QUÁN NIỆM CUỘC ĐỜI
Nhân cảm khái
về hình ảnh một chiếc thuyền trôi trên dòng sông, mà tôi có bài giảng hôm
nay.
Kinh Phật cũng
có tả về một chiếc thuyền rất đông người, trôi trên dòng sông lớn. Mọi
người trên thuyền đều đang vui vẻ tươi cười, trong khi đó bên kia bờ sông,
có một người lớn tiếng kêu gọi cảnh giác rằng: “Dưới lòng sông nước xoáy
rất nguy hiểm, coi chừng chìm chiếc thuyền. Ngoài nước xoáy còn có những
loài thủy quái và quỷ dữ ăn thịt người. Nếu không chuẩn bị sẽ nguy hại đến
tính mạng”. Người này kêu gọi gần như lạc giọng mà không ai để ý, cứ mặc
tình đùa giỡn trên chiếc thuyền ấy.
Người đứng
trên bờ la lớn dụ cho đức Phật và những vị Thánh tăng. Bọn người vui chơi
trên thuyền dụ cho chúng ta. Dòng sông chính là cuộc đời với những ái niệm
vô tận. Ngài thấy những nguy hiểm của cuộc đời đang rình rập chúng ta,
nhưng bọn mình vẫn thản nhiên vui nhộn trên chiếc thuyền đang trôi giạt.
Vì quá thương xót cho sự khờ dại ấy, nên các Ngài luôn luôn lập bày phương
tiện để giúp chúng ta tỉnh lại, đừng bị não hại bởi dòng nước xoáy hay các
loài quỷ dữ.
Từ lâu rồi
biết bao nhiêu bậc Thánh đã kêu gọi chúng ta hãy thức tỉnh, dừng lại cuộc
vui chơi nguy hại, nhưng ta nào có nghe. Nếu có nghe cũng không tỉnh được,
không dừng được những cuộc vui ấy. Bởi lẽ chúng ta bị ái niệm, tình chấp
sâu dày vô cùng vô tận buộc chặt nên khó thoát ra được sự sai khiến của
nó. Những người đang vui đùa thích thú trên thuyền là chỉ cho sự vui thích
trong chấp chặt của ái ngã. Trong những thứ chấp, chấp ngã là nặng nề trầm
kha nhất. Phải có trí tuệ, thiền định thâm hậu mới trị được cái chấp này.
Ái niệm, tình
chấp là gì? Là những niệm ân ái, chấp trước theo thức tình khó có thể
buông bỏ được. Chính những thứ này buộc ràng và kéo lôi chúng ta đi trong
sanh tử đời đời kiếp kiếp. Chúng không phải do ai đem đến mà là tự chúng
ta sáng tác, rồi bị nó buộc ràng ngược trở lại, làm cho mình chết trong đó
không vươn lên nổi. Nói cho rõ, chẳng qua chỉ vì cái lầm ban đầu của chúng
ta mà thôi. Từ chỗ không sáng, không tỉnh, nhận lầm tất cả các hiện tượng
lăng xăng trước mắt nên ta chạy theo nó.
Ở đây chư Phật
và các bậc thiện hữu tri thức kêu gọi chúng ta dừng lại, tỉnh lại. Hãy
quán sát những gì từ lâu mình quan niệm, chấp chặt, nếu thấy chúng làm cho
ta bất an bất ổn thì buông đi. Như vậy may ra con thuyền của mình sẽ không
bị hại. Cụ thể là các Ngài bảo chúng ta hãy đề phòng cảnh giác hai thứ
chấp thân và tâm. Tức là chấp thân này thật và chấp vọng tâm là thật. Quả
thực hai thứ chấp này rất nguy hiểm.
Xét cho cùng,
thân này không có gì thật cả. Nếu thân là thật thì nó phải còn hoài, không
bị hoại, không đổi dời. Nhưng từng ngày, từng giờ, từng tâm niệm, luôn
luôn đổi dời và đổi dời hết sức nhanh chóng, giống như giòng nước xoáy
vậy. Quý vị thử xem lại chính bản thân mình sẽ thấy, giờ trước đang khỏe,
giờ sau bệnh hoạn bất thường. Không ai đoán trước được ngày mai của mình.
Rõ ràng chúng ta không thể giữ gìn được thân này như ý mình muốn. Cái
không thật ta cho là thật, cái không giữ được ta cố giữ thì tự mình chuốc
khổ thôi. Bao giờ giải trừ được những chấp thủ này, chúng ta mới hết khổ.
Vì thế chư
Phật mới hết sức hết lòng kêu gọi bọn mình. Chừng nào ta tỉnh và dừng lại
được bước lưu linh, lang bạt của mình thì các Ngài mới yên tâm. Với tâm
đại từ đại bi như vậy, nhưng đôi khi chúng ta giận ngược trở lại người đã
thương muốn cứu vớt mình. Ai nhắc nhở, chỉ bảo mà thương tổn bản ngã của
mình thì ta sẽ không tha đâu, cho dù đó Phật Tổ chi chi nữa. Tại sao vậy?
Tại vì mình còn thấy thật. Cái lầm cơ bản là ta còn thấy mình thật, người
thật, cảnh thật nên tất cả mọi vấn đề đều là sự thật.
Thành ra ở đây
chúng ta phải làm sao tháo gỡ kiến chấp sai lầm ấy mới có được con mắt
thấy thủng vấn đề. Những gì Phật nói không thật, chúng ta thấy quả thực nó
không thật thì sẽ hết khổ tức khắc. Còn dù cho chúng ta có kêu cầu Thánh,
Phật, các bậc thần linh giải quyết phụ những nỗi niềm cay đắng, nhưng
chính bản thân mình chưa tháo gỡ được thì nhất định không có cách gì giải
trừ được chúng. Cho nên vấn đề then chốt ở đây là sự tháo gỡ nơi mỗi chúng
ta.
Chúng ta thử
nghiệm xem cuộc đời có bao giờ vui trọn vẹn không? Không khi nào. Hồi sáng
cười thôi là cười, nhưng chút nữa giận thôi là giận. Một miếng ăn không
vừa ý, một lời nói không hài lòng, một cử chỉ không thích hợp với ta là
bực bội, tức tối, sân hận ngập trời. Từ đó mà tạo nghiệp. Cho nên chỉ một
ngày ngắn ngủi, chúng ta còn chưa có được niềm vui trọn vẹn, huống chi
những năm tháng lâu dài!
Chúng ta có đủ
thứ lý do để phiền não, cay cú. Khi giận thì giận luôn cả trời đất. Ví dụ
nóng quá ta nổi giận với ông Trời: “Không biết ổng để nước trên đó làm gì
mà không chịu mưa xuống cho người ta nhờ!”. Rồi nhằm hôm Phật tử đi chùa
đông đảo, trời đổ mưa tầm tã, đường lầy lội bà con trợt té. Thế là ta tức
giận thán oán Trời đất không biết điều: “Người ta đi chùa mà nổi sấm nổi
chớp, không chút kiêng kỵ”. Chúng ta luôn luôn bất ổn với những tâm niệm
không hoàn chỉnh của mình.
Người tu Phật
phải thấy được lẽ thật, thấy được tâm vô thường của mình, mới có thể giảm
thiểu những cay đắng trong lòng. Có những niềm vui thông thường trong cuộc
sống khi chúng ta hòa hài, tươi tắn, buông xả hết mọi muộn phiền, đó
chính là những niềm vui chân thật đơn sơ bình dị nhất mà không phải tìm
kiếm ở đâu xa.
Nói như thế
không có nghĩa là ta chấp nhận những thứ vui nhộn trên con thuyền đang bấp
bênh. Bởi có những thú vui mà đàng sau của nó là tâm trạng bất an bất ổn,
là sự đổi thay vô định không được chuẩn bị, đây không gọi là niềm vui chân
thật. Trong cuộc đời có những nụ cười ra nước mắt. Hoặc có khi người ta
chết đứng, vì quá khổ đau, không còn nước mắt ngôn từ để diễn tả nỗi cay
đắng cùng tột trong lòng. Cả hai trường hợp này đều diễn tả sự đau khổ.
Chúng ta nên
xem xét trong cái vui của mình, nếu vui theo cảnh duyên bên ngoài thì
không phải là niềm vui chân thật. Ngược lại, cái vui nhẹ nhàng xuất phát
từ tận đáy lòng, không lệ thuộc bất cứ sự đổi thay nào, đây chính là niềm
vui chân thật. Từ đó chúng ta nghiệm thấy lời Phật nói là không sai ngoa.
Nếu chạy theo thú vui tạm bợ của cuộc đời thì phải chịu đau khổ, còn biết
dừng lại, buông xả các thứ cố chấp thì an vui, hạnh phúc mãi mãi.
Chúng ta đã
học bài học này từ lâu rồi, chứ không phải mới đây nhưng vì quên, nên mỗi
lần đương đầu với sự đổi thay thì ta khổ. Như ta cũng biết rất rõ thân này
có sinh thì có tử, sống chết là lẽ thường, nhưng khi người thân sắp chết
ta liền hốt hoảng, than khóc, không ai ngăn được. Tệ hơn nữa, có khi không
phải chuyện của mình ta vẫn chảy nước mắt ngon lành. Cho nên thi hào
Nguyễn Du đã nói: “Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa” là vậy. Chúng ta
dễ khóc quá. Điều này chứng tỏ lòng mình mềm yếu, không có nội tại vững
vàng để đối diện với những dòng xoáy của cuộc đời. Nước xoáy của cuộc đời
chính sự chao đảo, gập ghềnh, không ổn của mình. Nó lại liên tục và vô
tận. Cho nên rồi chúng ta nói tu mà chẳng tiến được bao nhiêu, bởi sóng
đời vây phủ hết rồi. Vì vậy mà ta khổ.
Người tu thiền
phải có định, muốn định phải ngồi thiền. Ngồi thiền muốn yên phải buông
hết các thứ vọng tưởng. Quả thực hằng ngày ta sống với bao nhiêu là niệm
tạp loạn, bây giờ muốn yên phải loại trừ nó ra. Vì vậy đòi hỏi ta phải
dừng lại, để thấy sâu lắng hơn, thấy tận căn để của từng vấn đề. Một khi
đã thấy được rõ ràng rồi ta mới làm chủ được mình. Đó là lẽ thực trong khi
tu.
Hình ảnh những
loài thủy tộc dữ dằn dưới dòng sông chính là nghiệp thức cũ lúc nào cũng
theo sát, cũng rình rập bên ta. Nếu thiếu sự cảnh giác chúng sẽ ùa vào,
đòi lại nợ trước. Tức do cái nhìn không đúng, nên ta đã tạo những nhân
không tốt, bây giờ đưa tới kết quả không tốt. Muốn không bị chúng theo
đuổi nữa thì ta phải chuyển nghiệp cũ của mình. Do đó lời kêu gọi của các
bậc thiện hữu tri thức là khuyên chúng ta phải sửa mình.
Ban đầu, ta
chưa thể thực hiện được hết những lời dạy của các Ngài, nhưng từng bước ta
tập sửa đổi dần. Dừng được phần xấu dở nào thì tốt phần đó, từ từ đạo lực
mạnh mẽ hơn lên, ta sẽ đầy đủ năng lực để chuyển đổi nghiệp xấu của mình.
Khi nào chúng ta phát nguyện được: “Con nguyện sẽ gánh hết tất cả những
đau khổ trên đời này để mọi người gieo nhân lành được an vui hạnh phúc”,
thì chừng ấy xem như ta có thể hoàn thành đại nguyện. Đó chính đại hạnh
đại nguyện của Bồ-tát đi vào cuộc đời, mạnh mẽ không gì bằng.
Thường ai cũng
mong mỏi cho mình được bình yên, sống vui vẻ thoải mái, ăn ngon ngủ khoẻ,
chứ không ai dám thay đau cho chúng sanh cả. Ngay cả những người xuất gia
tu hành cũng chưa chắc dám nguyện như vậy. Sợ lắm. Bởi vì bản ngã chưa
được xé toang thì ta không thể quên mình vì người được. Đó cũng chính là
nguyên nhân chúng ta tu hoài mà đến bây giờ vẫn chưa được chút an vui giải
thoát nào. Cho nên cứ theo vòng nhân quả vay trả, trả vay không có ngày
cùng.
Người tu Thiền
hay tu theo tinh thần Phật giáo Đại Thừa, thì phải đảm đang, tự khắc tự
hứa rằng: Tự mình nỗ lực vươn lên, không thểù cầu khẩn hoặc ỷ lại vào ai
hết. Như vậy mới đầy đủ ý chí dũng mãnh tiến đạo được. Ngay cả cha mẹ hay
Thầy Tổ cũng không thể thay thế được cho mình. Giả dụ bây giờ đức Phật có
thị hiện nơi đây phóng hào quang soi khắp chúng ta, nhưng nếu mình không
chịu tu, không chịu chuyển nghiệp, dừng nghiệp thì ta vẫn tối tăm như
thường, đừng nói là theo Phật bay đi đâu.
Chúng ta còn
chểnh mảng một ngày giờ nào, một phút giây nào tức là ta tự đánh mất mình.
Tự đánh mất mình, tự bỏ quên mình nghĩa là ta tự chôn vùi mình. Việc của
mình thì mình phải lo, dùng trí tuệ sáng suốt để giải quyết, chứ không thể
trông chờ ỷ lại vào bất cứ một thế lực nào. Phải quán chiếu làm sao cho
thủng vấn đề, để đừng bị lầm nữa. Chúng ta còn có thời gian để chuẩn bị,
nghe được lời kêu gọi chung quanh, tỉnh sáng lên, đừng như những người
trên thuyền kia cứ vui chơi, cho đến cuối cùng bị dòng nước xoáy hay quỷ
dữ dìm chết.
Con đường luân
hồi hết phiên người đến phiên ta. Cha mẹ chết rồi tới anh chị chết, cuối
cùng là mình chết… Đó là chưa kể trường hợp đảo lộn người trẻ chết trước,
người già chết sau. Rõ ràng không có gì đảm bảo trọn vẹn cuộc đời mình.
Như vậy mà ta cứ mải mê vui trong tạo nghiệp nên Phật nói chúng sanh si mê
rất đáng thương xót vậy! Thế nhưng đôi khi ta đâu chịu nhận như thế. “Tôi
có bằng cấp Tiến sĩ, Phó Tiến sĩ nọ kia mà mê sao được! Tất cả những định
lý định thức, tất cả những hiện tượng mưa gió hoặc nước chảy mây bay… tôi
biết hết mà nói không sáng là nghĩa làm sao?” Biết hết mà tử thần tới thì
không biết. Như vậy là bất lực, là không biết rồi.
Do không biết
nên cứ tạo nghiệp để đưa đến những hậu quả không tỉnh không sáng. Không
sáng nên mới lầm lũi trong trầm luân sanh tử hết đời này đến đời khác,
quay cuồng trong khổ đau không biết đến bao giờ mới thôi. Khi tóc ngả màu
tức là lúc vua Diêm La gởi một bức thư cho chúng ta rồi đó. Thư báo cái
già đã đến, nghĩa là gần cõi Diêm La một chút. Nhưng bây giờ chưa đến lúc
như vậy, nên thư của Diêm Vương gởi ta cứ lờ đi, không chịu đọc.
Tôi đề nghị
quý Phật tử, chúng ta bắt đầu đọc thư của Diêm Vương đi! Chính tôi đang
đọc thư của Diêm Vương đây. Trời chuyển mưa hay không chuyển mưa gì, căn
bệnh phong thấp nó hành tôi đau nhức như giần. Những lúc ấy, tôi bạch với
Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Con đang đọc thư của Diêm Vương đây. Con thấm
thía làm sao từng cơn đau! Con mong cho bạn bè đồng chí đồng hạnh với con
cũng đang đọc những bức thư như vầy”. Đọc để làm gì? Để thấm thía và chuẩn
bị cho mình, đừng chờ tới lúc diện kiến Diêm Vương, ông ta hỏi: “Có nhận
được thư không?” Ta ú ớ nói: “Không nhận được” thì trễ lắm rồi. Ta phải
tập đọc những bức thư ấy từ khi trên đầu chưa có sợi tóc nào trắng, da dẻ
chưa có chút nhăn nheo, mắt chưa mờ, tai chưa điếc… như vậy mới mong chuẩn
bị tinh thần để đối đầu với Diêm Vương.
Đọc như thế để
làm gì? Để tỉnh, để chuẩn bị. Nếu trễ tràng quá sẽ không còn kịp đâu,
chừng đó đường trước tối tăm mờ mịt, không biết phải làm sao, ai cứu cho
mình đây? Không biết những thú vui trên chiếc thuyền giữa dòng sông như
thế nào mà người ta quên cả những hiểm nguy đang chờ đón phía trước? Vì
vậy họ đã quên hết năm tháng, tuổi tác chất chồng, lưng còng gối mỏi, bệnh
tật liên miên… chỉ biết vui chơi, có khi không hẳn là vui chơi mà là đang
gây gổ với nhau.
Chúng ta học
đạo, biết rõ những hiểm họa như thế thì phải cố gắng tỉnh, chuẩn bị cho
mình một niềm vui khác, không phải vui trong vô thường đau khổ như thế. Dù
ta chưa gối mỏi lưng còng, nhưng đang ôm cái thân luôn bại hoại trong từng
phút giây thì có gì vui thú! Đã thế những gì gọi là của tôi rồi cũng sẽ
vụt mất, vậy tại sao ngay bây giờ ta không tập buông đi. Tập buông để được
an ổn. Đó là lá thư thứ nhất.
Đến lá thư thứ
hai là bệnh tật. Lá thư này không dành riêng cho người lớn tuổi, những
người còn trẻ còn khỏe vẫn cứ bệnh. Nhất là thời điểm của chúng ta, có
những căn bệnh thầy thuốc phải bó tay, mà bệnh nhân đa số lại là người
trẻ. Đang vui tươi khỏe mạnh, khám phá ra bệnh gì đó bất trị, thế là cuộc
đời xem như tàn, chỉ còn lại sầu muộn, lo lắng, khổ sở cho đến chết dần
chết mòn. Cho nên chúng ta phải đọc trước những lá thư này, để khi đối
diện với hiện tượng đó, ta vẫn bình yên.
Đừng nói những
bệnh nan y, chỉ như nhức đầu thôi, Bác sĩ nói cần phải chụp hình mới định
bệnh được. Nghe vậy là đêm đó xem như mất ngủ: “Chu cha! Không biết có cái
gì trong đầu mình không?” Nếu bình tĩnh, biết rõ bản chất của thân này
không thật, các chất luôn chống trái nhau, ta tìm cách điều hòa cho ổn
thôi. Phật đã nói thân này như bốn con rắn độc nhốt chung một lồng, chúng
cắn nhau là chuyện bình thường. Vì vậy có bệnh ta không sợ, vui vẻ tìm
hiểu nguyên nhân sanh bệnh rồi uống thuốc theo sự hướng dẫn của Bác sĩ.
Quả thực chúng ta yếu đuối mà lại thích chơi những trò chơi nguy hiểm.
Nếu ta làm chủ
được, hoàn toàn hiểu lời Phật dạy, biết thân này không thật, tâm vọng
tưởng điên đảo không thật, chúng luôn cấu xé lẫn nhau. Biết rõ như vậy thì
còn gì khổ nữa, đằng này Phật dạy một đàng ta làm một nẻo, không bao giờ
quán chiếu, chiêm nghiệm đúng như lời Phật dạy. Thế nên phải chịu khổ đau
dài dài.
Đến lá thư
cuối cùng là cái chết. Có ai thoát được thần chết không? Thế tại sao ta
không lo cho mình, cứ vớ vẩn những chuyện thị phi đâu đâu. Những thứ đó
làm cho ta bất an bất ổn. Hết nhớ chuyện quá khứ lại nghĩ chuyện vị lai,
toàn là tào lao. Vọng tưởng một vòng, cuối cùng nhìn lại đúng là tào lao.
Như vậy từ ngày này sang ngày khác, giờ này sang giờ khác, cho nên ta mất
mình, ngược xuôi trôi nổi. Tới khi già chết đến, trở tay không kịp. Đây
giống như một bản án đã được tuyên án rồi, nhưng ta không có phương gì
chống chế.
Ở trên tôi có
nhắc đến từ “chuẩn bị”, tức là tôi muốn nói đến công phu tu hành của chúng
ta. Thật ra công phu hiện giờ của mình chưa có gì đảm bảo, chưa thể đương
đầu nổi với cái chết. Các Thiền sư nói ta phải học đạo, hành đạo, hạ thủ
công phu như thế nào để đảm bảo giải quyết được vấn đề sinh tử. Chúng ta
chưa giải quyết được vấn đề sinh tử là chúng ta còn trôi giạt trên “dòng
sông cuộc đời”. Chúng ta còn ham vui, bỏ qua thời gian quý báu, chưa thực
tâm nghiền ngẫm và áp dụng lời Phật dạy, nên chưa giải quyết được việc lớn
của mình. Ta không giải quyết được việc của mình, ai có thể giải quyết
đây? Không ai giải quyết được. Quý vị đừng đợi đến lúc già bệnh hay chết
rồi, thỉnh Thầy đến tụng kinh cầu an, cầu siêu là xong. Không được đâu. Ta
phải cầu an cầu siêu cho mình ngay bây giờ. Nên nhớ ở đây không có thời
gian nào để hẹn hò, chờ đợi.
Phật dạy bên
cạnh cái tâm giả còn có một cái tâm chân thật. Vì mình không nhận, không
sống được với tâm thật nên bị tâm vọng giả kéo lôi. Bây giờ làm sao loại
bỏ được tâm giả thì tâm thật hiện bày. Đây là vấn đề quan trọng nhất của
người tu chúng ta. Muốn thế, trước nhất chúng ta phải lắng nhìn thật sâu
các pháp, hiểu rõ vòng nhân quả tương ứng tương báo. Người con Phật phải
hiểu luật nhân quả. Không có pháp nào mà không đi từ nhân tới quả. Nhân
như thế sẽ đưa đến quả như thế, quả như thế là do nhân như thế. Nhờ đó ta
tu từ cái dấy niệm trong nhân, chứ đợi tới kết quả thì chậm mất rồi.
Nếu chúng ta
không lắng sâu nhìn kỹ, không thấy rõ lẽ thực của các pháp, thì các hiện
tượng quay cuồng trước mắt sẽ làm mình đảo điên theo nó. Như vậy là ta đã
mất mình rồi. Thế là cả đời lăng xăng ta không giải quyết được gì cho
chính mình. Người muốn an tâm, sống được với chính mình, phải dám buông,
dám thấy thủng bộ mặt thật của mọi thứ chung quanh.
Cũng nên lưu ý
một điều này, ở cái nhìn nếu chúng ta chỉ nhìn hình thức sơ sài bên ngoài
thôi, chắc chắn sẽ bị lầm. Phật dạy: “Người tu Phật phải có con mắt trí
tuệ”. Muốn có mắt tuệ, chúng ta phải lắng yên để nhìn thật sâu vào bên
trong, mới phát huy được mắt tuệ ấy. Mắt tuệ một khi đã mở sáng, chúng ta
mới thấy thủng được mọi vấn đề, thấy một cách sâu sắc và như thật. Ta nên
nhớ những món đồ giả chừng nào thì bên ngoài đẹp chừng ấy. Cho nên mới có
câu: “Phật cao nhất xích, ma cao nhất trượng”, luôn luôn cái giả trội hơn
cái thật. Vì vậy nếu không có con mắt tinh anh thì dễ lầm lắm.
Nghiệm lại
trong lòng ta cũng vậy. Những thứ lăng xăng, tào lao luôn nhiều hơn cái
chân thật. Ta cứ sống với các thứ hỗn tạp ấy mà bỏ quên của báu nhà mình.
Phiền não nhiều thì khổ nhiều. Trong từ ngữ Hán, chữ Phiền ( ) có bộ Hỏa
( ) một bên, bộ Hiệt ( ) một bên. Hỏa tức là lửa, Hiệt tức là cái đầu.
Cho nên nguyên chữ Phiền nói lên hình ảnh cái đầu bị lửa đốt. Chữ Não ( )
có bộ Tâm ( ) một bên, còn chữ bên cạnh hình dạng như tả bộ não. Cho nên
nguyên chữ Não nói đến cái tâm não không yên. Hai chữ “phiền não” là nói
trạng thái tâm không yên, giống như lửa đốt trên đầu. Do phiền não nên
khổ, muốn hết khổ phải hết phiền não.
Bây giờ làm
sao để hết phiền não? Đây là việc khó chứ không phải dễ. Bởi nhiều đời
chúng ta đã huân sâu tập khí phiền não, muốn gột rửa cũng phải bỏ nhiều
công sức và thời gian, chứ không thể nhanh được. Ta còn phải biết khai mở
con mắt tuệ nữa mới nhìn, hiểu đúng sự thật mà sửa đổi. Ví dụ nghe một
điều gì đó bực bội quá, bây giờ muốn hết bực bội phải làm sao? Ta thử đặt
trường hợp thế này, có anh chàng không lưỡi nói cho kẻ không tai nghe, thì
làm sao phát bực được chứ! Người không lưỡi chửi bao nhiêu mình cũng cười
thôi, phải vậy không? Quán sát như thế ta liền hết bực, hết bực tức là hết
phiền não.
Thường xuyên
chiêm nghiệm, quán chiếu như vậy để cuối cùng chúng ta thấy lời nói không
thật, người nói cũng không thật, vậy phiền não từ đâu ra? Chịu khó quán
chiếu, chúng ta sẽ nhận chân một cách đích thực, thấu đáo chân tướng của
các pháp. Khi nhận ra như vậy rồi, tức là ta đã khai mở được mắt tuệ của
mình. Việc này không thể tìm trong sách vở, trong các phương tiện, mà phải
soi lại chính mình, tìm nơi mình. Như tôi đã nói đó là tác phẩm của mình,
là con đẻ của mình. Chính ta sinh sản ra rồi chính ta bỏ nó, chứ không
phải ai hết.
Những ước vọng
hay nói cho cùng là những tham vọng đều bắt nguồn trong ta. Cho nên bao
giờ dừng được nó thì ta mới sắp đặt được cho đời mình, hay nói đúng hơn là
làm chủ được mình. Phật nói tham dục tức những mong muốn tham chấp là gốc
khổ. Trong cuộc sống lúc nào chúng ta cũng ước mơ. Có những ước mơ đúng
với chánh pháp, có những ước mơ sai với chánh pháp. Làm sao ta nuôi dưỡng
những ước mơ giúp ích cho hướng tu tập của mình, ngoài ra những ước mơ đưa
đến tham lam, sân hận… thì phải loại bỏ ngay.
Ví dụ trời
đang nóng nực, mồ hôi nhễ nhại ta liền ước mơ “Phải chi trời có một chút
gió thì mát biết mấy!” hoặc “Phải chi có cái quạt máy nhỏ thì khỏe biết
mấy!”, hoặc “Phải chi có một dòng sông cho ta bơi lội thì thích biết mấy!”
Những cái “phải chi” đó không được đáp ứng thì ta nghe ray rứt, khó chịu
tức là trong lòng bất ổn rồi. Với những ước mơ như vậy, ta biết sẽ đưa đến
khổ đau thì loại bỏ nó đi. Trong kinh Phật dạy phải tri túc, biết đủ thì
hết khổ.
Bây giờ tới
ước mơ muốn hết khổ, muốn giác ngộ giải thoát như Phật. Đó là ước mơ tốt.
Với ước mơ này ta nên nỗ lực thực hiện cho thành tựu. Tức là chúng ta làm
sao dừng bớt được những tham dục, sân hận, si mê nơi mình. Sống biết đủ
thì cuộc sống luôn bình ổn. Luôn giữ ý chí và tinh thần sáng suốt, tỉnh
giác, nghĩa là phải tu trong từng sát na, từng tâm niệm. Người xưa nói làm
việc gì một nắng mười mưa thì không thành, giả như có thành cũng thành
công trong sự non kém. Giống như trồng cây, tưới một lần rồi bỏ đó, mười
ngày sau mới tưới lại, nếu nó sống cũng chỉ sống èo uột, không phát triển
gì được.
Sự tu tập của
chúng ta cũng vậy, phải làm sao giữ được tâm niệm tốt, luôn hướng về Phật
pháp, vì sự tu hành của chính mình, bỏ qua tất cả những chuyện tạp loạn.
Giữ được như vậy, tùy hoàn cảnh, khả năng mà thăng tiến, nhất định sẽ có
kết quả. Nhiều Phật tử nói với tôi: “Tu khó lắm Thầy ơi!”, tôi có bảo dễ
bao giờ đâu. Nếu dễ thì chúng tôi thành Phật hết rồi. Nhưng có điều, nếu
chúng ta giữ được đạo tâm kiên cố thì có thể chuyển khó thành dễ. Đi chậm
mà ngày nào cũng đi, nhất định sẽ đến nơi; còn người đi nhanh nhưng chỉ
được một quãng, rồi dừng chân hoặc thụt lùi thì khó mong đến đích.
Ngài Đại An
trước khi là một Thiền sư nổi tiếng, đã đến với Tổ Bá Trượng. Một hôm,
ngài thưa với Tổ:
- Học nhơn
muốn biết Phật, thế nào mới phải?
Tổ trả lời:
- Hệt như cưỡi
trâu tìm trâu.
Ngài hỏi tiếp:
- Sau khi biết
được rồi thì làm sao?
- Như người
cưỡi trâu về nhà.
Ngài hỏi tiếp:
- Chưa biết
bảo nhiệm thế nào?
- Như người
chăn trâu, tay cầm roi, mắt dòm chừng, chẳng cho nó phạm vào lúa mạ của
người.
Từ khi nắm
được yếu chỉ này, Ngài chẳng còn tìm cầu đâu nữa.
Ý chỉ này ở
đâu? Khi Ngài hỏi cách làm Phật, cách hết khổ, thì Tổ trả lời: “Hệt như
người cỡi trâu tìm trâu”. Tức người đang an lạc, đang giải thoát, mà cứ
kêu cầu cứu khổ. Ngài lại hỏi: “Khi biết được rồi thì làm sao?”, Tổ bảo:
“Như người cỡi trâu về nhà”. Biết đó là nguyên nhân khổ thì đừng gây nhân
đó, buông đi là hết khổ chứ có gì đâu. Rõ ràng như vậy. Đây là những việc
hết sức thông thường. Muốn người ta đừng chửi mình thì mình đừng chửi
người ta. Muốn thiên hạ thương mình thì mình phải thương họ. Cũng vậy,
muốn hết khổ thì đừng bày nhân khổ.
Kế Ngài hỏi:
“Phải bảo nhiệm thế nào?”, nghĩa là con phải tu làm sao. Đây, Tổ dạy cách
tu “Như người chăn trâu, tay cầm roi, mắt dòm chừng, chẳng cho nó phạm vào
lúa mạ của người”. Chúng ta thấy tu học như các Ngài khỏi tụng kinh, khỏi
nghe giảng, khỏi ngồi thiền, nghe dễ dàng làm sao! Nhưng với điều kiện
phải chăn con trâu của mình thật kỹ, đừng để nó chạy rong, phạm vào lúa mạ
của người. Hay nó không chịu đọc thư Diêm Vương, mình phải kéo lại, biểu
nó “Đọc thư Diêm Vương đi”.
Hôm nay chúng
tôi chọn đề tài “Quán niệm cuộc đời”, để nói lên những nỗi khổ trong hiện
đời của chúng ta, do tự mình gây chứ không phải ai cả. Cuối cùng nguyên
tắc để giải trừ những nguyên nhân đó, giống như người chăn trâu. Phải có
dây, có roi mới xỏ mũi được con trâu. Mỗi khi nó liếc ngó, phạm vào lúa mạ
của người thì “quất”, kéo nó trở về đường ngay, lối thẳng. Đừng nghĩ rằng
học Phật pháp nhiều, hiểu Phật pháp nhiều mới gọi là tu. Không phải. Có
khi hiểu nhiều làm chướng cho chúng ta thêm. Chính yếu là biết áp dụng
Phật pháp vào đời sống hiện thực của mình. Như vậy mới đối đầu được với
những trở lực của cuộc đời.
Vậy thì ngay
bây giờ chúng ta bắt tay ngay vào việc chăn trâu. Chúng tôi chăn trâu, quý
vị cũng chăn trâu. Nhất định chúng ta sẽ thuần hóa được con trâu hoang của
mình, sẽ hết khổ. Chúc quý vị thành công. |