HỘI THỨ NHẤT
Mình ngồi thành thị;
Nết dùng sơn lâm.
Muôn nghiệp lặng an nhàn thể tánh;
Nửa ngày rồi tự tại thân tâm.
Tham ái nguồn dừng, chẳng còn nhớ châu
yêu ngọc quý;
Thị phi tiếng lặng, được dầu nghe yến
thốt oanh ngâm.
Chơi nước biếc, ẩn non xanh, nhân gian
có nhiều người đắc ý;
Biết đào hồng, hay liễu lục, thiên hạ
năng mấy chủ tri âm.
Nguyệt bạc vừng xanh, soi mọi chỗ thiền
hà lai láng;
Liễu mềm hoa
tốt, ngất quần sanh tuệ nhật sâm lâm.
Lo hoán cốt, ước phi thăng, đan thần
mới phục;
Nhắm trường sanh, về thượng giới, thuốc
thỏ còn đâm.
Sách Dịch xem chơi, yêu tánh sáng yêu
hơn châu báu;
Kinh nhàn đọc
dấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim.
Chú thích:
- Nết: Nếp.
- Rồi: Rảnh rỗi.
- Dầu: Mặc tình.
- Mấy chủ: Mấy chú.
- Vừng xanh: Vầng xanh, chỉ bầu trời.
- Thiền hà: Sông thiền.
- Sâm lâm: Bủa khắp.
- Dấu: Thích thú. “Đọc dấu” là đọc một
cách thích thú.
- Trọng nữa: Trọng hơn.
GIẢNG:
Hội thứ nhất, Ngài nói tâm trạng của riêng
mình, đồng thời cũng là tâm trạng chung của những vị chuyên tâm tu hành.
Tuy ở đâu, không nhất thiết là thành thị hay thôn quê, rừng núi, bất cứ
hoàn cảnh nào mình cũng phải tu hành, tâm tư cũng trong sạch thuần tịnh.
Người biết tu lúc nào cũng ứng dụng được đạo, không luận ở đạo tràng hay
trên non cao mới tu được. Đó là chân tinh thần tu hành, nhất là tu Thiền.
Đối với vọng
tưởng mà hẹn một thời gian, một cơ hội nào đó mình sẽ điều phục thì xem
như là đầu hàng nó rồi. Ngay bây giờ không trị nó thì nó trị mình, lôi dẫn
mình đi thôi. Mà nó lôi được mình là mạnh hơn mình rồi, càng lôi thì càng
mạnh hơn, làm gì có chuyện mai mốt mình quật được nó, thắng nó. Hơn nữa
chúng ta nên nhớ vô thường không cho phép chúng ta hẹn. Trông ngóng mong
đợi một cái gì ở ngày mai tức là ta tự hủy diệt từng phút giây sống hiện
tại. Cho nên tự mỗi chúng ta ý thức tu hành, ý thức công phu, áp dụng cho
được đạo lý vào đời sống của mình. Và cái thể hiện được đạo lý trong đời
sống hằng ngày của mình chính là sự an nhàn tịnh lạc nơi mỗi chúng ta.
Vua Trần Nhân Tông nói lên tâm trạng của
Ngài là tâm trạng của một người có trách nhiệm lớn, và những thứ vật chất
cám dỗ hay nhiều thứ khác nữa của một bậc đế vương mà chúng ta không có,
nhưng Ngài vẫn tu được. Ngài nuôi dưỡng tâm đạo liên tục để cuối cùng đi
đến giai đoạn xuất gia và thành đạo. Vì thế những gì Ngài ghi lại trong
bài phú này đều là chỗ sống thực, chỗ chiêm nghiệm Phật pháp của Ngài
trong cuộc đời, lúc còn đang ở thế gian cũng như khi sắp về núi. Tuy ở tại
chốn ồn ào nhất mà vẫn hành đạo được, vẫn an vui với đạo.
Ngài nói rằng tuy ở thành thị mà tâm không
vướng danh lợi; sống an nhàn tự tại, toàn bày thể tánh của mình. Nếu chúng
ta không phải là người vững tâm, không có sự cả quyết đối với cuộc đời
mình, đối với việc tu hành của mình, thì rất dễ lêu lổng lơ đễnh qua ngày,
đặc biệt trong giai đoạn hạ thủ công phu. Vì lý do này lý do khác, chúng
ta chểnh mảng để cho các việc tạp nhạp xen vô sinh hoạt tu tập của mình.
Điều này người xưa gọi là một nắng mười mưa. Đó là vì chúng ta yếu, không
đủ sức tỉnh sáng, nên gặp đâu là mắc mứu đó.
Nếu chúng ta có một thái độ dứt khoát, nắm
vững chủ trương đường lối rõ ràng, một bề nhìn thẳng tiến tới thì nhất
định chúng ta sẽ vượt qua tất cả những cái tầm thường của thân tâm này. Vì
chưa có được những phút giây phấn đấu quyết liệt nên chúng ta cứ lang
thang trong vòng trần lao phiền não mãi thôi. Đôi khi tôi thấy mình giống
như lục bình trôi vậy, dòng nước lên thì trôi lề mề lên theo, dòng nước
xuống thì theo dòng nước mà lề mề xuống, nghĩa trôi giạt là như thế.
Ở đây, Tổ nói tuy ở thành thị mà tâm không
vướng danh lợi, sống một cách an nhàn, đó là sống được với tánh giác.
Chúng ta ngày nay cũng học theo Tổ, tuy đang ở giữa cuộc đời này, chung
quanh có vô vàn những sự việc phải tiếp cận, phải đối diện, nếu mình luôn
tỉnh táo sáng suốt thì sẽ được bình ổn, ngược lại không khéo tỉnh sáng thì
bất ổn. Cũng cùng một sự việc, mà người có trí tuệ ứng xử khác, người si
mê ứng xử khác. Người trí tuệ thì sống trong mọi hoàn cảnh đều được an
vui, kẻ si mê dù ở trên đống nhung lụa cũng khổ đau như thường. Khổ đau vì
không thấy đủ, vì tham lam, sân hận, ích kỷ v.v… Trong cuộc sống tương
giao, nếu chúng ta không khéo sẽ dễ xảy ra nhiều vấn đề không vui với
nhau. Những mâu thuẫn ấy dần dần lớn lên, nếu không hóa giải cho tiêu dứt
thì nó sẽ trở thành dòng sông nghịch lưu nhấn chìm chúng ta trong phiền
não khổ đau.
Một vị vua đang ngồi trên ngai với bao
nhiêu việc bề bộn của quốc gia, vậy mà Ngài tu hành được, để lại những
kinh nghiệm cho chúng ta noi theo tu tập. Thật quý giá biết chừng nào! Câu
kế tiếp Ngài nói, tự mình tỉnh táo nề nếp công phu, mỗi ngày qua là mỗi an
nhiên rỗng sáng. Ngài đã sắp đặt được việc tu hành của mình, phát triển
liên tục không để gián đoạn. Dù bận rộn việc nọ việc kia, vất vả cách mấy
Ngài cũng giữ công phu nề nếp. Nề nếp nghĩa là giữ đều đặn, Ngài tu tập
như một người bình thường, chứ không phải xuất cách như các Thiền sư nói
“một nghe ngàn ngộ” hay “một nhảy vào thẳng đất Như Lai”. Nề
nếp là có bài bản liên tục, đều đặn mà đâu ra đó.
Giống như sinh hoạt ở các Thiền viện vậy,
cứ sáng năm giờ nghe một hồi kiểng là xả thiền, sáu giờ nghe một tiếng
bảng là tiểu thực, bảy giờ nghe tiếng kiểng là chấp tác, mười giờ nghe một
hồi kiểng là nghỉ làm việc, mười một giờ nghe tiếng bảng là thụ trai v.v…
cho tới đi học, tụng kinh, tọa thiền, ngủ nghỉ luôn luôn có chuông kiểng
hướng dẫn đều đặn như vậy. Ban ngày thì nghe lệnh báo ban ngày, ban đêm
thì nghe lệnh báo ban đêm, theo một nề nếp. Nề nếp này tuy ta không thấy
nhưng mình làm sai là có người thấy liền. Ví dụ như tối các vị am thất
chung quanh Thiền viện thường hay lắng nghe tiếng hô thiền khoảng bảy giờ
rưỡi, hôm nào tới bảy giờ bốn mươi phút mà không nghe tiếng hô thiền là
người ta biết ngay ông thầy chịu trách nhiệm hô thiền hôm đó đã chểnh mảng
rồi. Bởi vì nhờ nghe hô thiền, nghe tiếng chuông hòa quyện với âm thanh
của một thiền sinh, hô lớn lên những lời nhắc nhở của chư Tổ để mọi hành
giả bước vào giờ tu tập. Chung quanh mọi người nghe rõ ràng như vậy quen
rồi, đã thành thời khóa rồi. Nếu hôm nào mình không hô thiền đúng giờ thì
nhất định người chung quanh sẽ phê phán liền. Đó là vì nề nếp bị đảo lộn.
Cho nên trong công phu rất cần đến một nề nếp đàng hoàng.
So với vua,
với Thái thượng hoàng, chư tăng chúng ta đâu có bận rộn hơn được. Mình
cũng không có gia đình con cái gì hết mà vô nề nếp không được là nghĩa làm
sao? Hồi xưa người ta bận rộn như thế mà còn giữ nề nếp tu hành được, điều
này cho thấy mình không thể viện lý do gì để lơ là chểnh mảng trong công
phu tu tập cả.
Tham ái dừng, niệm lăng xăng yên lắng. Một
khi xả bỏ những thị phi ồn náo rồi thì sẽ được tự tại trong đời sống của
mình. Không phải tự nhiên chúng ta được tự tại, bao nhiêu thứ đắm trước mê
lầm nó hết, mà phải có tu hành. Có tu hành, có áp dụng lời Phật Tổ dạy,
chúng ta thấy những gì không thật bỏ đi, hoặc những gì ta nuôi dưỡng chỉ
càng làm khổ mình thêm thì buông hết. Nhờ lời Phật dạy, nhờ các bậc đi
trước đã thể nghiệm chỉ lại cho chúng ta, từ đó mình cũng đi vào thể
nghiệm mới thấy lâu nay mình mê lầm. Tỉnh ra rồi ta mới buông được, buông
được mới an được. Ví như chúng ta không biết vàng là gì, khi ra chợ người
ta đưa vàng giả vàng thật chi cũng thích hết. Bởi cái nào mình thấy cũng
lóng lánh mà. Có khi đồ giả còn đẹp, còn mỹ miều hơn đồ thật nữa. Do đó
mới có chuyện bị lầm. Khi có người chỉ dẫn, hay ra mình lầm rồi, tự nhiên
không bảo ta cũng bỏ miếng vàng giả ngay.
Khi công phu tới một trình độ nhất định
nào đó, trí tuệ mỗi ngày mỗi sáng, chúng ta thấy được thực chất của các
vấn đề. Từ đó sự thể nghiệm của mình mới đi vào chiều sâu, niềm an vui
giải thoát cũng theo đó mà sâu lắng hơn. Chừng ấy mới thấy công phu tu tập
hằng ngày mang tính quyết định cho mình, chớ không phải ai khác”. Khi các
niệm lăng xăng lặng xuống hết, ta sống yên ổn rồi, bấy giờ nghe ai nói cái
gì, phê phán chi chi mình vẫn cứ thản nhiên thôi. Ai có chê cười ông tăng
quê ta cũng chẳng nao núng. Làm ruộng cũng là làm ruộng cho mình, trồng
rau làm rẫy cũng là trồng rau làm rẫy cho mình, ngồi thiền tụng kinh cũng
là ngồi thiền tụng kinh cho mình v.v… không có cái khác xen vô. Bao giờ
chúng ta ý thức một cách rõ ràng, quán triệt như vậy mới yên.
Có người hỏi: “Muốn dừng được những niệm
tham chấp của mình thì phải làm sao?” Đây là một câu hỏi khó trả lời bằng
miệng, mà cần phải trả lời bằng chính sự thực hành của mình mới được. Các
huynh đệ nghiệm lại lòng mình xem, quả thực những niệm tham chấp trong ta
vẫn còn nhiều lắm phải không? Còn tham lam, còn sân hận là còn ngô ngã.
Nếu ngô ngã sạch thì không nổi bực gì hết, không ham muốn gì hết, rõ ràng
như vậy. Cho nên muốn dứt tham chấp thì phải dứt ngã trước cái đã. Nghe
khen mình phừng phừng phấn chí, bị chê mặt dàu dàu sầu não v.v… đó là hiện
tượng ma mị của ngô ngã. Người sống được tự tại là người làm chủ tất cả
những thứ đó.
Thiền sư Bạch Ẩn khi bị người ta đem con
đến thảy vào lòng, vu khống cho Ngài đến thế mà Ngài cũng “Thế à!”. Sau đó
họ chịu không nổi, tới phân trần xin mang con về, Ngài cũng “Thế à!”. Đó
là người thật sự đã có công phu. Chúng ta ngày nay còn vướng mắc nhiều
lắm, nhất là bệnh ngô ngã rất nặng nề. Bệnh này làm khổ đương sự đành rồi,
mà còn làm khổ huynh đệ chung quanh nữa. Do vậy chúng ta cố gắng tu hành
làm sao cho hết mê lầm, mạnh dạn dẹp tan bản ngã mới mong yên vui được.
Tham ái nguồn dừng là những thứ lăng xăng
thị phi dứt, từ đó cái thấy cái nghe của mình không còn lầm nữa. Sở dĩ
thấy nghe lầm là vì tham ái vọng động dẫn, chúng ta chạy theo những thứ ấy
và lầm nhận nó là mình. Còn thấy nghe tự tại, không bị vô minh ngoại cảnh
cuốn trôi thì thấy là thấy, nghe là nghe. Cái hay thấy hay nghe ấy chính
là tánh giác sáng suốt của mình, nó vốn bất sanh bất diệt. Đó là cái thấy
cái nghe của người có công phu và sống đạo. Chúng ta bây giờ cũng thấy
nghe mà xa cách trời vực với tánh giác. Con người khổ sở là vì cái bệnh
thấy nghe tầm bậy này đây. Như người thích nghe âm nhạc, giỏi phân biệt âm
thanh thì khi nghe một bản nhạc trổi lên là họ chạy theo cho tới quên hết
mọi thứ chung quanh và quên ngay cả chính mình luôn. Một khi chủng tử này
đã huân sâu thì gặp duyên thích hợp nó sẽ trổi dậy. Đó chính là nguyên
nhân để dẫn chúng ta đi mãi trong luân hồi sanh tử.
Những lúc chúng ta thiếu tỉnh giác, hoặc
khi ngủ mê, chết giấc các chủng tử nghiệp ấy phát ra. Cho nên có những
người ban ngày nói chuyện với ai, tối ngủ họ kể lại hết trơn hết trọi. Nói
lén, nói thầm gì đều khai ra đầy đủ. Rồi đến lúc sắp chết, cận tử nghiệp
hoành hành thì bao nhiêu là thứ hiện ra. Các thứ niệm lự cù cặn phát ra,
nó điều động và dẫn mình đi vào một quá trình sanh tử mới. Nói lên những
điều này để huynh đệ chúng ta phấn đấu tu hành, không nên dễ duôi qua
ngày. Con đường phía trước đều do mình định đoạt, khổ hay vui đều do chúng
ta hết, không ai khác vào đó thay thế được. Tóm lại, khi công phu đã ổn
thì những thứ ồn ào chung quanh sẽ lắng yên và mình không còn lầm bởi
những thứ bên ngoài nữa. Thấy nghe rõ ràng mà vẫn lặng yên không bị dao
động bởi sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Trong ngũ uẩn, ngoại trừ sắc uẩn ra, bốn
thứ còn lại là thọ, tưởng, hành, thức thường đem đến cho chúng ta những ảo
giác không thật. Khi ảo giác bừng bừng trổi dậy thì con người cũng bừng
bừng lao theo vô minh để rồi tạo vô số nghiệp. Huynh đệ nhớ đừng để rơi
vào quỹ đạo ấy, khổ lắm. Chúng ta thấy là mình có tu đó mà khi các giác
quan tiếp cận với trần cảnh bên ngoài, ta vẫn còn bị lầm, huống là chạy
theo các ảo giác vọng động thì không biết mình đi tới đâu nữa? Sở dĩ chúng
ta khổ, chúng ta kết nghiệp là do lầm, chớ không có gì hết. Con mắt thấy
không bảo đảm, lỗ tai nghe không chín chắn v.v… tất cả những cái ấy đều do
ngô ngã xen vào. Bây giờ mình phải làm chủ, phải điều động lại.
Cảnh duyên bên ngoài có thuận lẫn nghịch,
khi đối tiếp ai ai cũng thích cảnh thuận, ghét cảnh nghịch. Chính vì tâm
chọn lựa yêu ghét ấy mà có khổ. Ở đây Sơ Tổ Trúc Lâm dạy cho chúng ta
biết, khi tiếp cận với mọi thứ chung quanh, chúng ta phải là người có trí,
đầy đủ bình tĩnh để cả quyết việc tu hành của chính mình, không bị sai
lẫn, không bị lệ thuộc, không bị vấp ngã, không bị sức hút của tất cả
những sự kiện chung quanh cuốn đi. Được vậy thì tâm bình thường an nhiên,
bất động với tất cả các cảnh duyên. Hòa thượng Viện trưởng thường dạy chư
tăng phải “biết vọng”, vừa có một niệm dấy khởi liền biết nó không thật,
không chạy theo. Đó là hoa trí tuệ khai nở, tức trí Bát-nhã thường sáng.
Công phu của chúng ta như thế.
Một khi thấy được lẽ thực của muôn pháp,
thì ta là tri âm của chính mình, là tri âm của tất cả cảnh duyên. Tri âm
là gì? Ví như người ta nói vật này tốt đẹp nhưng với người tu thấy nó biết
là duyên hợp rồi sẽ hư hoại. Bởi thế đủ duyên thì dùng, hết duyên thì
thôi, không đặt vấn đề đẹp xấu, không đặt vấn đề gì với các pháp nên không
ghét không thương, không lấy không bỏ. Đó là tri âm. Bởi vậy Bồ-tát không
nói Bồ-tát, mà những vị thấy được lẽ thật, gọi là tri âm của các pháp. Các
ngài tới đâu, đi đâu, ở đâu cũng an nhàn, không vướng bận chi hết. Chúng
ta bị vướng mắc nhiều thứ, là vì không thể tri âm với các pháp, vì tâm so
sánh lấy bỏ còn nhiều quá. Vì thế các pháp cũng ngán mình, cũng né mình.
Có lần tôi cùng vài huynh đệ đi vào một
nơi bán pháp khí. Tại đó người ta treo đủ loại linh, của Trung Quốc, Đài
Loan, Hồng Kông, Nhật Bản, Việt Nam… Mấy huynh đệ chọn lựa một hồi không
biết nên mua cái nào. Có người bảo cái nào đắt nhất là tốt nhất. Tôi nói
điều này chưa hẳn như vậy đâu, bởi tốt hay xấu gì rồi nó cũng sẽ hoại hết.
Cuối cùng thầy trò chẳng mua được cái nào, đó là vì mình không phải tri âm
của các pháp, nên không thể dùng được cái nào.
Ở đây đối với người tu, cần phải có cái
nhìn thấu đáo, cái nhìn của người thấy được chân lý, thấy được lẽ thật của
tất cả các pháp. Mà các pháp thì cái nào cũng hư hoại, giản dị như thế.
Không có cái nào có thể tồn tại mãi được, thân mình rồi cũng hoại. Trong
một giới hạn nào đó, một điều kiện thuận duyên nào đó chúng ta dùng nó,
khi hết duyên, hết điều kiện thích hợp thì nó tan rã, trở về với thực tánh
của nó. Cho nên người tu đối tiếp cảnh duyên lúc nào cũng sáng, như mặt
trăng trí tuệ trải khắp, mặt trời giác ngộ bao la. Tức là lúc nào cũng
phát huy được trí tuệ, sống được với tánh giác của mình, bao nhiêu ngô ngã
bỉ thử vắng bóng, không còn bất cứ một loại bụi mù nào bu bám cả. Thấy
muôn sự muôn vật bằng trí tuệ Bát-nhã thì thân tâm an ổn. Người không gây
nghiệp luân hồi sanh tử để bị trôi giạt đời kiếp lăng xăng là người hằng
sống với trí tuệ của mình.
Tu thiền là tu
trí tuệ, tu thiền là gầy dựng lại nền móng, phát huy lại Bát-nhã lực của
chính mình. Có trí tuệ Bát-nhã mới cắt đứt được tất cả những ngô ngã,
những lầm chấp, những hơi hướm từ bao nhiêu đời ta đã dẫm chân và bị vướng
mắc trong đó. Chỉ có trí tuệ Bát-nhã mới có thể triệt tiêu tất cả dây mơ
rễ má, những hầm sâu tăm tối của vô minh. Do vậy cho nên pháp thiền là một
pháp không có phương pháp. Tu thiền không đặt vấn đề tu chứng. Người tu
thiền chỉ cần phá vỡ tất cả những hình thức, những sự kiện, những gì không
thật để không còn bị lầm lẫn nữa thôi. Tu thiền là tu trí tuệ, sống lại
với cái chân thật của chính mình.
Ở đây Ngài dạy
không cần hoán cốt bay lên thượng giới, không uống thuốc trường sinh bất
tử, tiên đạo để được sống lâu muôn tuổi, mà gìn một tánh sáng sẵn có nơi
mình. Đối với người tu thiền làm sao cho tâm rỗng rang sáng suốt. Thiền sư
là gì? Là người sáng suốt, tự tại đối với các pháp, không lầm các pháp.
Ngài bảo đọc sách Dịch là đọc chơi thôi, còn lòng của Ngài yêu tánh sáng
tức là yêu đạo, nhận sống được với tâm đạo cho nên càng đọc kinh Phật càng
thích thú, càng phấn khởi, càng nhận ra và hằng sống được với tâm chân
thật của mình. Chúng ta phải nhớ dù sống trong hoàn cảnh nào, người tu
hành cũng một lòng yêu đạo, quý đạo, hằng sống với đạo. Đạo là gì? Là sống
thực, sống tỉnh giác, sống thiền.
Tóm lại, trong hội thứ nhất này Ngài dạy
chúng ta tuy ở giữa phố thị đông người nhưng tâm luôn rỗng rang, không
vướng mắc những cảnh duyên rộn ràng của thành thị. Muốn thế phải sống bằng
trí tuệ. Đó là tinh thần, là nếp sống của người tu. Trong chúng ta không
luận ai, nếu ở chỗ đông đảo phố thị mà tâm được như vậy thì đã sống đạo,
sống thiền rồi, không cần phải tìm đến rừng núi làm chi. Cái làm cho chúng
ta không yên là những niệm lăng xăng, do vọng tưởng dẫn nên ta chạy đông
chạy tây, buông cái này, bắt cái khác nên không lúc nào sáng suốt yên ổn
hết. Đó là tình huống thông thường của người chưa sống được với tánh giác.
Bây giờ chúng ta cố gắng sống cho có nề nếp, giữ lòng rỗng rang, làm sao
những cảnh duyên bên ngoài không làm gì được mình hết.
Tổ dạy chúng ta là người tu thì hãy sống
thế nào để đừng bị thị phi kéo lôi, như vậy là người làm chủ được mình,
làm chủ được các giác quan khi tiếp xúc với trần cảnh bên ngoài. Có làm
chủ như thế mới làm chủ được các cảnh duyên thuận nghịch, mới hết phiền
não. Cảnh thuận thì nhận chìm mình trong cái thuận ý thuận tình, trong cái
luyến ái nên tu không được. Cảnh nghịch thì ta lại bị bức xúc khó chịu nên
cũng tu không được. Như vậy tìm đâu ra sự an ổn? Cho nên nói chúng sanh bị
nhận chìm trong gọng kềm tắng ái hoặc cảnh duyên thuận nghịch. Cuối cùng
dấy khởi vô lượng phiền não, chuốc lấy vô lượng khổ đau. Cho nên người tu
phải làm chủ mình để có thể làm chủ thuận nghịch, mới mong thoát ly sanh
tử. |