TRANG NGHIÊM HẠNH NGUYỆN
Hôm nay
chúng tôi sẽ nói về hạnh nguyện của người tu. Người tu thường phát nguyện
hành hạnh Bồ-tát, hạnh Phật. Tại sao phải phát nguyện ? Theo tinh thần Đại
thừa Phật giáo, người tu luôn luôn phải phát nguyện để đạt cho được mục
đích, để thực hiện cho được ý muốn của mình. Không phát nguyện tức là
không có mục đích. Không có mục đích thì chúng ta tu hành để làm gì ? Cho
nên hạnh nguyện rất cần thiết cho người tu cầu đạo giải thoát viên mãn.
Thế nào là
hạnh nguyện ? Nguyện là sở nguyện, là ước muốn của mình. Hạnh là thực
hành. Hạnh nguyện là thực hành những ước mong của mình. Vì vậy nhìn chung
ai cũng có sở nguyện. Như người đời cầu mong được an ổn khoẻ mạnh. Người
tu Tịnh độ niệm danh hiệu Phật A Di Đà, mong được sanh về cõi Cực Lạc.
Người tu các pháp môn khác cũng vậy, luôn luôn mong mỏi tha thiết đạt được
sở nguyện của mình.
Người tu thiền cũng có hạnh nguyện riêng của mình. Đó là những mong muốn
rộng mở, trùm khắp, không dành riêng cho ai, không hạn cuộc trong phạm vi
nào. Trong tất cả lời phát nguyện, nguyện lớn lao nhất là nguyện cầu thành
Phật. Người tu thiền chỉ nguyện cầu thành Phật. Phật là giác. Chúng ta
sống được với tánh giác là sống được với Phật của chính mình. Sống được
với tánh giác của mình rồi thì khỏi cần mong cầu. Chúng ta bị các sự kiện
xung quanh quấy rầy, nên thường mong cầu được yên ổn. Như bệnh tật liên
miên tu không tiến, mong cho hết bệnh. Trí nhớ kém học kinh hoài không
thuộc mong cho được thông minh sáng suốt v.v… Đó là những cách nguyện ước
rất tự nhiên bình thường. Nguyện cầu thành Phật là ước nguyện lớn lao,
nhưng tánh giác là cái sẵn có của mình, chỉ vì quên mà mình không dám
nhận, thành ra nói mong cầu cũng chỉ là một cách nói. Song nếu chỉ mong
cầu thôi, e khó thành tựu. Chúng ta phải thực hành những chí nguyện của
mình cho đến ngày viên mãn.
1. Thệ Nguyện Độ Tất Cả Chúng Sanh.
Tất cả những
bức xúc, phiền não, khi đối duyên xúc cảnh là chúng sanh trong tâm ta.
Những chướng duyên, thuận duyên, mọi hiện tượng chung quanh chúng ta là
chúng sanh ngoài tâm. Tất cả đều cần phải được độ hết. Bởi vì chúng sanh
bên trong hay bên ngoài cũng đều là chúng sanh của tâm. Ở đây tạm chia
trong ngoài để tiện nói về phương tiện tu hành.
Chẳng hạn đối
với chúng sanh trong tâm, những thứ làm ta dễ chịu thích thú, ta thường có
khuynh hướng nuôi dưỡng hơn là loại trừ chúng đi. Đối với chúng sanh ngoài
tâm, những cảnh thuận ta giữ lại, cảnh nghịch ta xua đuổi. Người tu thiền
không nên có thái độ như thế. Dù thuận hay nghịch đều phải lập chí quyết
độ cho bằng được.
Với chúng sanh
ngoài tâm, thuận thì gắng độ theo duyên thuận. Nghịch thì gắng độ theo
duyên nghịch. Độ đến khi nào chúng ta bình thản, không thấy có vấn đề dễ
hay khó nữa mới là thật độ hết chúng sanh. Có thế, mới xứng với lời nguyện
của Phật, của Bồ-tát.
Một khi đã
hiểu như vậy, ta không còn ngán phiền não nữa, vì đó là đối tượng để chúng
ta tu. Nhiều duyên phiền não chừng nào ta nên vui chừng nấy mới phải. Có
duyên phiền não ta mới biết việc tu hành của mình thăng tiến hay không.
Mọi thứ chung quanh lặng yên, thì mình chìm trong đó nên sẽ không biết
mình ra sao. Có nhiều sóng gió, phong ba bão táp mới biết tài chèo chống
của thuyền trưởng. Biển lặng sóng yên thuyền bo bo chạy, ai lái chẳng
được. Chỉ những lúc trời long đất lở, việc nọ việc kia tối mặt tối mày, mà
mình vẫn an nhiên bình thản mới đích thực là thiền tử, là con Phật. Cho
nên cần lập nguyện độ tận chúng sanh.
Thệ nguyện độ
tất cả chúng sanh ở đây, trước nhất là tiêu dung được tất cả những bực
bội, phiền não, dấy niệm loạn tưởng của chính mình. Trị được, buông được
những thứ này tức là chúng ta độ chúng sanh trong tâm. Những thứ đó nếu
không trị, chúng sẽ là giặc ngăn chướng đường tu của chúng ta. Trở ngại
bên ngoài cũng đều phát xuất từ đây. Biết rồi ta phải trị thẳng ngay nó.
Cho nên Thiền sư Nam Tuyền nói “tâm bình thế giới bình”.
Tâm chỉ bình
khi nào ta trị được những điên loạn của chính mình. Phật dạy “Chiến thắng
trăm ngàn quân địch chưa gọi là hiển hách, chiến thắng được mình mới là
chiến công oanh liệt nhất”. Chiến thắng ở đây là sự bình thản, tiêu dung,
giải thoát những dấy niệm, những vọng tưởng lăng xăng của chính mình.
Trong những sinh hoạt bình thường, như lúc ăn cơm, uống nước ngủ nghỉ…
nhiều khi mình chiến thắng không nổi. Một hớp nước hay một ngụm cơm nuốt
không trôi, trong bụng bực bội là chưa tự chiến thắng được. Việc làm này
là đại hạnh của Bồ-tát, chẳng phải chuyện thường tình.
Những việc bên
ngoài chỉ hỗ trợ, nhắm thẳng bên trong mới là điều quan trọng. Các Thiền
sư nói “Tu mà không tu”, nghĩa là không có người tu và pháp để tu.
Chẳng hạn mình
đang nổi giận đến tức nghẹn. Lúc ấy phải tụng kinh gì ? Tụng Bát Nhã cũng
không xong. Tốt nhất khi đó ta nhìn thẳng vào cái giận xem nó diễn tiến ra
sao, tự nhiên nó sẽ lui tan ngay. Chừng đó chúng ta mau chóng lấy lại sự
bình tĩnh và chiến thắng được mình. Đó là cách thể hiện cốt lõi của người
có công phu.
Thệ độ tất cả
chúng sanh, gần nhất là độ tất cả vọng tưởng của mình vào Niết-bàn. Giải
quyết được chỗ này rồi thì đời sống chúng ta rất bình thản, an nhiên. Dù
bất cứ chuyện phiền phức gì xảy ra, nhưng một khi trong lòng chúng ta yên
thì mọi thứ đều bình ổn. Trong kinh Lăng Nghiêm, Phật dạy vọng tưởng chỉ
là bóng dáng của tiền trần. Yếu chỉ tu hành ở đây chính là độ hết các loại
chúng sanh vọng tưởng này. Bao giờ chúng ta nhận rõ vọng tưởng là những
bóng dáng của tiền trần, hư giả không thật thì mới siêu độ được chúng.
Ngược lại chúng ta vẫn thấy chúng thật, là thân thuộc của mình thì khó
lắm. Cứ nghiệm mà xem, nếu chúng là thật thì dù trời đất bao la, không
gian mênh mông cũng không thể chứa hết nổi. Chúng đầy ắp bên ngoài, đầy ắp
bên trong, rồi thì ăn không được ngủ không yên. Chỉ khi nào ta thấy chúng
không thật, thì mới hóa giải được chúng. Như vậy, lời nguyện thứ nhất của
chúng ta là thệ độ tất cả chúng sanh. Tức là trị được tất cả những dấy
niệm của mình. Sau đó, ta mới mở rộng hoặc tạo duyên hỗ trợ mọi người
chung quanh. Chỉ cần buông được các dấy niệm là ta đã tạo dựng được thế
giới bình yên, nhân sinh an lạc. Đó là năng lực do tâm thể thanh tịnh phát
sinh vậy. Như kinh nói, thế giới Cực Lạc hoàn toàn không có tiếng khổ,
nói gì đến khổ cảnh, khổ hình. Người ở đó là các bậc thượng thiện nhân,
hóa sanh từ hoa sen, không có tâm tưởng điên đảo, vọng động. Ở đấy gió
thổi, chim kêu đều là Phật pháp.
Thế giới chúng
ta chưa được vậy, đường gồ ghề nên cần phải đắp bằng, trồng thêm hoa cảnh
để che lấp chỗ gai gốc. Như Thiền viện đây, cây cối sắp xếp theo một trật
tự nhất định thì đẹp, thì hay nhưng chỉ là đồ giả. Nhưng nếu không tỉnh,
không khéo thì đồ giả lại biến thành thật. Không tin quý vị thử bứng vài
cây cảnh xem, sẽ thấy sự bực bội của các thiền tăng. Vì cây của mình, chùa
của mình! Thiên nhiên không phải vậy. Thiên nhiên bình thản, bình thường.
Cây lớn mọc cũng được, cỏ gai mọc cũng được. Thiên nhiên hồn nhiên không
vướng bận. Ta đốn cây, cây không nói gì. Đụng nó, bứng nó, nó cũng chẳng
kêu la. Nếu chúng ta được bình thản như cây rừng, hồn nhiên như cỏ nội,
thì không cần hạn cuộc vào chuyện ngồi thiền.
2. Thệ Nguyện Trừ Sạch Tận Gốc Mọi Tâm Niệm Xấu Aùc Của Chính Mình.
Lời nguyện
thứ hai là trừ sạch tận gốc mọi hành vi, mọi tâm niệm xấu ác của chính
mình. Tại sao việc này lại đặt thành lời nguyện ? Vì có khi ta làm được
những việc lớn lao bên ngoài, nhưng đối với những việc bình thường thì ta
quên. Như ta dễ dàng nhận thấy vết nhơ trên mặt người, nhưng lại không
thấy vết nhơ trên mặt mình. Lời nguyện thứ hai chính là quay lại nhìn vào
mình, từ đó chúng ta mới có thể thấy được mặt thật của chính mình.
Nhìn lại như
thế nào ? Nhìn lại để thấy những cù cặn, những nghiệp tập của mình. Với
bất cứ sự việc gì, mỗi khi đối diện chúng ta thấy trong lòng khó chịu hay
rúng động thì coi chừng, không bình thường rồi ! Phải phát hiện ngay từ
gốc, tức trong tâm. Vì bên trong có sẵn tập nghiệp, sẵn gai gốc nên khi
bên ngoài đủ điều kiện thì nó liền tương ứng phát khởi. Đó là do con khỉ
của mình chưa ngủ, chưa nhập định, thành ra khi con khỉ bên ngoài kêu, con
khỉ bên trong liền đáp ứng ngay.
Vì vậy lời
nguyện thứ hai là thệ bỏ những nghiệp tập xấu ác của mình. Niệm nào còn
tăm tối thì chúng ta loại bỏ đi. Không phải mỗi khi nổi giận, mình giận
cho đã rồi mai mới tu. Hay muốn chưởi người nào, thì chưởi cho đã rồi ngồi
thiền mới tu. Tu như vậy trễ lắm. Tu thì phải tu tức khắc, nếu không kịp
thì khi nghiệp đã tạo rồi, quả báo hoàn tự thọ.
Nguyện là xin,
là mong mỏi. Trong nhà thiền mong mỏi không phải là yếu đuối cầu cạnh bên
ngoài, mà là tự khắc tự hứa mình sẽ có năng lực tỉnh giác, để chuyển hóa
nghiệp tập cũ bằng cách buông hết các niệm xấu. Không nghĩ, không nói,
không làm theo vọng tưởng đảo điên là thực hành hạnh nguyện tu đạo giác
ngộ giải thoát. “Niệm dấy, biết không thật, liền buông” là lời dạy thẳng
tắt và ngắn gọn trong nhà thiền. Tuy nhiên nếu không có trí Bát-nhã, thì
không bao giờ ta biết nó không thật. Lời nguyện thứ hai giúp lòng mình
được rỗng rang sáng suốt. Con khỉ ý thức ngủ đi, mặc cho bên ngoài thế
nào, bên trong vẫn yên. Làm được lời nguyện này thì đối với kẻ oán người
thân, tâm thảy đều bình đẳng. Một lòng giúp đỡ khi người cần đến mình, tâm
hoàn toàn không chọn lựa. Đó chính là thực hành hạnh nguyện rộng lớn của
Bồ-tát đạo.
Vua Trần Thánh
Tông, thấy rõ và hiểu rõ được những tâm niệm như vậy, Ngài đã làm bài sám
hối sáu căn hết sức tha thiết, giúp chúng ta quày đầu trở về với con đường
chân sáng. Đó là pháp tu của hàng Đại thừa, hàng Bồ-tát. Là một vị vua,
trăm công ngàn việc mà Ngài đã làm được, sống được như thế. Chúng ta bây
giờ mọi thứ đã được người trước dọn vẽ sẵn, nếu không tu được thì quả là
đáng tiếc, đáng trách. Cố gắng !
3. Thệ Nguyện Học Hỏi Hết Thảy Giáo Lý, Nghề Nghiệp.
Lời nguyện thứ
ba là thệ học hỏi hết thảy giáo lý nghề nghiệp. Lời nguyện này có tánh
cách mở rộng. Sau khi đã thực hiện được hai lời nguyện đầu, chúng ta bước
sang lời nguyện thứ ba, học đạo lý và nghề nghiệp. Đạo lý để tu và nghề
nghiệp để sống.
Vì Bồ-tát
không nhất thiết chỉ là những vị xuất gia, đắp y ôm bát hay ở chùa, mà
hình thức sinh hoạt của các Ngài rất rộng rãi. Có khi các Ngài thị hiện là
người nữ, có khi thị hiện là vua chúa, cũng có khi là quỉ sứ dữ dằn v.v...
Các hình thức này đềù vì lợi ích chúng sanh. Như Bồ-tát Quán Thế Âm, muốn
độ các loài quỷ chúa, quỷ vương, quỷ đói trong cõi ngạ quỷ, Ngài thị hiện
thành Tiêu Diện đại sĩ v.v…
Bồ-tát thị
hiện vào tất cả cõi, độ tất cả chúng sinh. Mà muốn vào tất cả cõi, độ tất
cả chúng sanh thì phải có nhiều lớp áo, nhiều phương tiện. Nếu không đủ
phương tiện thì việc độ sanh trở thành hạn hẹp.
Ví dụ có Phật
tử nước ngoài đến thiền viện, họ không biết nói tiếng Việt, chư tăng cũng
không biết nói tiếng của họ. Thế là không ai hiểu ai, thành ra mình không
thể giải thích hay nói Phật pháp gì với họ. Vậy thì làm sao hướng dẫn họ
tu được. Do thấy sự hạn hẹp đó, mà chúng ta noi theo gương hạnh của
Bồ-tát, nguyện học hiểu các phương tiện, thị hiện trong các tầng lớp, các
cảnh đời để vì lợi ích chúng sanh. Cho nên muốn thành tựu được các Phật
sự, cần phải có phương tiện rộng rãi.
Lời nguyện thứ
ba này nhằm để dễ dàng hàng phục, gần gũi giáo hóa chúng sanh. Tâm hạnh
của Bồ-tát là tự giác, giác tha. Đây là việc chính. Tự mình giác ngộ nhưng
còn vô số chúng sanh chưa giác ngộ. Cũng như mình là người hết khổ, đủ cơm
ăn áo mặc, nhưng kẻ khác còn đói nghèo thì chúng ta không thể ngồi yên
được. Với tâm hạnh của Bồ-tát, không thể an hưởng một mình, mà còn phải
nghĩ đến vô lượng chúng sanh đang khổ đau. Vì vậy các Ngài nguyện khoác
nhiều lớp áo, vào trong tất cả cảnh giới, làm tất cả công việc, mang lại
lợi ích cho muôn loài.
Chúng ta còn
nhớ lời nguyện của Bồ-tát Địa Tạng. Ngài nguyện đi vào địa ngục, gần gũi
với các chúng sanh trong đó để an ủi, động viên họ. Giúp họ nhận được
rằng, họ có khả năng chuyển hóa những khổ đau mà họ đang phải gánh chịu,
họ có khả năng đi trên con đường bình an giải thoát. Đó cũng là lời nguyện
của vô lượng các vị đại Bồ-tát, thị hiện khắp nơi như Bồ-tát Di Lặc,
Bồ-tát Văn Thù, Phổ Hiền…
Chúng ta cũng
thị hiện, nhưng thị hiện trong sáu nẻo luân hồi vì bị nghiệp dẫn. Bị
nghiệp dẫn nên thân khẩu ý của ta không thanh tịnh. Đó là vì hạnh nguyện
đời trước không trang nghiêm. Nếu đời này cứ tiếp tục như thế thì hôm nào
quơ tay múa chân, nhắm mắt tắt thở, theo nghiệp trôi dạt không biết ra
sao. Vòng nhân quả luân hồi nhiều vô kể. Nếu chúng ta không lo tu tập,
không chuẩn bị cho mình, thì tương lai mịt mờ tăm tối. Quí vị cũng biết,
lúc nhắm mắt xuôi tay tâm niệm hỗn loạn là chúng ta dễ lọt vào những cảnh
giới không tốt. Vậy muốn bình thản vui vẻ lúc ra đi thì ngay bây giờ,
chúng ta phải tu tập. Có vậy mới mong hướng đi của mình được thăng hoa,
được tự tại.
Tóm lại, lời
nguyện thứ ba này là lời nguyện đầy đủ tinh thần hàng phục các duyên, đầy
đủ phương tiện để lợi mình lợi người, đầy đủ lực thông cảm để khuyến hóa
những chúng sanh đã tin và chưa tin.
4. Thệ Nguyện Thành Phật.
Lời nguyện thứ
tư là nguyện thành Phật. Chúng ta tu hành nguyện thành Phật chứ không
nguyện thành gì khác. Đây là nguyện rốt sau của người tu. Khi phải cẩn
thận, nếu không sẽ bị bọn ma lừa gạt. Bởi vì những giả cảnh hiện ra như
Phật, Bồ-tát cũng từ chính công phu của mình mà ra. Nếu lầm nhận thì chúng
ta sẽ bị những giả cảnh này rước trước. Cho nên nguyện thành Phật, nhưng
phải tỉnh giác, đừng để các ảo tưởng dẫn dắt.
Nghiệm lại đời
sống hiện tại, chúng ta rất dễ bị ảo tưởng mê hoặc. Vì vậy nguyện lực phải
đi đôi với trí tuệ, với công phu thiền định. Mục đích tu học của chúng ta
là làm sao tập trung vào việc lợi ích cho tất cả chúng sanh. Người thực
hiện được lời nguyện này là người làm chủ được nhân quả, không lầm đối với
tất cả cảnh duyên, tự tại trước mọi hoàn cảnh. Sở dĩ chúng ta sợ sệt cầu
cứu là vì chúng ta không làm chủ được nhân quả. Nếu miệng cứ nguyện không
vào những nơi khổ đau, nhưng thân ý cứ gây nhân khổ đau thì nguyện cũng vô
ích. Khổ đau này là quả của các nhân mình đã gây tạo. Chính nhân này trói
buộc khiến mình không thoát khỏi khổ đau. Thành ra tốt nhất là đừng gây
nhân, để khỏi phải sợ sệt cầu cứu van xin ai.
Lời nguyện này
tập trung vào năng lực thành Phật, hoàn toàn giác ngộ giải thoát. Muốn
thế, chúng ta phải biết bỏ cái giả và nhận cái thật là tánh giác của mình.
Từ đó làm tất cả Phật sự đều từ tánh giác.
Chư Tổ dạy
cuộc đời giả, cảnh duyên giả, con người giả. Quan hệ cha mẹ anh em thầy
bạn chẳng qua cũng chỉ là giả tạm. Có rồi cũng thành không, bởi hữu hình
thì hữu hoại. Cái gì ràng buộc chúng ta ? Người sáng chỉ khéo sử dụng thân
này, cảnh này để tu hành cho được kết quả viên mãn.
Trong công phu
hằng ngày, ngài Đại Huệ dạy: “Nghịch cảnh phá dễ, mà thuận cảnh thì phá
khó. Nghịch cảnh chỉ cần tốn một chữ nhẫn, định tỉnh giây lát liền mất.
Thuận cảnh không có chỗ cho ta lẩn tránh, như nam châm gặp sắt, hai thứ
hợp nhau tự nhiên làm thành một chỗ”. Nghĩa là gặp cảnh nghịch, chúng ta
chỉ cần nhẫn một chút thì qua được. Ai trong chúng ta cũng sợ nghịch cảnh.
Nhưng thật ra nghịch cảnh không phải là điều đáng sợ. Vì nó không thuận
lòng thuận ý mình, nên mình không có tâm nắm giữ. Chỉ cần nhẫn là qua.
Ngược lại, gặp
cảnh thuận thì ta không có chỗ nào để phá. Làm sao phá được ? Như bảo mình
đánh một người mình thương, làm sao đành lòng đánh ? Trong kinh Phật dạy,
các vị tu nhập Bồ-tát địa, đến địa thứ tám là Bất động địa thì định tuệ
tròn đầy. Khi này được Báo thân Phật khuyến hóa khởi đại từ bi, vào trong
tất cả cảnh giới sai biệt, tu tập tất cả Phật đạo, để thành tựu Phật vị.
Các vị A La Hán nhập vô sanh vị rồi, cũng được khuyến hóa nhập Bồ-tát đạo
để thành Phật không nên an trụ trong hóa thành. Hóa thành là một thuận
cảnh gây trở ngại cho việc thành tựu quả Phật.
Thời đức Phật
còn tại thế, sau ngày mãn hạ, các thầy Tỳ-kheo từ những trú xứ khác trở về
tinh xá Kỳ Hoàn đảnh lễ đức Thế Tôn cầu chỉ giáo. Trên đường về, các vị
thấy một người đang bị xiềng xích gông cùm. Khi gặp Phật, các thầy kể lại
sự việc trên và thưa hỏi: “Bạch đức Thế tôn ! Trên đời này có sợi giây nào
cứng chắc hơn thứ xiềng xích đó không ?”. Đức Phật đáp: “Sợi dây ái luyến
còn cứng chắc hơn nhiều lần sợi dây xiềng xích ấy nữa”. Rồi đức Phật kể
câu chuyện sau.
Có một Phật tử
hiếu hạïnh, khi mẹ già mất ông xin người bạn đời cho ông đi tu để báo
hiếu. Người vợ bảo: “Tôi đang có thai, thôi thì ráng đợi đến khi sinh nở
xong, thấy được mặt con rồi hãy đi”. Nghe hợp lý ông cũng ráng. Khi sanh
rồi, người vợ lại bảo “Thôi, đợi con dứt sữa, tôi có thể làm được các
việc, rồi đi hãy còn kịp”. Ông nghe cũng hợp tình, thành xuôi theo lần
nữa. Nhưng khi đứa con vừa dứt sữa thì vợ lại có thai, rồi… bổn cũ soạn
lại. Cuối cùng ông phải bỏ qua những lời tỉ tê, dứt khoát đến gặp Phật và
nỗ lực tu hành đắc quả.
Sau khi đắc
quả, ông tuyên bố: “Ta đã gan dạ bẻ gãy gông cùm bền chắc nhất. Đó là gông
cùm dục nhiễm. Ta đã chặt đứt sợi dây ràng buộc chắc chắn nhất, đó là lòng
luyến ái vợ con”. Dây làm bằng sắt, bằng gai hay bằng gỗ chưa phải là bền
chắc. Sợi dây bền chắc chính là sợi dây ái luyến ràng buộc vợ con.
Quí vị thấy,
thuận cảnh êm ấm sẽ ràng buộc như vậy, cứ mắt xích này nối tiếp mắt xích
kia vô kể, không khi nào dứt hết. Nghiệm lại lòng mình, ai cũng còn sợi
dây ái luyến này. Gông cùm xiềng xích chỉ là hình thức cạn cợt bên ngoài.
Sợi dây luyến ái mới là thứ vô hình trói buộc ngàn đời, khó mà nhúc nhích
cục cựa. Không hẳn ai cũng ái luyến vợ con, nhưng sợi dây luyến ái gia là
tiêu biểu nhất. Rồi còn vàng bạc, địa vị, rất nhiều thứ... Người tu chúng
ta phải cắt cho được sợi dây này, phải tự gỡ tự tháo, không ai làm dùm cho
mình. Khi nào tháo gỡ được thì mới nói đến chuyện tự do tự tại.
Song nghịch
cảnh hay thuận cảnh gì cũng đều không thật. Làm chủ được nghịch cảnh thuận
cảnh thì chúng ta sẽ an lạc. Đây là chỗ nhắm của người tu thiền, là chỗ
chúng ta dụng công phu. Chỉ cần tỉnh giác, việc gì cũng xong.
Tóm lại, trong
bài trang nghiêm hạnh nguyện hôm nay, tôi nêu lên bốn điều cần thiết giúp
người tu chúng ta đi từ địa vị phàm phu đến địa vị Phật. Đường tu hành
gian nan, Phật đạo khó thành, nếu không có hạnh nguyện thì khó mà vượt
qua. Là người con Phật, tu theo hạnh Bồ-tát hạnh Phật, chúng ta cố gắng
chí thành phát nguyện và trang nghiêm hạnh nguyện của mình. Được vậy mới
mong thành tựu được đạo nghiệp giác ngộ giải thoát.
] |