng ta cũng gắng vượt qua, gắng làm cho được.
Một trong những việc quan trọng cần làm là chúng ta phải phá bằng được ngã
chấp của mình. Nó là cái khó trị khó phá nhất. Nếu chúng ta muốn giải
thoát, giác ngộ mà không phá được ngã chấp, thì việc giải thoát giác ngộ
chỉ nói cho vui, chớ không có thực chất gì cả. Muốn phá được thì lối tu
thẳng tắt và hiệu quả nhất là niệm dấy liền buông! Chúng ta phải làm chủ
và dừng cho được những dấy niệm của mình. Công phu tu hành phải được thực
hiện liên tục trên từng tâm niệm. Một khi làm được điều này thì chúng ta
sẽ được an lạc và giải thoát ngay trong hiện đời.
Cuối cùng, tôi xin chúc toàn thể quý vị lúc nào cũng tỉnh sáng, công phu
được phát huy liên tục trong mọi lúc. Mong tất cả đều thành công trong
việc tu học của mình.
] |