MAI VÀNG ÁNH ĐẠO

Xuân Đinh Hợi 2007

H.T THÍCH NHẬT QUANG

TÁM GIAI ĐOẠN TU THÀNH PHẬT

 

Ngày đầu xuân là ngày mang tin vui lớn nhất đến cho chúng ta, bởi v́ ngày này đức Phật tương lai Đại từ tôn Di Lặc đản sinh. Nhân đây, chúng tôi nêu lên những giai đoạn mà người con Phật phải trải qua trên bước đường tu tập.

Chúng ta biết không có vị Phật nào trong thời tu nhân mà chỉ nằm nghỉ, đi chơi, bách phố la cà khắp nơi, cuối cùng được thành Phật. Tất cả chư Phật đă thành, sẽ thành đều trải qua quá tŕnh tu tập Phật đạo, siêng năng, tinh tấn bất thoái chuyển trong thời gian dài vô số kiếp. Các ngài đă sống trải, tu tập, phát nguyện, chịu tất cả sự khó khổ, gian nan nhất trên cuộc đời mới thành tựu Phật đạo. Thông thường chúng ta được học, trong vô số kiếp thứ nhất các ngài ở những vị Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, đó là bốn mươi cấp căn bản. Đến vô số kiếp thứ hai từ Sơ Địa cho tới Bát Địa Bồ-tát. Vô số kiếp thứ ba từ Bát Địa cho đến Thập Địa, Đẳng Giác, Diệu Giác thành Phật.

Chúng ta bây giờ đang ở vô số kiếp thứ mấy, đă đi được bao nhiêu, tu tập ra sao? Không ai biết cả. Thỉnh thoảng có vị than tu hoài không thành Phật, dâng hương lễ Phật nói với Phật: “Bạch Ngài, con tu bao nhiêu năm rồi mà không thành Phật, cũng chẳng giác ngộ giải thoát. Những thứ bất như ư đầy dẫy, con làm sao giải tỏa được nó đây?” Như đă nói, chúng ta chưa biết ḿnh ở vô số kiếp nào, trên quá tŕnh từ nhân địa tới Phật đạo, do đó cần phải tự đả thông bằng đạo lư do chính ḿnh thể nghiệm.

   Ở đây, chúng tôi nêu lên tám giai đoạn thể nghiệm để huynh đệ cùng chiêm nghiệm, chia sẻ trên bước đường tu học của chúng ta.

Tám giai đoạn đó thế này:

 

1. Trai giới thanh tịnh:

 

Chúng ta cùng nhau nghiệm xem trai giới của ḿnh thanh tịnh chưa? Nếu chưa mà cứ than thở bạch Phật “tu hoài không xong” th́ tự ḿnh phải điều chỉnh lại. Hầu hết Phật tử đều đă thọ giới, ít nhất là năm giới. Qua năm giới ấy, ḿnh nghiệm xem giữ được giới nào, hành tŕ có trang nghiêm hoàn chỉnh không, hay c̣n những giới chưa giữ được. Nếu c̣n một chút chưa giải quyết được th́ là chúng ta chưa hoàn chỉnh bước thứ nhất. Bước thứ nhất chưa hoàn chỉnh mà nhảy qua bước thứ hai th́ có khi phải quanh trở lại.

Trên thức tế có vị tu hành cũng đàng hoàng, giới đức trang nghiêm, đạo hạnh đầy đủ, nhưng đùng một cái thiên hạ ngạc nhiên khi nghe vị ấy quay về thế tục. Dạng này do có những bước nhảy vượt, không cơ bản, không vững chắc, nên mới xảy ra như thế. V́ vậy người tu trước nhất phải hoàn chỉnh giai đoạn trai giới thanh tịnh. Chúng ta có thể kiểm nghiệm và biết được ḿnh thanh tịnh hay chưa thanh tịnh. Thanh tịnh đến mức độ nào?

Về phía Phật tử cư sĩ, ít nhất quí vị thọ năm giới, ngoài ra c̣n thọ thêm mười giới Thập Thiện, có vị phát tâm thọ năm mươi tám giới Bồ-tát nữa. Tóm lại, trong hàng cư sĩ có ba cấp giới học. Cấp thứ nhất là năm giới căn bản, cấp thứ hai là giới Thập Thiện. Người giữ tṛn mười giới Thập Thiện đời sau sẽ được sanh thiên, nếu giữ không tṛn th́ thay v́ đi thẳng lên thiên giới, vị ấy né qua một bên lọt vào cơi A Tu La. Nghe nói thế giới A Tu La ai cũng ngán, v́ nó lạ lùng lắm. A Tu La nữ rất hoàn chỉnh, c̣n A Tu La nam có khi mang đầu trâu mặt ngựa, nóng nảy dữ dằn. Do vậy họ thường hay gây chiến với chư thiên. Chúng ta học trong sử thấy ngài Long Thọ, Mă Minh, từ tuệ nhăn thấy đầu, tay, chân… từ đâu rơi xuống đầy máu me. Quí Ngài biết là do chúng A Tu La đánh nhau với mấy ông trời. Nói thế, không phải A Tu La không có phước. Phước họ gần như chư thiên, nhưng v́ quá sân giận nên không b́ lại cơi trời. Nên biết hậu quả của sân hận lớn lao vô cùng. Giống như một đóm lửa nhỏ chúng ta không dập tắt, nó sẽ cháy lan khắp. 

Trở lại vấn đề tu tập ở bước đầu là giới học. Khi quí thầy trao truyền giới cho quí Phật tử, thường hay nói: “Quí vị giữ được những điều giới đó là tu”. Giới học là pháp tu, Phật tử giữ được những điều giới đó là bảo toàn nhân cách. Giữ được giới quí vị khỏi sợ mai mốt nhắm mắt bị ma quỷ bắt. Giữ năm giới hoàn toàn là nhất định Phật tử sẽ sống an ổn, vui vẻ. Khi chết biết được đường đi, không sợ hăi hay nghi ngờ ǵ cả. Đó là ở cấp năm giới.

Nếu không tŕ giới, ở nhân gian đi xuống th́ thời gian vô cùng. Các vị thánh nói cơi địa ngục một ngày một đêm bằng ở nhân gian một trăm năm. Tuy nhà Phật bảo mọi pháp đều giả hợp mà một trăm năm đâu phải là ngắn. Con người từ lúc mới sinh ra, lớn lên xinh đẹp khôn ngoan như thế, nhưng đến bảy tám mươi là đi hết nổi. Có khi mới bốn mươi, năm mươi tuổi cũng đi hết nổi rồi. Thời gian tuy không thật nhưng quả báo ḿnh chịu đựng rất đáng kể, chứ không phải thường.

Các vị Phật tử tại gia đă thọ hoặc năm giới, mười giới, trong cấp độ này từng bước tu tập quí vị đă có thể nghiệm, có công phu. Từ đó quí vị nhận ra được hướng đi, chỗ đến của ḿnh ra sao. Đặc biệt hơn, nếu vị nào phát tâm thọ năm mươi tám giới Bồ-tát, là Phật tử tại gia nhưng tư cách hành xử như một vị Bồ-tát. Đây là điều đáng quí, đáng khích lệ. Thế nên hàng Phật tử cần phải giữ ǵn những thành tựu ban đầu như thế, để làm thềm thang tiến lên quả vị giải thoát cứu kính.

Nói về trai. Phật tử c̣n nhớ trong lễ quy y Tam Bảo, quí thầy dạy: “Ăn chay hay mặn ǵ cũng tu hết, giữ được năm giới là tu”, nhưng “Ăn chay phát triển được ḷng nhân, gần gũi tâm từ bi, dễ đi đến thành tựu tâm đại từ đại bi”. Chúng ta là đệ tử Phật, bắt đầu quy y, tập sống theo đời sống của Phật, Bồ-tát th́ đối với việc ăn chay cũng nên thực hành để nuôi dưỡng và phát triển tâm từ.

Nói về “trai” là nói đến chế độ ăn uống của người Phật tử. Điều này không bắt buộc ai cả, nhưng nếu quí vị có cách ăn uống tốt th́ cũng hỗ trợ cho công phu tu nhiều lắm. Bước ban đầu chúng ta phải giữ giới thanh tịnh là dĩ nhiên rồi, nhưng trai th́ có vị ăn chưa được. Lại có người không phải là Phật tử mà ăn chay trường. Hiện nay y học nghiên cứu thấy ăn chay ngừa được một số bệnh nan y, v́ vậy trên thế giới người ta ăn chay nhiều lắm. Nếu Phật tử nào vừa giữ giới vừa ăn chay được th́ có thể nói là hoàn chỉnh phần trai giới. Vị nào chỉ giữ giới mà chưa giữ trai th́ chưa hoàn chỉnh được bước đầu. Như vậy con đường Phật đạo c̣n dài xa lắm.

 

2. Không thoái lui trên con đường Phật đạo:

 

Ở đây muốn nhấn mạnh không thoái lui tâm Bồ-đề. Tâm Bồ-đề là tâm cầu Phật đạo, cầu giác ngộ. Người Phật tử làm sao gầy dựng được bước đi căn bản luôn tiến, luôn vững, không v́ bất cứ lư do ǵ thoái tâm Bồ-đề. Khi tâm Bồ-đề thoái rồi th́ con đường Phật đạo xem như bị ngó lơ, ḿnh quay lưng đi. Một khi ta đă ngó lơ, đă quay lưng th́ không biết bao giờ ḿnh mới chịu t́m, chịu nhận lại ông Phật thật sẵn có nơi ḿnh. V́ vậy quí thầy hướng dẫn các Phật tử tu tập, luôn luôn quan tâm e ngại ở giai đoạn này. Có thể v́ lư do bức xúc nào đó, Phật tử đi chùa một thời gian thấy chán nản, tu tập một thời gian thấy chán nản. Đó là biểu hiện của thoái tâm Bồ-đề. Một khi đă nản, đă quay lưng rồi, gầy dựng trở lại rất khó.

Trong sử học có nói về gia đ́nh ông Cấp Cô Độc, là vị đại thí chủ của tăng đoàn thời đức Phật c̣n tại thế. Ông sẵn sàng đem tất cả kho báu của ḿnh ra dâng hết cho Tam Bảo. V́ vậy Phật cần xây dựng chỗ nào, chư tăng cần làm việc ǵ, ông đều cung cấp hết. Bởi ông phát tâm như vậy nên trong gia đ́nh cũng có một ít người không ưng, trong đó có bà giữ kho. Bà chuyên giữ kho, khi chư tăng cần cái ǵ, có giấy của trưởng giả, ngoài mặt bà không dám nói nặng nhưng trong bụng cằn nhằn “sao mấy sư cứ ṿi vĩnh hoài vậy, không biết xấu hổ”. Thấy chư tăng từ xa là bà nghĩ không biết bữa nay mấy ông thầy tới làm ǵ nữa đây? Bà bực bội lắm.

Một hôm, đức Thế Tôn nghĩ bà nghiệp chướng sâu dày, ngài muốn độ nhưng biết bà lăo không có duyên ngài. Khi thấy Phật đi đằng kia bà ngó chỗ khác. Phật biết thế nên hóa hiện ra nhiều thân, có mặt khắp mọi hướng. Nơi nào bà ngó đều có Phật đi tới, bà liền ngó xuống đất. Phật biết ḿnh không có duyên với bà ta rồi, Ngài liền quán sát trong tăng đoàn, thấy có một người độ được bà. Đó là La Hầu La. Mỗi khi thấy ngài La Hầu La từ đằng xa là bà đứng dậy chạy ra đón mừng. Không ǵ lạ, bởi duyên trong nhiều đời bà đă từng là mẹ của ngài, nên c̣n hơi hướm t́nh thương thuở trước, do đó tôn giả La Hầu La là người độ bà.

Ở đây trên con đường Phật đạo dài lâu, chúng ta từng bước gầy dựng, quan tâm ǵn giữ làm sao tâm Bồ-đề của ḿnh vững chắc, không để thoái tâm. Cố gắng ǵn giữ th́ những sự kiện phát sinh trong giai đoạn tu tập không làm ǵ được chúng ta. Phải biết nuôi dưỡng tâm Bồ-đề, v́ đó chính là bảo vệ tánh giác của ḿnh. Đức Phật không bao giờ chấp nhận những ai bữa nay hứng lên ngồi thiền bỏ ăn, ngồi suốt đêm suốt ngày. Làm được hai ba ngày, sau đó thấy mệt bỏ luôn. Tu kiểu một nắng mười mưa như vậy nhất định không bao giờ thành công cho được.

Con đường Phật đạo liên tục dài lâu, chịu đựng gan dạ và phải một bề tiến thẳng mới đến nơi đến chốn được. Thành ra ở bước thứ hai, chúng ta phải bảo vệ được tâm Bồ-đề. Nghĩa là từ hồi chúng ta mới bén duyên đến với đạo, chưa hiểu biết ǵ về đạo, rồi từ từ học Phật, phát tâm tu hành, nuôi dưỡng dần dần cho tới khi chúng ta hiểu đạo, áp dụng tu tập. Chúng ta giữ cho được liên tục, không để bất cứ lư do ǵ làm hỏng đi. Chủng tánh Bồ-đề mà bị hư thối rồi th́ không làm sao gầy dựng lại được. Luôn luôn với tâm thành khẩn, hướng tiến, biết rơ con đường dài lên dốc ngược, chúng ta phải gắng gỗ mà đi, đi măi. Như thế không tính thời gian, gặp khó khăn chi cũng cứ tiến thẳng, nhất định sẽ thành công.

 

3. Phát đại nguyện rộng lớn:

 

Người tu hành nào cũng phát đại nguyện hết. Trong thời khóa chúng ta tu tập hằng ngày có mười hai lời nguyện, đó là những đại nguyện. Tại sao gọi là đại nguyện? V́ đó là những lời nguyện tỉnh táo sáng suốt để thành tựu Phật đạo. Chúng ta không nguyện được bao nhiêu vàng, bao nhiêu tài sản, không nguyện có thân tướng như trời như vua, mà nguyện tâm Bồ-đề được kiên cố, nguyện tất cả những vị thiện hữu tri thức trong mười phương v́ ḷng thương tưởng mà hỗ trợ cho ḿnh thành tựu được đại nguyện. Chúng ta cũng biết những vị đó đang tiến hoặc tiến trước ḿnh một khoảng trên con đường tu tập Phật đạo, họ chưa xong việc. Do vậy có thể họ cũng không cho ḿnh được ǵ cả. Song ta chỉ mong họ có điều kiện hỗ trợ ḿnh, giống như hai người bạn cùng làm ăn với nhau. Một người bị hoàn cảnh suy sụp, công việc làm ăn thất bại, tài sản tiêu hết. Một người có điều kiện phát huy được trở thành giàu có vô cùng. Bây giờ người bạn thân đă bị khánh kiệt không mong người kia đem cho ḿnh tài sản, mà chỉ mượn thôi, khi gầy dựng sự nghiệp được sẽ trả lại.

Cũng thế, người đệ tử Phật hiểu biết một cách cụ thể, sống vững với tinh thần Phật lư căn bản là ḿnh chỉ nương nhờ tạm thôi. Ở đây thiện hữu tri thức hỗ trợ cho những lời nguyện của ḿnh. Chúng ta chưa thành Phật nhưng phát nguyện thành Phật, chưa độ chúng sanh nhưng phát nguyện khi giác ngộ sẽ độ hết chúng sanh. Tôn giả A Nan khi nhận ra được yếu chỉ rồi, ngài phát nguyện trước đức Thế Tôn: “Con nguyện độ tất cả chúng sinh được thành Phật rồi con thành mới thành Phật. Nguyện Phật chứng minh và hỗ trợ cho con thực hiện được lời nguyện này”. Đây là cách phát đại nguyện của chư vị Bồ-tát.

Đức Phật trong thời tu nhân hành Bồ-tát đạo, có một khoảng ngài rơi vào địa ngục, thấy nhiều tội nhân bị hành hạ khổ sở vô cùng. Quỷ sứ bắt họ kéo chiếc xe bằng sắt rất nặng, bọn chúng đứng trên xe đâm chém vào người tội nhân. Hoặc cho tội nhân đội ṿng lửa xoay trên đầu. Nghe tiếng rên la, kêu gào đau đớn thống khổ của họ, Ngài thương quá nên phát nguyện: “Tôi nguyện thay tất cả nỗi khổ này cho chúng sinh, nguyện từ nay về sau đứng ai gầy dựng nhân xấu để rơi vào địa ngục chịu muôn vàn sự thống khổ như thế này. Ngài  vừa phát nguyện như vậy đó th́ những chiếc xe sắt rớt ra hết, và bỗng nhiên ngài thấy ḿnh bay lên hư không. Nhờ tâm từ bi mở ra, ngài phát nguyện thay khổ cho tất cả chúng sanh, nguyện mười phương các bậc hiền thánh hộ tŕ giúp cho chúng sanh hết mê lầm, không gây tạo những nghiệp nhân bất hảo, để đừng bị đọa vào địa ngục, nên ngài ra khỏi chốn lửa dữ.

Ở đây nói phát đại nguyện là như vậy, tức là phát tâm  giác. Phát được tâm giác rồi th́ tất cả cửa mở ra. Chúng ta hễ phát tâm được th́ ḿnh vui vẻ, trong ḷng cởi mở. Ngược nếu nếu chấp chặt thí sẽ bị mất hết. Như người sợ kẻ trộm, làm rào dậu, chuông điện đủ thứ, càng sợ nó càng t́m vô lấy của. Cuối cùng mỗi nghiệp theo nghiệp mà trôi lăn. Khi học Phật pháp rồi chúng ta thấy con người khó cưỡng lại được nghiệp của ḿnh, chớ không phải họ không biết.

Nói tới đây tôi nhớ hồi nhỏ lúc tôi ở chùa Vạn Đức. Vùng đó hồi xưa có nhóm bụi đời dữ dằn lắm. Tên chúa đảng có sở thích là ban đêm muốn ăn cháo gà, nên đàn em đêm nào cũng kiếm gà về nấu cho anh ta ăn. Đàn em kiếm riết rồi sợ quá, v́ người ta bảo vệ gà rất kỹ, cuối cùng đích thân hắn đi. Bữa đó thấy ảnh chết, tôi đi ngang cũng không dám ngó nữa. Người nuôi gà giăng điện trên bờ rào, ảnh vừa nhảy vô nằm vắt ngang trên đó bị điện giựt chết. Họ lôi ra để ngoài đường từ sáng cho tới chiều, cả gia đ́nh của anh đi ngang cũng không dám nhận. Thiên hạ phỉ nhổ, chê cười. Thật ra, không phải anh không biết điện giật sẽ chết, nhưng do cái nghiệp nó sai khiến dẫn đi như vậy.

Nói tóm lại phát đại nguyện là mở ḷng ra, phát tâm giác, cầu giải trừ tất cả nghiệp tập, tu hành cho tới viên thành Phật đạo.

 

4. Tâm từ b́nh đẳng:

 

Ḷng thương trải rộng b́nh đẳng không phân biệt thân sơ. Muốn có được tâm từ b́nh đẳng quả thực rất gian nan. Trong cuộc sống có những trường hợp, những con người vừa gặp tự nhiên ḿnh thương. Có người ḿnh phải phân tích, phải phát tâm lắm mới thương nổi. Bây giờ làm sao quí vị thương được kẻ vừa lấy trộm đồ trong nhà ḿnh, điều này khó lắm. Nội ḿnh đang đi đây, rủi họ đụng mà không xin lỗi, có vẻ kênh kênh là ḿnh muốn đập rồi, chứ ở đó mà nói thương. Nhưng trong tinh thần Phật dạy chúng ta phải thương được, xóa được, b́nh đẳng được với những người như thế.

Muốn thực hành điều này, chúng ta phải nhớ lời Phật dạy là tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, tất cả đều là Phật sẽ thành. Như vậy sẽ không có ông Phật nào giận ông Phật nào hết. Ḿnh giận là không phải Phật rồi. Ta đâu nỡ ḷng nào phủ nhận ḿnh không phải là Phật. Do vậy nên dù sự cố xảy ra làm sao, chúng ta cũng cố gắng hành tŕ chỗ này. Không giận một vị Phật tương lai nào cả, đó là giữ được tâm b́nh đẳng giữa Phật Phật với nhau.

Trong kinh Pháp Hoa có một phẩm ghi lại h́nh ảnh tu tập và hoằng hóa của Bồ-tát Thường Bất Khinh. “Thường” là lúc nào cũng như vậy, “Bất Khinh” là chẳng dám xem thường ai hết. Phương pháp giáo hóa của ngài là đi đâu, gặp ai từ xa bất luận tăng ni hay đạo tục, ngài đều chấp tay bái bái nói lớn: “Tôi không dám khinh các ngài, các ngài là Phật sẽ thành”. Bài thuyết pháp và hành động của ngài lúc nào cũng như thế. Bài thuyết pháp ấy nhắc cho chúng ta nhớ ḿnh là Phật sẽ thành, tức chúng ta có ḍng họ, có chủng tử Phật. Phát huy tinh thần tu tập Bồ-tát đạo của các Phật tử là như thế.

Phát đại nguyện, phát Bồ-tát tâm, gầy dựng tinh thần b́nh đẳng triệt để, là bắt đầu bước những bước khó rồi. Cho nên nói con đường tu tập Bồ-tát hạnh đi đến viên thành Phật đạo là con đường dài lâu, kiếp số vô lượng vô biên. Đức Thế Tôn đă cho chúng ta biết ngài trải qua những giai đoạn như thế trong ba a tăng kỳ kiếp. V́ vậy cần phải lập chí thật vững chắc, siêng năng tinh cần, không tính hạn lượng, chỉ một tâm hướng đến việc tu tập mà thôi.  

 

5. Hạ thấp ḿnh để cầu học Phật pháp:

 

Khi tu hành, chúng ta được sự hướng dẫn của chư tăng, quí thầy thường dạy, người Phật tử gặp chư Tăng Ni và các bạn đạo của ḿnh, phải chấp tay chào: “A Di Đà Phật”. Gặp nhau thưa anh thưa chị là phép tắc ngoài đời. V́ có anh chị th́ có hoặc là anh chị họ nội, hoặc anh chị họ ngoại. Rồi anh chị bên họ nội gần gũi hơn anh chị bên họ ngoại hoặc ngược lại v.v… phân biệt nhiều chừng nào th́ phiền năo phát sinh chừng nấy. Trong đạo không như thế, gặp nhau người lớn người nhỏ, người quen người không quen đều là bà con hết, v́ tất cả đều là Phật sẽ thành hết, nên chấp tay xá chào: “A Di Đà Phật”. Bây giờ chúng ta tu Bồ-tát đạo để viên thành Phật đạo th́ nhất cử nhất động ǵ cũng đều hướng về Phật đạo.

Cho nên ở giai đoạn thứ năm phải hạ ḿnh xuống học đạo. Tất cả mọi công phu, việc làm trong đạo, không thể nghe sơ qua mà làm được, phải học, phải có thầy. Chúng ta luôn được hướng dẫn, hun đúc tinh thần tu tập trong một môi trường, một điều kiện nhất định. Quí Phật tử thấy chư Tăng Ni xuất gia như chúng tôi, được hun đúc trong một thiền viện để nuôi dưỡng phát huy tinh thần cầu đạo giác ngộ giải thoát. Bởi v́ việc này khó chứ không phải dễ, không phải nói là làm được. Có khi nói được, nói rất hay mà làm không được, cho nên phải được khép trong một cái khung, để từng bước chúng ta làm cho được. V́ thế người vào đạo bước ban đầu phải khiêm nhường, hạ thấp xuống để học, dù cho bản thân ḿnh là hạng người nào.

Chúng ta đọc kinh, thấy các vị Bồ-tát học đạo nơi những người thị hiện loài súc sanh. Bồ-tát học đạo với chồn, cáo, hổ chẳng hạn. Bởi v́ có khi các loài súc sanh ấy là lớp thị hiện của Bồ-tát để thử tâm người học đạo. Trong kinh Phật nói giáo pháp của đức Thế Tôn không phân biệt chủng tộc, giai cấp. Đức Phật thị hiện ra đời để phá giai cấp, nhất là bốn giai cấp đè nặng trên vai người Ấn Độ. Trong đó giai cấp Thủ Đà la là giai cấp thấp nhất, bị đè bẹp, bị bóc lột, phải làm nô lệ cho cho các giai cấp trên từ đời này sang đời khác, không thể cất đầu lên được. Trong giáo đoàn của đức Phật có những vị A La Hán, gốc tích từ ḍng nô lệ, như trưởng lăo U Ba Li, vị Thánh đệ tử hành luật bậc nhất.

Có lần đức Thế Tôn trên đường hoằng hóa, gặp một vị trong giai cấp Thủ đà la. Thường những người giai cấp này có cái chuông gắn nơi chân, họ đi đâu chuông kêu keng keng, báo động những ḍng tộc quư phái biết có bọn Thủ đà la ở gần nên tránh đi, v́ gặp là xui lắm. Người này đang gánh phân, nghe nói có đức Thế Tôn ở trước, ông sợ quá t́m cách tránh. Đức Phật quán sát thấy người này hữu duyên, có thể hóa độ được, nên ngài thị hiện khắp mọi ngỏ ngách. Ông tránh chỗ nào cũng gặp Phật hết. Cuối cùng đức Thế Tôn nhiếp phục, độ vị Thủ Đà La này thành Tỳ-kheo và chẳng bao lâu vị ấy chứng Thánh quả. Sự việc này khiến vua Ba Tư Nặc rất bất măn. Bởi v́ vua là đệ tử Phật, mỗi lần lên hầu chuyện Phật, thưa hỏi Phật pháp, nhà vua đảnh lễ đức Thế Tôn và tất cả các vị thánh A La Hán, trong đó có ông Thủ đà la này.

Chịu hết nổi, vua nhất định t́m đức Thế Tôn, tŕnh bày cho ra lẽ: Muốn giáo đoàn cao quư tốt đẹp, v́ sao Như Lai lại nhận những người như thế vào trong tăng đoàn? Hôm ấy ông đến, đức Thế Tôn đang nghỉ trưa, cửa đă đóng. Có một vị tỳ-kheo ngồi bên ngoài, ông tới chấp tay thưa: “Bạch thầy, làm ơn cho tôi vào gặp đức Thế Tôn”. Vị Tỳ-kheo nói bây giờ là buổi trưa, chư tăng chỉ tịnh, đức Thế Tôn đang nghỉ ngơi. Vua nói: “Không, tôi là đệ tử đặc biệt của Phật, tôi đến giờ nào Phật cũng cho gặp hết. Phiền ngài hoan hỷ tŕnh lại đức Thế Tôn là có vua Ba Tư Nặc tới yết kiến Như Lai”. Vị tỳ-kheo thấy không ngăn được, ngang cổng tinh xá có một cục đá to, ngài dụng thần lực đi xuyên qua cục đá ấy, vào trong không cần mở cửa. Vua thấy nể quá, thầy giữ cửa của đức Phật mà có thần thông như thế, nên không dám khinh suất giáo đoàn. Sau khi Tôn giả ấy vào thưa với đức Phật, Thế Tôn hoan hỷ cho vua vào.

Gặp Phật nhà vua đảnh lễ, lời đầu tiên của vua là: “Kính bạch đức Thế Tôn, tôn giả giữ cửa hôm nay là tôn giả nào mà có thần lực đặc biệt như thế?”. Đức Phật cười nói: “Đó là người hôm nọ gánh phân trong ḍng Thủ đà la hạ tiện đó, nay đă xuất gia đă thành thánh quả rồI”. Nghe xong lời này, nhà vua phá tan tâm đố kỵ, cố chấp về giai cấp của ḿnh.

Cho nên trên bước đường tu học, chúng ta phải hạ tâm xuống học hỏi với tất cả mọi người.

6. Tâm từ bi nhẫn nhục:

 

Tâm từ của chúng ta có chứ không phải không, nhưng nó giới hạn lắm. Tiền thân đức Thế Tôn tu nhân bố thí, ngài phát nguyện bố thí con mắt. Nhưng từ sáng tới chiều không có người đến xin, Bồ-tát rất buồn. Khi có người tới xin ngài rất hoan hỷ, người xin chưa kịp hỏi, ngài đă móc mắt cho rồi. Người kia cầm lên nói: “Tôi xin con mắt phải, ngài cho con mắt trái, đâu có dùng được”. Nói xong, kẻ ấy ném con mắt của đức Phật xuống đất. Nếu lúc đó tâm từ bi vô ngă vị tha không phát triển th́ sân hận nổi lên. Song Bồ-tát tu hạnh bố thí Ba la mật, chẳng những không sân giận mà c̣n vui vẻ móc con mắt c̣n lại cho nốt. Chỉ có tâm từ bi, b́nh đẳng mới thành tựu được như thế.

Cho nên trong giới hạnh tu Bồ-tát đạo để đi đến Phật đạo khó khăn vô cùng, chúng ta thành tựu được mới viên thành Phật đạo. Từ bi nhẫn nhục mà không thấy có ḿnh, có người mới có thể đạt ba la mật. Người tu phải đầy đủ dũng lực, trí lực khả dĩ thực hành hạnh này tới nơi tới chốn. Bằng ngược lại, yếu đuối hoặc không có trí tuệ th́ không thể thực hành hạnh từ bi nhẫn nhục một cách rốt ráo được.

 

7. Tinh tấn giải thoát:

 

Tinh tấn trên con đường giải thoát, cuối cùng làm được tất cả việc khó làm, bỏ được tất cả việc khó bỏ. Hai chặng này là hai chặng viên măn nhất.

Có những việc làm chúng ta thể hiện được tinh thần Bồ-tát, nhưng tâm Bồ-tát chưa hoàn toàn viên măn. Do vậy nên ḿnh chỉ làm trong một chừng mực nào thôi. Bây giờ chúng ta phải mở rộng biên cương ấy ra, xóa hết mê ngộ mới viên thành Phật đạo. Như trời trưa nắng gắt, gánh nặng đường xa, muốn đi đến nơi th́ những ǵ trong gánh phải bỏ hết, cuối cùng cái gánh cũng bỏ luôn. Thân này, hoàn cảnh này, sự sống này, tất cả sự kiện chúng ta loại bỏ hết.

Ḥa thượng thường dạy, thân này không thật, hoàn cảnh không thật, các pháp không thật, tâm của ḿnh cũng không thật nữa. Do vậy ḿnh vững vàng bỏ tất cả những cái không thật đó, để sống với tánh giác của ḿnh. Mỗi người chúng ta đều có sẵn tính giác. Ai khéo thực hiện Bồ-tát đạo là phải loại bỏ hết những ǵ không phải tánh giác để nhận lại sống lại với cái chân thật ấy. Tuy chúng ta có tánh giác nhưng từ lâu quay lưng, bỏ quên nên bây giờ vọng tưởng phiền năo bu bám che mờ tánh giác. Bây giờ muốn tánh giác hiển lộ th́ phải giạt những thứ tạp nhiễm ra. Hy vọng trên bước đường tu tập, chư huynh đệ nắm vững, hiểu biết lộ tŕnh như vậy để bước từng bước thật vững.

 

8. Khắc phục hoàn toàn tất cả những khổ đau, được an vui giải thoát:

 

Khi chúng ta đă thực hành trọn vẹn bảy bước trước là có thể bước sang bước thứ tám. Nhờ nhận và sống lại được với tánh giác chân thật có sẵn nơi ḿnh, chúng ta không c̣n mê muội, không c̣n phiền năo, do đó cũng không c̣n khổ đau. Nghĩa là tới giai đọan này hành giả hoàn toàn khắc phục tất cả khổ đau, được an vui giải thoát. Bước thứ tám là đi đến kết quả viên măn. Chúng ta tự giác, giác tha đầy đủ công đức  th́ mới thành tựu Phật đạo.

Nhân ngày đầu xuân, kỷ niệm Bồ-tát Di Lặc là vị Bồ-tát hoan hỷ, không c̣n chấp thủ, tất cả người con Phật chúng ta nhất tâm hướng về ngài, kính lễ ngài và nhớ lại gương hạnh của ngài, phát nguyện thực hiện cho được gương hạnh đó, thực hiện cho được tâm b́nh đẳng, từ bi trí tuệ, đi từ từ bước đầu giới hạnh thanh tịnh cho đến bước cuối cùng là bỏ được tất cả những ǵ khó bỏ để được giải thoát an vui vĩnh viễn.

Kính chúc những người con Phật chúng ta luôn tỉnh sáng, thực hiện trọn vẹn nguyện lành của ḿnh, tu tập cho đến viên măn Phật đạo.

 

 

 

]

 

 

THIỀN TÔNG VIỆT NAM