KHÔNG TÌM CẦU BÊN NGOÀI
Buổi sinh hoạt hôm nay chúng ta sẽ nói về vấn đề tu tâm, tức là tinh thần
tu mà không tìm cầu bên ngoài. Đây là mục đích của thiền viện, làm sao để
người tu bớt lăng xăng, không bị cảnh duyên bên ngoài lôi kéo và
nhận lại được cái chân thật quí báu của mình.
Nói đến tinh
thần tu tâm hay tinh thần không tìm cầu bên ngoài, Lục Tổ dạy:
Nếu người thật
chân tu, không thấy lỗi thế gian. Nếu thấy người khác sai, lỗi mình đã đến
bên. Người quấy ta đừng quấy, ta quấy tự có lỗi, chỉ bỏ tâm tà quấy, thì
phá trừ phiền não.
Tuy Phật pháp
có nhiều pháp môn, nhiều phương thức để người tu áp dụng, nhưng chủ yếu
đều là phá trừ phiền não. An lạc bình an là điều mà ai cũng hằng mong mỏi
khi dâng hương, lễ phật, tụng kinh... Song khi đã tu thiền tức biết tu tâm
thì chúng ta đều hiểu, an lạc hay không an lạc là tự do mình. tự mình mà
có, tự mình mà không, không thể cầu nguyện bên ngoài. Nên rồi, dù có
nguyện cầu bao nhiêu mà chúng ta cứ gây ra những cái nhân không an lạc,
thì không thể nào tìm thấy sự an lạc.
Vì vậy Tổ nói,
người tu chân chánh là người đừng nhìn lỗi thế gian mà phải biết nhìn lại
mình, xem mình còn những tật xấu nào, còn những sơ xuất gì thì cố gắng
khắc phục sửa chửa. Bỏ được những thứ này tức là phá trừ phiền não.
Nếu thấy người
khác sai, tức là ta đã hướng ra ngoài phê phán. Trong khi Phật nói những
gì bên ngoài là không thật. Mình thấy cái không thật mà lại vận dụng vọng
tưởng của mình để lý giải, để kết luận về những cái không thật đó, thì
càng lý giải càng phân tích mình càng ngược xuôi điên đảo. Tu như vậy thì
càng tu, tâm mình càng bất an phiền não. Vì vậy Tổ nói, lỗi mình đã đến
bên.
Thành ra dù
cho hằng đêm chúng ta siêng năng nguyện cầu bao nhiêu mà nguyên tắc gốc
này không nắm vững, cứ lao ra, thì không có Phật thánh nào hộ trì cho mình
được. Chỉ khi nào chúng ta không chạy ra bên ngoài, chịu quay về sửa trị
những tật xấu của mình để không bị động bởi cảnh duyên bên ngoài thì chúng
ta mới thật sự được an lạc bình an.
Với cách tu
như vậy thì ai tu cũng được. Chỉ cần chúng ta chịu sắp đặt ổn định các
sinh hoạt hàng ngày của mình. Làm việc gì cũng cố gắng kiểm điểm xem trong
khi làm mình có dấy khởi thêm gì không? Mình có lý giải phân tích gì trên
những việc làm đó không? Nếu có thì buông đi! Ngoài ra những việc nào
chúng ta phải xử lý thì cố gắng sắp đặt trôi tròn, còn không thì nên giảm
thiểu. Vì lắm việc thì lắm phiền. Phiền này tự mình bày ra thì phải tự
mình bỏ. Tu tâm là tu như vậy. Mọi thứ đều tự nơi chúng ta, mỗi niệm tự
thấy bản tánh, tự tu, tự hành, tự thành Phật đạo.
Giờ tôi nói
đến chữ nghiệp. Nghiệp là một năng lực được hình thành từ những thói quen
của mình. Quen nói như vậy, quen làm như vậy và quen nghĩ như vậy. Nói đến
nghiệp là nói đến một năng lực, một sức mạnh được kết tụ từ những hành
động trong sinh hoạt đời thường của mình. Chính năng lực này là cái dẫn
dắt đưa đẩy chúng ta đi thọ quả, đi tạo nghiệp, không những ngay bây giờ
mà còn dài lâu về sau.
Xưa ngài
Mahanam là một cư sĩ, đến hỏi Phật rằng : Bạch Thế Tôn, bình thường con
giữ năm giới, thọ bát quan trai, tu thập thiện. Giả như con chết bất ngờ
vì tai nạn, sau khi chết con sẽ đi về đâu?
Đức Phật trả
lời: Có một cây mọc từ đất lên, thân và cành nghiêng về một bên, vậy khi
cưa, thân ngã về bên nào?
Mahanam đáp:
Cây sẽ ngã về bên nó đang nghiêng.
Phật dạy tiếp:
Cũng vậy, bình thường ông hay làm điều lành, khi chết tuy bị khủng hoảng,
nhưng nghiệp thiện tích lũy nhiều sẽ hướng ông đến chỗ lành.
Chúng ta phải
làm sao duy trì sự tu hành của mình được liên tục. Nó phải được tích lũy
để có thể chiến thắng và giải quyết được cận tử nghiệp của mình. Cận tử
nghiệp là nghiệp ngay khi mình bỏ thân này. Nó quyết định việc thọ thân
sau của mình. Giả như chúng ta là những người biết tu phước biết làm lành,
nhưng do một bức xúc nào đó mà gây tạo một cái nhân không tốt, trúng vào
khoảng thời gian giải tỏa thân tứ đại này, thì chúng ta sẽ bị đầu thai
vào những cảnh giới không tốt.
Hoặc nếu chúng
ta là những người không có sức chịu đựng giỏi, là người còn chấp thân
nhiều, thì khi sắp chết, những niệm uất hận, phát sinh từ sự đau đớn nuối
tiếc sẽ dấy lên. Đây là những loại niệm đẩy ta vào những đường như ngạ
quỉ, súc sanh và địa ngục. Nói chung, khi chết do một hoàn cảnh nào đó mà
chúng ta bị những loại niệm như sân hận, uất ức, nuối tiếc v.v... chi phối
thì chúng ta phải tái sinh trong ba đường dữ...
Như có một vị
trụ trì tu hành giới luật rất nghiêm trang. Một hôm thầy bị một cơn bịnh
ngặt nghèo, thầy thuốc khuyên phải ăn mặn mới trị khỏi. Giới luật nghiêm
trang mà nghe đến việc ăn mặn thì thầy thà chết còn hơn. Nhưng Phật tử thì
không đành lòng thấy thầy chết như vậy, nên lén làm đồ ăn mặn cho thầy.
Thầy lành bịnh rồi ... Một hôm, thầy trò đang vui vẻ, đệ tử vui miệng nói
thật cho thầy hay. Thầy nghe xong, uất lên mà chết. Chết trong tình trạng
như vậy nên rồi thầy thành ... quỉ. Đêm nào cũng nghe tiếng la hét, lục
lạo đồ đạc trong chùa... từ đó, không còn ai dám đến chùa nữa.
Cận tử nghiệp
quan trọng như vậy, nên chúng ta phải làm sao để chuẩn bị cho nó ngay từ
bây giờ. Những tâm niệm tham lam, sân hận, tật đố, hờn giận, tức tối... là
những cái nhân đẩy ta vào đường xấu thì ta phải lập tức bỏ ngay. Gặp cảnh
sân cố quán chiếu buông bỏ đừng sân, gặp cảnh tham gắng tỉnh táo sáng suốt
đừng tham. Nghĩa là, đừng để chúng trở thành một thói quen, một năng lực
dẫn dắt ta khi ta rời bỏ cõi đời. Thêm vào đó phải gắng tu tạo và tích lũy
thêm nhiều công đức... Như vậy thì tại gia hay xuất gia gì tu cũng được mà
lại vừa chuyển được nghiệp của mình.
Chuyển nghiệp
là điều tất yếu trong đạo Phật, vì nghiệp không phải là cái gì cố định.
Nếu nghiệp không thể chuyển thì chúng sanh không bao giờ tu hành thành
Phật. Tuy nhiên, muốn chuyển được nghiệp thì chúng ta phải siêng năng liên
tục, làm tất cả các việc công đức và làm sao luôn luôn tỉnh táo không gây
thêm nghiệp nhân xấu. Nếu việc làm này được huân tập liên tục thì chúng ta
sẽ chuyển được nghiệp của mình.
Như tô muối
pha trong một bể nước lớn thì vị mặn sẽ loãng nhiều thay vì pha trong một
cốc nước nhỏ. Nước ví như công đức, muối ví như những nghiệp tập xấu xa và
cù cặn của ta. Nghĩa là, nếu công đức tu hành của ta ít ỏi quá mà nghiệp
tập quá nhiều thì nghiệp không thể chuyển được. Còn chúng ta có qui y, học
đạo, tu tập, phát huy được công đức sâu dày thì chúng ta sẽ chuyển được
nghiệp của mình, mà đến phút lâm chung mình cũng được yên ổn. Phải nhớ qui
y xong thì phải thực hành những điều đã qui y chứ không phải có được phái
qui y là mình đã có phép của chư Phật vào được cõi Niết bàn.
Trong phần tu
tâm, chúng ta cũng phải giữ giới luật. Người xuất gia thì có mấy trăm
giới, còn phật tử tại gia thì có năm giới. Nhưng giới luật chung cho cả
phật tử tại gia lẫn xuất gia vẫn là, tự tâm không quấy, tự tâm không xấu
ác, không ganh ghét, không tham sân, không cướp hại... Đây chính là cái
gốc tu hành của người con Phật. Dù tu lâu hay mới tu gì chúng ta cũng phải
gìn giữ, không những không cho những thứ như vậy phát sinh trong đời sống
của mình, mà còn phải kiểm soát được chúng ngay khi chúng dấy khởi trong
tâm.
Điểm kế tiếp
là, đối với tất cả các cảnh duyên thiện ác tốt xấu làm sao giữ chúng ta
vững được tâm chân thật của mình. Giữ được nghĩa là, tin chắc vào nhân
quả. Hiểu rằng, những gì ta phải mang gánh ngày nay là do cái nhân ta đã
gây ra trước đó, ta sẵn sàng lảnh lấy hậu quả vui vẻ chấp nhận trả, không
yếu đuối cầu khẫn van xin, nương dựa vào những thế lực bên ngoài. Tin
rằng, gây nhân tốt, tạo được công đức lành thì quả phúc tốt đẹp sẽ đến với
ta. Hiểu được, tin được như vậy thì chúng ta sẽ bình yên đối với những
cảnh duyên. Hiện tại dù khó khăn bao nhiêu mình cũng chấp nhận, vượt
qua... từ đó định hướng đi cho mình.
Định hướng là
thế này, những mặt nào chúng ta thấy mình còn yếu còn dỡ thì tập trung đầu
tư cho mặt đó. Phần đạo đức gia đình còn yếu thì tập trung vào phần đạo
đức. Phần kinh tế còn yếu thì tập trung vào phần kinh tế ... và nhớ, tập
trung thực hiện dựa trên tinh thần nhân quả. Chẳng hạn, Phật dạy muốn được
quả báo giàu sang thì phải mở lòng ra, cúng dường bố thí cho mọi người.
Định hướng đầu tư của mình phải dựa trên những nguyên tắc như thế, chứ
không phải đi tranh giành, cướp giựt của ai để làm giàu.
Tin và áp dụng
nhân quả vào đời sống như vậy thì cuộc sống sẽ tốt đẹp biết bao! Như vậy
là chúng ta đã gầy dựng được cuộc sống an lạc, bớt đi những tranh chấp,
bức xúc phiền não. Điều này đòi hỏi người tu phải có định lực. Định tức là
lóng lặng, không bị động. Không động thì trí tuệ phát sinh. Có định lực có
trí tuệ, ta mới đủ sức làm chủ các cảnh duyên, không bị chúng kéo lôi. Nói
thiền, nói đạọ, nói cao, nói thấp gì, hữu sự đối duyên trực tiếp mới biết
mình hay hay dỡ. Khó lắm không phải dễ. Không giữ công phu cho được liên
tục thì đối với cảnh thuận nghịch, có khi mình bị cuốn trôi mất hút.
Chúng ta tin
Phật thì có tin, tu hành thì có tu, nhưng nghe đâu có Phật linh, Bồ tát
hiện thì núi cao hiểm hóc bao nhiêu mình cũng gắng đi tới, rồi đụng đâu
lạy nấy, một hòn đá bên đường cũng lạy, một gốc cây bên đường cũng thắp
nhang... điều này nói lên tinh thần yếu đuối của chúng ta. Chúng ta tu mà
không vững niềm tin đối với Tam bảo, không tin nhân quả nên mới nương dựa
vào những thế lực bên ngoài.
Hoặc có vị khi
làm ăn khá giả thì thường về chùa. Mỗi lần về sắm đủ thứ phẩm vật. Nhưng
đến khi tài chánh hơi suy thoái, sinh mặc cảm không đến chùa nữa. Đây là
những chuyện thông thường thôi, nhưng có khi làm trở ngại việc tu hành của
mình. Phải nhớ, đến chùa là để học pháp, để tu. Những gì còn cộm trong tâm
thì phải loại ra, bỏ đi mà phát huy những cái tốt. Đó mới là việc chính,
còn việc cúng dường, có thì tốt không thì thôi, đâu phải là việc bắt buộc.
Nếu vì nó mà trong tâm phát sinh phiền não thì không nên. Chúng ta phải để
ý loại bỏ những thứ như vậy để việc tu hành của mình không bị gián đoạn,
công phu được tăng tiến.
Lục Tổ dạy
tiếp, tự tâm không ngại thường dùng trí tuệ quán chiếu không tạo các ác và
tu tạo các điều lành không vướng mắc, kính trên thương dưới, đùm bọc kẻ cô
bần. Kính trên nhường dưới là đạo đức bình thường cần có của một con
người. Tu tạo các điều lành, đùm bọc kẻ cô bần là những việc xã hội mà
chúng ta vẫn thường làm. Nhưng ở đây Tổ dạy, làm mà không được vướng mắc!
Như ngài Pháp
Đạt đến lễ Tổ, đầu không sát đất.
Tổ quở: Ông
được sự nghiệp gì mà lễ đầu không tới đất?
Ngài đáp: Con
tụng được mấy ngàn bộ Pháp Hoa.
Tổ nói: Ông
tụng Pháp Hoa mà bị Pháp Hoa chuyển, chứ không chuyển được Pháp Hoa.
Tổ dạy chuyển
Pháp Hoa bằng cách, tụng bao nhiêu cũng tốt nhưng phải nhận được yếu chỉ
của kinh. Đó là nhận ra tri kiến Phật của mình. Nó là cái rỗng rang sáng
suốt không tỳ vết, tụng niệm đếm bộ đếm số bên ngoài không nhận ra được.
Không nhận được mà lấy đó làm sở đắc rồi sinh tâm ngã mạn, là đi ngược lại
lời Phật dạy.
Chúng ta cũng
vậy! phải nhớ, làm tất cả việc công đức là để trợ giúp cho việc tu hành
của mình, giúp mình mở tâm, phá trừ phiền não. Vì vậy làm xong thì buông,
không nên chất chứa trong tâm để rồi phiền não phát sinh.
Trong đời sống
xã hội với những quan hệ tiếp cận ... những gì chúng ta phải đối diện thì
cố gắng trôi tròn mà không để mất mình. Người tu là người phải an nhiên
bình thản với tất cả những cảnh duyên. Nhiều khi những việc lớn lao thì
mình đề phòng, chuẩn bị tinh thần kỹ càng, nhưng có khi một chuyện rất
bình thường lại làm mình sôi sục tức tối. Giả như giữa đêm đang ngon giấc,
bất thần ở đâu, một cú điện thoại gọi đến hỏi thăm tên tuổi, sức khỏe của
mình rồi nói toàn chuyện đâu đâu... thì có khi mình không làm chủ được,
nổi bực và chưởi bậy.
Thêm một điểm
nữa, tâm không vin theo các duyên, không nghĩ thiện, không nghĩ ác, tự tại
vô ngại. Đây là kết quả của việc tu tâm trong quan hệ tương giao tiếp xúc
hằng ngày của mình. Người biết tu thì bất cứ niệm nào dấy lên, dù niệm
thiện chẳng thiện nữa cũng phải buông. Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, tự
tại vô ngại là năng lực tu hành bắt nguồn từ niềm tin vững chắc và sự tỉnh
giác mạnh mẽ. Đây là chỗ người tu phải đến, còn những việc bên ngoài chỉ
là việc phụ. Phật nói người tu là người phải thấp sáng ngọn tâm đăng, chứ
không phải tu là để giàu có, để cất chùa cho thật đẹp. Nếu tu là để giàu
sang, chùa đẹp thì Phật đã không từ bỏ ngai vàng để thắp sáng ngọn tâm
đăng của mình.
Cuối cùng là,
tự tâm không chìm trong các cảnh duyên thiện ác, nổ lực nghiên cứu Phật
pháp, làm sao cho sự hiểu biết của mình được mở rộng, thông được Phật lý
và làm tất cả những việc lợi ích đối với chúng sanh tùy theo khả năng của
mình. Muốn sự hiểu biết được mở rộng và thông được Phật lý thì ngoài việc
học hiểu Phật pháp, chúng ta còn tu tập và áp dụng Phật pháp vào đời sống.
Nghĩa là thể nghiệm được những gì mình học hiểu trên sách vở qua hành động
hàng ngày.
Chỗ này Phật
chia người tu thành bốn loại. Có người bề ngoài trông tu hành đạo mạo
nhưng bên trong lại không được như vậy. Phật gọi người này là trong sống
ngoài chín. Lại có người trông bên ngoài chẳng có vẻ gì tu hành nhưng bên
trong lại đặt sệt tu hành. Phật gọi người này trong chín ngoài sống...
Như có một vị
xuất gia ở miền quê, trong hoàn cảnh không được hanh thông. Bản thân của
thầy không được học hành, nghiên cứu Phật pháp bao nhiêu. Nhưng thầy có
một túc duyên từ trước, nên khi đến với đạo thầy nắm được cương lĩnh để tu
hành. Do hoàn cảnh, nên ai cúng gì thầy cứ tùy tục mà nhận. Được một thời
gian thì mọi người tỏ ra khi dễ thầy, vì thấy thầy ăn nhiều thứ, chay mặn
gì thầy cũng không từ chối, quanh năm luẩn quẩn đi đám, chẳng hề thấy thầy
học hành hay làm gì khác. Nhưng ai nói gì thì nói, thầy vẫn sống như vậy,
vẫn đi đám, đi cúng nhưng không vì tiền bạc, danh lợi, ăn uống...
Lúc tuổi về
già, một hôm sau lần tụng kinh tại nhà một Phật tử, thầy nói đây là duyên
cuối cùng của thầy, từ lâu thầy ở lẫn trong thế tục, hôm nay hóa duyên của
thầy đã hết. Những gì phải làm thầy đã làm, đã phát huy và hôm nay đã viên
mãn. Nói xong thầy tươi tắn thị tịch.
Từ đời sống của thầy chúng ta rút được ít nhiều kinh nghiệm tu hành cho
mình, dù thầy là thầy đám nhưng không vì tiền bạc, thỉnh thoảng cũng ăn
uống như những người khác nhưng không hề dính mắc. Thầy không có quan hệ
tình cảm nào để đánh mất đi sự tự tại giải thoát. Nên cuối cùng thầy được
tự tại an lạc, ra đi không vướng mắc, không một vấn đề gì. Kết cuộc này
cũng nói lên tinh thần tu hành của thầy, dù là trong cảnh duyên thiện ác
lẫn lộn, thầy cũng không bị chìm đắm.
Cũng như Tuệ
Trung Thượng Sĩ, một thiền sư dưới hình thức là một cư sĩ, khi sắp tịch
thê thiếp hầu hạ tới khóc, ông mở mắt ngồi dậy quở, chuyện đời là như thế,
có gì phải khóc, đừng có làm rộn! Nói xong ông bảo đem nước lại rửa mặt,
dặn dò đôi câu rồi tịch.
Đó là những
hình ảnh độc đáo của thiền Việt nam. Dù là hạng người nào, dưới hình thức
nào, chúng ta cũng có thể tu được, có thể chuẩn bị cho cận tử nghiệp của
mình được chu đáo, nếu chúng ta có quyết tâm và nắm vững được đường lối tu
hành…
] |