HỘI THỨ SÁU
Thật thế!
Hãy xá vô tâm;
Tự nhiên hợp đạo.
Dừng tam nghiệp mới lặng thân tâm;
Đạt một lòng thì thông Tổ giáo.
Nhận văn giải
nghĩa, lạc lài nên Thiền khách bơ vơ;
Chứng lý tri cơ, cứng cát phải nạp tăng
khôn khéo.
Han hữu lậu, han vô lậu, bảo cho hay:
the lọt, duộc thưng;
Hỏi Đại thừa, hỏi Tiểu thừa, thưa thẳng
tắt: lòi tiền, tơ gáo.
Nhận biết làu làu lòng vốn, chẳng ngại
bề thời tiết nhân duyên;
Chùi cho vặc vặc tánh gương, nào có
nhuốm căn trần huyên náo.
Vàng chưa hết
quặng, xá tua chín phen đúc chín phen rèn;
Lộc chẳng còn
tham, miễn được một thì chay một thì cháo.
Sạch giới lòng, chùi giới tướng, nội
ngoại nên Bồ-tát trang nghiêm;
Ngay thờ chúa, thảo thờ cha, đi đỗ mới
trượng phu trung hiếu.
Tham thiền kén
bạn, nát thân mình mới khá hồi ân;
Học đạo
thờ thầy, dọt xương óc chưa thông của báo.
Chú thích:
- Hãy xá: Hãy nên.
- Một lòng: Một tâm.
- Lạc lài: Lạc loài.
- Cứng cát: Cứng cáp.
- Han: Hỏi.
- The lọt: Tấm vải the mỏng, nước có thể
chảy qua. Dụ cho hữu lậu.
- Duộc thưng: gáo
nước. Vô lậu dụ như gáo nước có thể chứa nước không bị đổ ra ngoài.
- Lòi: Sợi dây xâu tiền ngày xưa. Tơ: Sợi
dây thừng để buộc gáo thả xuống giếng múc nước. Lòi tiền, tơ gáo dụ như
phương tiện.
- Xá tua: Hãy nên.
- Vặc vặc: Vằng vặc.
- Miễn được: Cốt được.
- Một thì chay, một thì cháo: Một chén
chay lạt, một chén cháo qua bữa.
- Đi đỗ: Đi đứng.
- Chưa
thông: Chưa xong.
GIẢNG:
Trong hội
thứ sáu này có mấy điểm chúng ta cần hiểu rõ.
Điểm thứ
nhất là muốn học đạo thì hãy nên vô tâm, dừng ba nghiệp thân tâm mới trong
lặng. Đạt một lòng (tức đạt một tâm) thì thông suốt Tổ giáo. Ngược lại chỉ
y cứ trên văn nghĩa mà hiểu là hạng thiền khách lạc loài bơ vơ.
Trước nhất
Tổ muốn nhấn mạnh cái vô tâm. Vô tâm thì không còn vướng mắc bởi những sự
kiện chung quanh. Đây là tinh thần tu hành đặc biệt của người tu thiền.
Hằng ngày tâm chúng ta vướng mắc việc này việc nọ, đó không phải là tâm
thật, chỉ là bóng dáng của trần cảnh. Nếu người tu hành cho đó là tâm thật
của mình, chẳng khác nào kẻ nuôi giặc trong nhà. Hôm nào đó mình đi chợ
uống cà phê, ở nhà nó mở cửa dọn đồ ráo trơn. Về nhà hỏi ra đó là ai?
Chính là người mình thân thương xưa nay nuôi dưỡng trong nhà. Cũng thế tâm
vọng tưởng là giặc mà mình không biết, cứ nuôi dưỡng bảo vệ nó. Cuối cùng
sự nghiệp tan nát vì nó, vướng mắc và khổ đau, bất an bất ổn. Thành ra Tổ
dạy người tu phải dùng con mắt trí tuệ nhìn rõ các cảnh duyên. Làm sao
nhận được, thấy rõ tất cả đều là đồ giả, tạm dùng trong một giai đoạn mà
thôi. Nhiều thứ ta dùng chưa trọn đời thì đã hỏng rồi. Như cái nhà mình
làm khoảng chừng hai ba mươi năm nó đã hư. Đó là nói những thứ tương đối
kiên cố, thời hạn sử dụng khá lâu, còn vô vàn những thứ mong manh sớm còn
tối mất khác nữa.
Trong kinh
Phật dạy tài sản thế gian là của năm nhà chớ không phải của mình. Năm nhà
là của giặc cướp, của vua quan, của nước lụt, của lửa dữ, của con cái phá
sản. Tất cả những gì người đời ham thích ôm giữ, cố chấp tham đắm đều
không thể giữ được. Thành ra người tu nhận được điều đó rồi thì an tâm, từ
an tâm tiến đến vô tâm dễ dàng. Vô tâm thì tự tại với những thứ đó. Tự tại
thế nào? Ví dụ như do phước duyên, ta có thể cất nhà lầu thì cứ cất nhà
lầu mà ở, chớ không phải keo sẻn ôm giữ tiền của không dám đụng đến. Nhưng
mai kia vì nhiều lý do khác nhau hoặc nước lụt hay hỏa hoạn, cái nhà lầu
ấy bị hư hoại, ta biết rõ nó sẽ như thế nên không lo buồn, đau khổ thái
quá. Không ở nhà lầu, ta ở nhà tranh vách đất vẫn an vui, không có nhu cầu
đòi hỏi gì cả. Đó là tự tại. Cho nên ta tùy nghi sử dụng phúc duyên của
mình trong mọi thời, mọi hoàn cảnh, không cố chấp, không bám víu, không cố
thủ bảo vệ những gì không cần thiết.
Trong kinh
Kim Cang, Phật dùng ví dụ dạy chúng ta sử dụng các pháp tu như một phương
tiện để đạt đến mục đích cứu cánh. Ví như người qua sông cần phải có
thuyền bè. Đã qua sông rồi thì thuyền bè hãy vứt đi. Nếu người tiếc rẻ còn
vác thuyền bè trên vai đi, người này không sáng tí nào hết. Nhưng chưa qua
sông mà bỏ thuyền bè, Phật nói người này cũng không sáng suốt luôn. Cho
nên chúng ta cần qua sông thì có thuyền bè, qua sông rồi thuyền bè để lại
cho người khác đi, đừng có mang trên lưng nữa.
Trở lại vấn
đề vô tâm là vấn đề chính yếu của người tu hành. Người muốn được vô tâm
trước tiên phải có trí tuệ. Không có trí tuệ thì không cách gì mà vô tâm
được. Bởi các thứ ngoại duyên bên ngoài có sức hấp dẫn, có sức lôi cuốn lạ
lùng đối với chúng sanh. Mà muốn có trí tuệ thì phải tu. Bây giờ tu làm
sao? Trước nhất, với phương tiện tối thiểu là kinh giáo. Nhờ sự chỉ giáo
của Phật Tổ, của các bậc thầy dạy dỗ chỉ bảo chúng ta tu pháp môn như thế,
đường hướng hành trì như thế, chúng ta phải nỗ lực thực hành, chớ không
phải học suông.
Tuy kinh
giáo không phải thật, đó chỉ là phương tiện nhưng bước đầu tiên chúng ta
phải nương theo những lời dạy ấy mới biết rõ đường lối tu hành. Song yếu
tố quyết định là sự tu tập của mỗi người. Người trước dùng phương tiện đó
để chỉ giáo cho chúng ta, bây giờ chúng ta đủ duyên được nghe, được học,
được hiểu tới nơi tới chốn rồi sau đó phải hành trì. Nếu không hành trì
chúng ta không thể nào thâm nhập được ý kinh, không thể nào thấy rõ được
lợi ích thiết thực và quý báu từ giáo pháp của đức Phật.
Kinh nói
“Hành thâm” nghĩa là thực hành sâu xa, nếu chúng ta không hành làm sao
thâm được? Chỉ học khơi khơi thôi thì ngàn đời cũng không nếm được chút
pháp vị sâu xa vi diệu nào của kinh. Ai hiểu và thâm nhập như vậy, người
đó sẽ là người có tin vui trên đường về quê. Còn nếu chúng ta học khơi
khơi không suy nghiệm, không hành trì, không tu tập thì cứ sống trơ trơ
vậy thôi. Thành thử việc bổn phận của chúng ta hiện nay ngoài học hiểu,
nghiên cứu, còn lại hai phần ba năng lực là tập trung vào công phu, nhà
thiền gọi là hạ thủ công phu.
Hằng ngày đi
đứng nằm ngồi, sáng trưa chiều tối, lúc nào cũng tập trung vào việc đó.
Không ai động địa gì được mình trong lúc ta đi, ta ngồi, ta làm việc. Lúc
nào tâm niệm mình cũng khăng khắng vào chỗ đó. Nếu chúng ta có công phu
rồi, những việc như ăn uống, ngủ nghỉ, tiếp khách, làm việc… bao nhiêu sự
duyên không dính dáng gì tới chúng ta cả. Ví dụ huynh đệ ngồi tại nhà Tròn
một tiếng đồng hồ, người này tới nói cái này, người kia tới nói cái kia,
tất cả những thứ ấy qua đi qua đi, chỉ có đương sự là vẫn tỉnh táo ngồi đó
thấy, nghe đầy đủ rõ ràng, phải không? Lúc đó tâm ta bình thường, an nhiên
sáng suốt, thấy nghe tự tại không bị vướng mắc bởi ai hết, cũng không
vướng rừng cây, âm thanh, ánh sáng, mưa nắng… Ta ngồi đó một cách bình
thường, nghe thấy rõ ràng người đi lại, mọi thứ cứ hiện hữu và trôi chảy
bình thường. Đó là cách sống của người tu thiền. An nhiên, giải thoát.
Trái lại
chúng ta để mất thì giờ trong đời thường, trong các sự duyên thì sẽ mất
mình từ sáng tới trưa, từ trưa tới chiều, từ chiều tới tối. Cứ thế ngày
này sang ngày khác, cuối cùng việc tu hành không dính dáng gì hết, rất
uổng, rất đáng tiếc! Thời gian qua đi, sức khỏe không còn sung mãn như khi
ta còn trẻ, tâm trí cũng muội nhược chậm lụt, việc tu hành chậm tiến hơn
nữa. Qua bốn mươi năm mươi tuổi, sức khỏe suy thoái từng ngày, từng giờ,
dù chúng ta có khéo bồi dưỡng, gìn giữ cơ thể tới đâu, các cơ quan trong
nội tạng cũng phải suy thoái.
Quý vị lớn
tuổi có thể kiểm nghiệm điều này rất rõ ràng. Ngày hôm qua thức ăn đó ta
dùng thấy ngon miệng, bữa nay cũng thức ăn đó có khi làm ngon hơn mà mình
dùng không được. Cái dùng không được này, phần lớn là do sức khỏe cơ thể
không cho phép. Do vậy chúng ta không muốn tóc bạc nhưng nó vẫn cứ bạc,
không muốn chân run nó vẫn cứ run. Nhất là mấy cái răng ta sửa soạn hằng
ngày, chùi rửa cạo gọt, bịt trắng bịt vàng, cuối cùng bể vẫn cứ bể, rơi
vẫn cứ rơi. Làm sao bảo đảm được, nó luôn thay đổi trong từng giai đoạn,
từng sự sống của mình. Trong kinh nói mỗi lần cơ thể có sự thay đổi như
vậy là mỗi lần vua âm phủ gửi thư cho mình. Đó là những bức thư gửi thông
thường, còn có những bức thư vừa tống đạt là cắt đứt liền.
Ở đây Tổ dạy
dừng ba nghiệp thân tâm mới trong lặng, đạt một lòng tức đạt được tâm này
mới thông suốt Tổ giáo. Khi ba nghiệp thanh tịnh, tâm mới sáng suốt. Trong
Tịnh độ các vị Tổ đã dạy “Tam nghiệp hằng thanh tịnh, đồng Phật vãng Tây
phương”. Ở đây nói dừng được ba nghiệp thì thân tâm trong lặng. Ngược lại
y cứ trên văn nghĩa mà hiểu, chỉ là hạng thiền khách lạc loài bơ vơ. Nếu
chúng ta chỉ bám theo những cái giả tạm, những hình tướng bên ngoài, mắc
mứu với nó thì mình thuộc loại thiền khách bơ vơ. Chữ “bơ vơ” Ngài dùng ở
đây tức là không dính dáng, không liên hệ được đạo. Bởi vì như Tổ thì tâm
thanh tịnh, nếu tâm mình không thanh tịnh thì đâu thể liên hệ được với Tổ.
Hoặc muốn thông suốt kinh giáo thì tâm phải sáng tỏ, nhận được nhất tâm
hay một tâm mới thông suốt kinh giáo. Nếu ta không được như thế thì thấy
bơ vơ lạc loài vì chẳng có sự liên hệ đồng cảm nào đối với các bậc thầy đã
chỉ đường dẫn lối cho mình.
Ví dụ ăn
sáng rồi ta làm việc gì đó, trong lúc làm mình nghiệm lại thấy không dính
dáng gì với Phật pháp. Bởi tham sân phiền não dẫy đầy, mọi thứ cũng còn
vướng mắc. Tới giờ đi học, giờ tọa thiền, giờ tụng kinh, tất cả thời gian
sinh hoạt của mình, kiểm lại thấy cái nào ta cũng vướng mắc. Trong khi đó
các bậc thầy của mình không vướng mắc. Như vậy làm sao ta tiếp cận được
với thầy, nói gì đến Phật, Bồ-tát? Có khi ta gặp một vị thầy cao cả ngộ
đạo, ngồi hầu thầy hằng tiếng đồng hồ mà không dính dáng gì hết. Tại vì ta
không với được cái ngộ đạo, cái sáng suốt, cái đặc biệt nào hết trơn. Ngài
nói ra mình không hiểu, ý tứ của Ngài mình không nhận, là vì mình còn mịt
mù, tối đen đây nè! Cho nên Tổ nói đó là hạng thiền khách bơ vơ. Dù ngồi
trước thầy, dù ở trong đạo tràng, nếu không nỗ lực tu hành ta vẫn bơ vơ
như thường. Cho nên người biết thương phận mình thì phải cố lên, làm sao
trong từng phút giây khắc tỉnh, khắc tiến được.
Điểm thứ hai
là người còn thưa hỏi hữu lậu, vô lậu, Đại thừa, Tiểu thừa là còn kẹt
trong phương tiện, chưa đến được chỗ cứu cánh. Chỉ ai nhận biết tâm chân
thật làu làu, sáng như gương mới không còn bị nhiễm ô bởi căn trần huyên
náo. Bấy giờ người đó tự tại đối với tất cả sự kiện chung quanh. Ở đây nói
chẳng ngại thời tiết, nhân duyên thay đổi. Người nào tâm sáng, trí thông
thì đối với tất cả các cảnh duyên đổi thay chung quanh, họ không bị dao
động chút nào cả. Còn lăng xăng thưa hỏi vô lậu, hữu lậu, Đại thừa, Tiểu
thừa là còn kẹt phương tiện. Chỉ có ai tâm sáng làu làu mới nhận và sống
được với tâm thể của mình, người đó là người tự tại với các cảnh duyên.
Thật ra việc
này cũng không phải khó khăn quá mức như chúng ta tưởng. Nếu quá khó khăn
thì người xưa đã không tu được. Người xưa đã làm thành, để bài bản lại cho
mình mà ta tu không được là tại mình, chớ không phải tại khó quá. Nói thế
để chúng ta không tự khinh mình mà phải ráng lên. Ráng đây không phải sự
thể hiện qua hình tướng bên ngoài, bởi vì nó không phải khuân vác nặng nề,
cũng không phải đẩy cây kéo xe gì, mà ta dùng sức lực để ráng. Chỉ là vâng
lời Phật dạy cái ấy “đừng ngó” nghe con thì ta đừng ngó. Còn lén lén ngó
là không ráng tí nào hết. Các Thiền tăng mình có cảm thông chuyện ấy
không?
Phật bảo
“cái đó đừng nghe con” thì thôi tắt đi, đừng sấn tới. Phật bảo ăn vừa phải
thôi thì đừng có phình bụng ăn mãi. Mấy việc này phải ráng. Ráng mà thật
ra không có gì để ráng, bởi vì cái ráng của Phật dạy là buông xuống chớ
không phải gánh lên. Chúng ta đọc lại đoạn sử của Bồ-tát Sĩ Đạt Ta, Ngài
là một ông hoàng sắp lên ngôi, mọi người trọng vọng cao cả như thế đó, mà
Ngài trút bỏ tất cả những tiện nghi để đổi lấy một đời sống tu hành chẳng
có gì cả. Bên dòng A-nô-ma Thái tử đã cởi bỏ tất cả áo bào, ngọc ngà châu
báu, lấy gươm cắt tóc và nói những lời dứt khoát, rồi một thân một mình
vào trong rừng tu khổ hạnh. Khổ hạnh đến mức độ mỗi ngày ăn một hạt mè hạt
đậu, thân thể chỉ còn da bọc xương nhưng mà trí tuệ thì tuyệt vời. Nuôi
dưỡng ý chí mạnh mẽ như thế, dám buông bỏ như thế mới có thể thành tựu
được giác ngộ giải thoát. Còn chúng ta ngày nay ăn một ngày mấy bữa, nên
không còn thì giờ đâu nữa mà tu hành.
Đức Phật
ngày xưa khi nhận bát sữa rồi, Ngài chuẩn bị tòa cỏ và một ý chí kiên
quyết là: “Ta thệ ngồi nơi đây, nếu không đạt được đạo quả Vô thượng
Bồ-đề, dù thịt nát xương tan cũng không rời khỏi tòa này”. Chớ không như
chúng ta, vừa lên bồ đoàn liền khởi nghĩ dưới miền Tây chỗ nào mát mẻ, cất
cốc xuống dưới tu cho khỏe, tu miền Đông mệt quá. Chúng ta cứ thế, năm này
miền Đông, tháng sau miền Tây, mai mốt ra miền Trung, bây giờ nghe nói
miền Bắc có thiền viện cũng muốn ra miền Bắc tu nữa. Thế thì bao giờ chúng
ta mới ngộ đạo?
Ở đây nói
chỉ ai nhận biết được tâm chân thật làu làu rồi, sống được với tâm thể đó,
thì cảnh duyên chung quanh sẽ không làm gì được người này. Ngược lại, kẻ
chưa nhận được, chưa sống được với tâm thể của mình sẽ bị cảnh duyên bên
ngoài quấy rầy nhiều lắm. Nên ở trong trường hợp này người xưa dạy chúng
ta phải tránh duyên. Nếu cảm thấy mình chưa đủ thực lực, còn yếu kém thì
hãy tránh duyên, như vậy mới không mất mạng vong thân. Nói tránh duyên tức
là nói đến phương tiện. Vì vậy phải hiểu và biết cách tránh duyên. Có
những nơi ta tránh được, có nơi không nên tránh chỗ đó. Đã là phương tiện
thì không phải cứu cánh, nên trong giai đoạn tránh duyên để tu tập, cần
phải ý thức vươn lên. Làm sao công phu mỗi ngày một tiến bộ, để ta có thể
tự chủ mà sống tùy duyên. Như vậy mới đúng với chân tinh thần Phật dạy.
Cho nên đối
với lời dạy của người xưa, chúng ta cần phải thể nghiệm cho kỹ. Việc tu
tập có khi trôi chảy, nhưng cũng lắm lúc cay đắng làm sao, có những lời
Phật dạy, chúng ta tu hoài, trậm trầy trậm trật mà cũng chẳng đi tới đâu.
Thật là xấu hổ. Đó là gì? Là nghiệp tập hay tập khí, tức những chủng tử
xấu của mình sâu dầy quá. Tập khí, chữ “tập” là nhóm họp lại, chữ “khí” là
hơi hướm, như vậy tập khí là cái hơi hướm còn tồn đọng lại trong ta, do
những thói quen từ trước đã tạo nên. Tu trị tập khí này không phải chuyện
dễ, khó khăn vô cùng. Nhiều Phật tử dưới miền quê ham tu, cũng thích ăn
chay nhưng ăn không nổi, nghe các thầy Trụ trì dưới chùa quê bảo nếu ăn
chay không nổi, con cứ chay kỳ. Chay mà kỳ! Quý vị hiểu chay kỳ không?
Nghĩa là ăn có thời kỳ chớ không phải lúc nào cũng ăn chay. Ai ăn chay
không nổi về quê chắc dễ tu, lúc nào thấy không chay thì kỳ. Tôi nói vui
vậy thôi, chớ đó chẳng qua là tập khí, mà chúng ta không vượt thắng nổi
thôi.
Tôi còn nhớ
một người huynh đệ cùng tu ngày xưa rất thích ăn đồ chiên xào. Thầy nói ăn
cơm nước tương ngán lắm, có cái gì chiên để lên là thấy khoái liền. Không
biết nghiệp gì? Chắc nhiều đời cũng chiên xào dữ lắm. Sau khi xuất gia thọ
đại giới, thầy cũng học khóa Giảng sư và ra giảng dạy Phật pháp. Nhưng
không hiểu hơi hướm làm sao, cứ mỗi lần đi ngang mấy tiệm xào nấu thì thầy
động niệm. Lúc đầu thầy thấy khó chịu lắm, vì nghĩ không thể nào mình ăn
được những thứ đó. Nhưng cái khó chịu đó đổi chiều hồi nào không hay, nó
thành ra dễ chịu, lạ đời vậy đó. Cuối cùng bị nghiệp dẫn, thầy phạm giới
ăn mặn. Sau lần ấy, thầy thấy xấu hổ vô cùng, xấu hổ đến mức độ muốn chết
quách cho rồi. Thế là thầy đi tuốt ra miền biển kiếm một ngôi chùa ngoài
đảo hẻo lánh, cuộc đời kể như bỏ đi.
Sống tại đây
một thời gian, Phật tử phát hiện ra có ông thầy ở nơi này nói chuyện Phật
pháp rất có duyên. Vậy là họ kéo nhau đến tiền hô hậu ủng, kính trọng và
chiều chuộng thầy hết mức. Thầy muốn gì được nấy và nhất là Phật tử sợ
thầy bỏ đi nên cuối cùng hơi hướm cũ nổi dậy, thầy chẳng những chay mà qua
kỳ luôn. Thế nhưng Phật tử sẵn sàng bỏ qua, họ nói “Thầy ơi! Cứ ăn mặn cho
có sức khỏe để thầy tu chớ, không ăn như thế làm sao thầy có sức khỏe
nổi”. Cuối cùng, kỳ cũng không giữ được nữa, thầy sống như một kẻ thế
gian, khỏe mạnh lắm.
Thời gian
thầy nghĩ lại thấy xấu hổ quá nên âm thầm bỏ đi. Phật tử phát hiện ra mất
ông thầy, mọi người đều thương tiếc, bởi thật ra thầy sống rất đàng hoàng,
chỉ có mỗi cái tội ăn uống kỳ như vậy thôi. Thầy về lại thành phố và tiếp
tục lạng quạng với tập khí cũ, cuối cùng kết liễu cuộc đời bằng một cái
chết thật đáng thương. Câu chuyện đã cho chúng ta thấy nếu không có sức
gia trì của Tam bảo, không có thiện hữu tri thức bên cạnh và nhất là không
có ý chí, không có sự quyết tâm thì con đường tu hành của mình thật khó
khăn vô cùng!
Cho nên tập
khí rất là nguy hiểm. Muốn trị tập khí phải dùng đến công huân thiền định.
Thiền định sâu dày mới trị được. Trong kinh A Hàm kể lại, lần đó đức Phật
cùng các vị đại đệ tử dự lễ cúng dường của chư thiên. Khi nhạc trời vi
diệu vừa trổi lên, cả hội chúng đều hết sức ngạc nhiên vì thấy Tôn giả Ca
Diếp động thân, múa theo điệu nhạc. Thấy thế, đức Thế Tôn nói: “Trong
nhiều đời Tôn giả Ca Diếp đã từng là một vị nhạc sư tuyệt vời, nên bây giờ
nghe tiếng nhạc vi diệu, tập khí cũ khởi lên khiến Ngài như thế”. Tôn giả
Ca Diếp còn bị ảnh hưởng bởi tập khí cũ, huống là chúng ta ngày nay. Nếu
không dè dặt giữ mình thì khó mà tu tập được.
Ví dụ thầy
nào thích ăn bánh mì buổi sáng thì xin đừng bước ra khỏi cổng Thường
Chiếu. Nếu thích cái gì làm cái nấy là chấp nhận sống với tập khí, thế thì
chừng nào thành tựu được thiền định. Bởi chúng ta không sử dụng trí tuệ
làm sao được định? Một niệm dấy khởi liền lao theo, xem như mất trí tuệ
rồi. Chúng ta sử dụng tập khí như vậy mãi thật nguy hiểm vô cùng. Cho nên
đây là chỗ công phu của chúng ta. Vừa khởi niệm lên liền thôi. Thôi riết
nó quen, “thôi” không được thì “Thôi đi mày ơi!”. Phải quở mạnh như vậy nó
mới sợ, nếu không nó sẽ dẫn mình đi.
Cho nên chúng
ta tu hành phải nỗ lực phấn đấu, khắc phục, chuyển hóa những tập khí bất
thiện. Đừng để nó lén lút rủ rê đi vào con đường xấu, uổng một đời tu. Khi
thần chết đến, không biết mình sẽ về đâu? Tôi nhấn mạnh ý này để nhắc nhở
huynh đệ, nhất là các vị trẻ tuổi phải thường xuyên cảnh giác, nắm vững
dây giàm, đừng cho con trâu hoang của mình hung hăng bứt dây. Biết mình ưa
thích cái gì, yếu với cái gì thì đừng lân la gần gũi với nó, không khéo nó
sẽ dẫn mình đi nhanh tới mức không ngờ được đâu. Giữ mình như vậy mới hy
vọng giữ vững được đạo nghiệp. Huynh đệ phát tâm tu phải biết quý trọng
đời tu bằng cách gìn giữ trí tuệ và giới hạnh của mình trong từng phút
từng giây.
Điểm thứ ba là
trong quá trình tu tập phải chín phen đúc chín phen rèn mới thành vàng
ròng. Người tu hành chẳng tham tài lộc thế gian, chỉ vui sống đời chay lạt
trang nghiêm thanh tịnh. Ở đây Tổ dạy Vàng chưa hết quặng, xá tua chín
phen đúc chín phen rèn. Vàng ở trong quặng còn lẫn cát bụi tạp nhạp,
muốn lọc thành vàng ròng thì phải đưa vô lò luyện. Không phải luyện một
lần, mà chín mười phen mới ra vàng ròng. Việc tu hành của chúng ta cũng
vậy, phải trải qua nhiều thử thách khó khăn, vượt qua được những bờ mê mới
bước lên bến giác.
Bờ mê chính là nghiệp chướng của chúng ta,
nặng hay nhẹ tùy mỗi người. Nghiệp duyên không ai giống ai cả. Có huynh đệ
tuy nhỏ nhưng quyết tâm tu rất đáng khen ngặt nỗi lại bị bệnh hoạn. Bác sĩ
nói u xơ thì xem như tiêu đời rồi. Ai nghe mà không sợ, phải không? Miệng
tuy nói cứng chứ cũng muốn sống để tu hành chứ! Phải nhai gạo lứt muối mè,
uống Địa Long… uống thuốc dữ lắm chứ đâu phải “Thôi kệ nó”. Nói “Kệ!”,
nhưng cũng run trong bụng ấy chứ! Cho nên bệnh hoạn cũng là một chướng
duyên lớn trên đường tu hành.
Vì vậy đủ duyên gặp thầy lành bạn tốt, anh
em ráng lên. Đừng để thời gian qua rồi sau tìm lại không được. Duyên tốt
qua rồi rất khó tìm lại. Ngày nay chúng ta ở trong điều kiện thế này, có
pháp tu rõ ràng, mà cứ lơ lơ lửng lửng qua ngày, mai mốt vua Diêm La gửi
thư tới hốt hoảng không biết làm sao? Tới giờ ngồi thiền thì đừng để tâm
rong ruổi tây đông, chuyên tâm nhất ý để nhận lại cái chân thật của chính
mình. Như vậy mới đối đầu với sanh tử nổi chứ. Chúng ta đừng đánh mất
những cơ hội thuạân lợi để sống lại với tánh giác, nhất là những lúc được
sống yên ổn trong đạo tràng, trong Thiền viện như vầy.
Bây giờ lòng mình chưa yên, còn thứ này
thứ khác tạp nhạp quá thì phải lọc lựa. Bỏ đi những thứ không cần thiết,
giữ lại những thứ thật. Tổ dạy muốn có vàng ròng thì phải chín phen rèn
chín phen luyện, như chúng ta đây không biết bao nhiêu phen, miễn làm sao
ra được vàng ròng để dùng là tốt. Như vậy mới không cô phụ tâm tu hành ban
đầu, không phụ cuộc đời mình, không làm uổng đi kiếp người. Chư Tổ cũng
như các vị tiền bối thường răn nhắc chúng ta nhiều về việc mất thân này,
khó tìm lại được. Cho nên được thân người, lại gặp Phật pháp, phát tâm tu
hành là điều rất quý báu, chúng ta đừng để mất chủng duyên lành sâu dày
này.
Có thân người là có được một phương tiện
tối ưu, chúng ta nên sử dụng phương tiện này để đạt đến mục đích cứu cánh
là giác ngộ giải thoát. Đọc học hành trạng người xưa, chúng ta thấy có
nhiều vị đang là bậc sĩ tử đặc biệt, một khi nghe Phật pháp liền bỏ tất
cả. Không đến trường thi mà đến trường Phật, thi để làm Phật. Nhận được
yếu chỉ từ vị thầy rồi, các ngài quyết liệt hạ thủ, làm sao cho thành tựu
đạo nghiệp viên mãn. Lọc lựa rèn luyện lấy cho được cái gốc vàng chứ không
dùng cái tạp chất lẫn trong quặng. Một phen đã nhận ra tánh Phật rồi là
các ngài sống như vậy.
Chúng ta dở hơn các ngài nhiều mà lại
không biết tự thương mình, nên kéo lê đời mình trong quãng thời gian dài,
để mất hết những cơ hội thuận lợi. Từ việc ăn việc ngủ, tất cả việc, cả
đời qua đi, mất hết. Cái ý chí trượng phu lẫm liệt của một con người xuất
trần thượng sĩ, dám độc hành độc bộ đâu rồi mà bây giờ mình không đi con
đường đó, cứ lăng xăng trong thế gian hoài?! Đối với người tu phải đầy đủ
ý chí, đi thẳng vào một việc lọc lựa, làm sao dùng được vàng ròng.
Tổ dạy chúng ta phải vui sống đời chay
lạt, giới hạnh trang nghiêm. Những lời nói nghe nhẹ nhàng như vậy,
nhưng muốn được thế cần phải nỗ lực công phu. Muốn sống đời trang nghiêm
thanh tịnh, quả là khó khăn vô cùng. Chúng ta có quá nhiều thứ tạp nhạp
lôi dẫn nên không tự trang nghiêm thanh tịnh cho mình được. Do vậy cần
phải nhờ giới luật, thanh quy hỗ trợ để điều phục bớt những tập khí thế
gian. Như nói mùa an cư là thầy trò phải cấm túc, Tam ngoạt an cư cửu tuần
kiết chế. Như thế để làm gì? Để chúng ta có thời gian gạn lọc thân tâm cho
trang nghiêm thanh tịnh. Thế mà mùa an cư nào tôi cũng là người đi nhiều
nhất. Đôi khi ngồi trên xe, tôi thấy xót xa cho mình quá! Các huynh đệ
phải cố lên, còn rảnh rang như quý vị là sung sướng lắm. Lớn lớn lên một
chút làm Giảng sư, Trụ trì… nhiều duyên sự bắt buộc phải đi nhiều nói
nhiều, không có đạo lực, không khéo tu sẽ mất mình thôi.
Điểm thứ tư là: Kẻ tham thiền học đạo phải
biết chọn thiện tri thức. Học đạo thờ thầy, hy sinh hết tâm tủy cũng khó
mong đền đáp, huống là người chẳng biết đến ơn đức sư trưởng mà có thể
thành tựu đạo nghiệp được sao!
Chúng ta đã biết được phương pháp tu hành
như vậy, thì tâm tâm niệm niệm nỗ lực tu hành và quý kính những bậc thầy
đã dầy công tu hành sáng đạo, chỉ dạy lại cho chúng ta. Như Hòa thượng,
giáo hóa độ sanh như thế nhưng cuối cùng đến lúc già Ngài nói: - Tới đây
tôi phải ngừng để lo việc của tôi. Không phải được người ta quý trọng,
duyên phúc lớn rồi mình cứ lao theo Phật sự mà quên tu. Một mai vô thường
đến, chết mất đâu còn thì giờ để tu. Chúng ta học theo gương của Hòa
thượng, gần gũi thiện hữu tri thức để tu hành. Việc tu có kết quả tốt đẹp,
ta mới cảm trọng được ân đức sâu dày của các bậc Sư trưởng.
Chư huynh đệ! Hãy nhớ đến vô thường mà lo
việc của mình. Các thiền sư nói: - Dù ông giảng tới trời mưa hoa, đá gật
đầu, cũng không dính dáng việc này! Không phải ta làm được một số công
việc Phật sự rồi cứ lăng xăng, cả đời buông hết trong đó là nguy! Đó là ý
cuối cùng của hội thứ sáu này.
Tóm lại, người tu hành trước nhất phải làm
sao vô tâm, kế nữa là tránh duyên, phải gan dạ nỗ lực tu hành, bỏ tất cả
những thói hư tật xấu để cuối cùng hằng sống với tâm rỗng rang sáng suốt.
Giống như người muốn có vàng thật phải qua chín phen luyện mười phen rèn. |