[Trang chu] [Kinh sach]

33 VỊ TỔ ẤN HOA

[Mucluc][1][2][3][4][5][6][7][8][9][10][11][12][13][14][15]

[16][17][18][19][20][21][22][23][24][25][26][27][28][29][30][31][32][33]


T th sáu Trung-Hoa

33. -Huệ-Năng (638 – 713 T.L.)

 

Sư họ Lư, Tổ tiên quê ở Phạm-Dương, cha tên Hành-Thao, mẹ là Lư-Thị. Đời Vơ-Đức (618-627 T.L.) nhà Đường cha Sư

làm quan ở Nam-Hải, sau dời về Tân Châu. Sư sanh tại Tân-Châu. Sư được ba tuổi, cha mang bệnh rồi mất, mẹ thủ chí nuôi con. Sư lớn lên trong gia đ́nh rất nghèo túng. Mỗi ngày, Sư phải vào rừng đốn củi đem ra chợ đổi gạo nuôi mẹ.

Một hôm, nhơn gánh củi ra chợ bán, có người mua bảo gánh đến nhà. Sư gánh ngang qua một căn nhà, bỗng nghe người trong nhà tụng kinh, âm ba vang ra, Sư vừa nghe, chợt tỉnh ngộ, Sư hỏi khách: -Tụng đó là kinh ǵ ? Phát xuất từ đâu ?

-Khách đáp: -Kinh Kim-Cang. Phát xuất từ Ngũ Tổ Hoằng-Nhẫn ở chùa Đông-Sơn, tại huyện Huỳnh-Mai.

Nghe nói xong, Sư tỏ chí muốn t́m đến đó học đạo, song gia cảnh c̣n mẹ già không ai nuôi ! Có người khách hàng quen

xin đài thọ số tiền để Sư cung cấp mẹ già. Gặp cơ hội tốt, Sư về xin phép mẹ cho xuất gia, mẹ Sư hoan hỉ cho xuất gia.

Sư khăn gói lên đường, trải hơn một tháng mới đến huyện Huỳnh-Mai, Sư vào yết kiến Tổ, Tổ hỏi: -Ngươi từ đâu đến ? Sư thưa: -Từ Lănh-Nam đến. -Đến đây để cầu việc ǵ ? -Đến đây chỉ cầu làm Phật, không cầu việc ǵ khác. -Người Lănh-Nam không có Phật tánh, làm sao cầu làm Phật được ? -Người th́ có Nam Bắc, chớ Phật tánh không chia Nam Bắc. Tổ biết Sư là hàng pháp khí, bèn bảo xuống nhà trù làm công quả.

đây, Sư chuyên bửa củi, giă gạo. Cối gạo to, chày đạp lớn, người Sư ốm, không đủ sức nặng cất được chày đạp, Sư phải cột thêm cục đá vào lưng để đủ sức giă gạo. Sư làm công việc nặng nhọc như vậy gần ngót sáu tháng, mà chưa khi nào trễ nải, thối chí. Một hôm, Tổ xuống nhà trù, đi ngay chỗ Sư giă gạo, thấy Sư mang đá giă gạo, Tổ bảo: -Ngươi v́ đạo quên ḿnh như thế ư ? Ta biết ngươi căn tánh lanh lợi, nhưng ngại kẻ khác hại ngươi nên ta không nói chuyện với ngươi, ngươi có biết chăng ? Sư thưa: -Con đă biết thế. Tổ biết thời cơ truyền pháp đă đến, liền ra lệnh cho toàn chúng tŕnh kệ. Trong số chúng bảy trăm người đều suy nhường Thượng tọa Thần-Tú. Sư nghe bài kệ của Thần-Tú, biết là chưa thấy tánh, nên ḥa lại một bài kệ. Đọc kệ của Sư, Tổ biết Sư đă thấy tánh. Mấy hôm sau, Tổ t́m cơ hội xuống nhà trù, đến chỗ Sư giă gạo hỏi: -Gạo trắng chưa ? Sư thưa: -Đă trắng mà chưa có sàng. Tổ bèn cầm gậy gơ trên tay cối ba cái, rồi đi lên. Canh ba đêm ấy Sư vào thất Tổ. Tổ truyền pháp và trao luôn y bát cho Sư, dạy đi về phương Nam.

Sư mang y bát đi được mấy hôm vừa đến Dưu-Lănh bị một người hiệu Huệ-Minh đuổi theo. Sư để y bát trên tảng đá, vào rừng ẩn. Huệ-Minh đến dỡ y bát lên không nổi, đành phải kêu: -Hành giả ! Tôi đến đây v́ pháp, chớ không v́ y bát. Sư nghe nói, bước ra ngồi trên tảng đá bảo: -Nếu ông v́ pháp, hăy b́nh tâm lại nghe tôi nói. Huệ-Minh đứng lặng yên giây lâu. Sư bảo: -Khi không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái ǵ là bản lai diện mục của Thượng tọa Minh ? Huệ-Minh nghe câu nầy liền đại ngộ. Sư thường tàng ẩn nơi hai ấp Hoài và Hội. Có lúc gặp phải cuộc sống khó khăn, Sư lại gia nhập vào đoàn thợ săn. Đến bửa ăn, Sư hái rau luộc nhờ trong nồi thịt, rồi chỉ ăn rau, không ăn thịt. Như vậy, Sư với h́nh thức cư sĩ, thường tùy nghi nói pháp cho họ nghe. Có lần Sư đến Thiều-Châu, gặp ông cư sĩ Lưu-Chí-Lược kết bạn. Chí-Lược có người cô làm Ni hiệu Vô-Tận-Tạng, thường tụng kinh Niết-Bàn. Sư vừa nghe tụng qua đă hiểu được thâm ư, v́ bà giải nói nghĩa thú. Sư cô đem quyển kinh ra hỏi chữ, Sư bảo: -Chữ th́ tôi không biết, nghĩa tùy cô cứ hỏi. Sư cô bảo: -Chữ c̣n không biết, nghĩa làm sao hiểu nổi ? Sư bảo: -Diệu lư của chư Phật, chẳng quan hệ ǵ đến văn tự. Sư cô nghe nói kinh ngạc, liền báo tin cho các bậc kỳ lăo trong làng hay rằng: -Có bậc đạođáng cúng dường.

Dân chúng trong làng nghe tin, đua nhau đến chiêm lễ Sư. Gần đó có ngôi chùa cổ hiệu Bửu-Lâm, lâu đời bị đổ nát, dân chúng trong làng hợp sức tu bổ lại, thỉnh Sư về trụ tŕ. Hằng ngày tứ chúng bốn phương tụ hội về đông đảo, không bao lâu ngôi chùa Bửu-Lâm biến thành một đạo tràng xinh đẹp. Chẳng bao lâu có người theo dơi, Sư lại t́m nơi ẩn tránh.

Ngót mười sáu năm ẩn tránh. Sư biết cơ duyên hoằng pháp đă đến, bèn đến Quản-Châu, nhằm ngày mùng tám tháng giêng năm Bính-Tư, niên hiệu Nghi-Phụng năm đầu (676 T.L) nhà Đường. Sư vào nghỉ nhờ ngoài hiên chùa Pháp-Tánh.

Hôm ấy, pháp sư Ấn-Tông đang giảng kinh Niết-Bàn. Trước chùa treo lá phướng dài, gió thổi lá phướng phất phơ qua lại. Hai ông đạo lấy đó làm đề tài tranh luận. Người nói: < phướng động >.người bảo < gió động >; bàn qua cải lại mà không ngă lẽ. Sư đến thưa: -Có thể cho khách cư sĩ nầy lạm bàn chăng ? Hai ông đồng ư, Sư bảo: -Không phải phướng động, không phải gió động, mà tâm nhơn giả động. Mọi người nghe qua đều ngạc nhiên. Họ vào báo cho Ấn-Tông biết lời bàn kỳ diệu ấy.

Hôm sau, Ấn-Tông mời Sư vào hỏi về lư < Tâm động >. Sư giải rơ thâm lư cực diệu. Ấn-Tông bất giác đứng dậy thưa: -Ngài không phải là người thường. Nghe nói y pháp của Ngũ Tổ Huỳnh-Mai đă về phương Nam, vậy có phải Ngài chăng ?

đáp: -Chẳng dám. Ấn-Tông bèn tập hợp bốn chúng, cầu xin Sư tŕnh bày y bát của Tổ. Sư bèn đem y bát cho đại chúng chiêm bái. Ấn-Tông xin làm đệ tử, đồng thời cầu chỉ dạy thiền yếu.

Đến ngày rằm tháng giêng, Ấn-Tông thỉnh các bậc danh đức đến làm lễ thế phát cho Sư. Ngày mùng tám tháng hai, làm lễ truyền giới cụ túc cho Sư tại chùa Pháp-Tánh. Luật sư Trí-Quang làm Tuyên-luật-sư. Giới đàn nầy, đời Tống,Tam Tạng

Cầu Na Bạt-Đà-La đă dự kư trước rằng: -Sau sẽ có nhục thân Bồ Tát thọ giới tại đây. Lại, thời Lương mạc, Tam Tạng Chân-Đế, đích thân trồng hai cây Bồ Đề tại giới đàn nầy và bảo chúng rằng: -Sau khoảng một trăm hai chục năm, sẽ có bậc đại sĩ ở dưới cội Bồ Đề nầy khai diễn pháp vô thượng thừa, độ chúng sanh vô lượng.

-Sau đó có quan Thích Sử Thiều Châu tên Vi Cừ thỉnh Sư đến chùa Đại Phạm thuyết pháp môn vi diệu và thọ giới vô tướng tâm địa. Quan liêu, sĩ thứ và kẻ tại gia, người xuất gia đến dự nghe pháp trên ngàn người. Những thời thuyết pháp tại đây, được đệ tử Sư ghi lại đầy đủ trong kinh Pháp Bảo Đàn.

Năm sau, Sư muốn trở về chùa Bửu Lâm ở Tào Khê là chỗ ẩn xưa kia. Ấn Tông cùng quan liêu sĩ thứ đạo tục tiển đưa có hơn ngàn người. Sư an trú ở đây, tăng chúng xa gần đua nhau đến tham vấn. Trung b́nh chư tăng thường có mặt tại chùa không dưới một ngàn. Sư đă dựng lên cây cờ Đại pháp, bốn phương trông thấy đều hướng về.

Niên hiệu Thần Long năm đầu (705 T.L) Vua Trung Tông xuống chiếu sai sứ là Tiết Giảm đi thỉnh Sư về triều. Sư từ chối v́ lư do bệnh. Trong lời từ chối của Sư có câu: < Tôi nguyện được trọn đời ở chốn núi rừng >. Tiết Giảm thưa: -Các bậc thiền đức nơi kinh thành đều nói < muốn được hội đạo cần phải tọa thiền tập định, nếu không nhơn thiền định được giải thoát, là việc chưa từng thấy >. Chưa biết Thầy thường nói pháp dạy người thế nào ? Sư đáp: -Đạo do tâm ngộ, đâu phải ở ngồi. Kinh nói: < Nếu nói Như-Lai hoặc đến, hoặc đi, hoặc nằm là người ấy không hiểu nghĩa ta nói. V́ sao ? V́ Như-Lai không từ đâu đến cũng không đi đâu >. V́ không từ đâu đến, nên không sanh, v́ không đi đâu nên không diệt. Nếu không sanh diệt là Như-Lai thanh tịnh thiền, các pháp không tịch là Như-Lai thanh tịnh tọa. Tột cùng không được, cũng không có chỗ chứng, huống là ngồi ư ?

Tiết Giảm thưa: -Đệ tử trở về kinh đô ắt Chúa Thượng có hỏi. Cúi xin Ḥa Thượng từ bi chỉ cho chỗ tâm yếu, ngơ hầu đối cảnh giải rành, khiến cho những kẻ học giả ở kinh đô hiểu biết tu hành. Ví như thấp một ngọn đèn, mồi được trăm ngàn ngọn đèn, khiến cho chỗ tối tăm được sáng, sáng măi không cùng.

Sư bảo: -Đạo không có tối sáng, tối sáng là nghĩa đối đăi nhau; dù sáng măi không cùng, cũng là có cùng. Bởi v́ đối đăi mà lập danh tự cho nên Kinh nói: < Pháp không có so sánh v́ không có đối đăi >. –Sáng thí dụ trí huệ, tối thí dụ phiền năo. Người tu hành nếu không dùng trí huệ chiếu phá phiền năo, th́ cái sanh tử từ vô thủy do đâu được ra khỏi ?

Sư bảo: -Nếu dùng trí huệ chiếu phá phiền năo, đây là kẻ tiểu căn Nhị thừa, là xe dê, xe nai, người đại căn thượng trí không như vậy. Tiết Giảm hỏi: -Thế nào là chỗ kiến giải của Đại thừa ? Sư đáp: -Sáng cùng không sáng tánh nó chẳng hai, tánh không hai tức là tánh thật. Tánh thật th́ ở phàm phu chẳng bớt, ở hiền thánh chẳng thêm, dừng nơi phiền năo mà chẳng loạn, đứng nơi thiền định mà chẳng lặng, chẳng đoạn chẳng thường, chẳng đến, chẳng đi, chẳng ở giữa và hai bên, chẳng sanh, chẳng diệt, tánh tướng như như, thường trụ không dời đổi, gọi đóĐạo.

Tiết Giảm thưa: -Ḥa thượng nói chẳng sanh chẳng diệt, có khác ǵ chúng ngoại đạo nói ? Sư bảo: -Ngoại đạo nói chẳng sanh chẳng diệt là đem cái diệt chận cái sanh, lấy cái sanh để bày cái diệt. Diệt vẫn chẳng diệt, sanh nói không sanh. Ta nói không sanh diệt là xưa tự không sanh, nay cũng không diệt, đâu có thể đồng với ngoại đạo ư ? Ông muốn rơ được tâm yếu th́, đối tất cả việc thiện ác đều chớ suy nghĩ, tự nhiên được vào.Tâm thể trong trẻo thường lặng lẽ diệu dụng như hằng sa. Tiết Giảm nghe qua liền đại ngộ, lễ bái Sư trở về triều. Về triều ông tâu hết tự sự cho vua nghe. Vua càng thêm cung kính và ngợi khen.Vua lại ban chiếu và cúng dường ca-sa, tích trượng bảo câu. Sắc đổi tên chùa Bửu-Lâm là Trung-Hưng.

Năm sau, vua lại sắc thích sử Thiều-Châu kiến thiết ngôi chùa Trung-Hưng lại và đổi tên là Pháp-Tuyền. Chùa của Sư ở trước, tại Tân-Châu đổi tên là Quốc-Ân. Một hôm Sư bảo chúng: -Thiện tri thức ! các ngươi mỗi người tịnh tâm nghe ta nói pháp, hết thảy các ngươi tâm ḿnh là Phật, chớ có hồ nghi. Ngoài không có một pháp có thể dựng lập, đều là tâm ḿnh

sanh ra muôn pháp. Kinh nói: <Tâm sanh th́ các thứ pháp sanh, tâm diệt th́ các thứ pháp diệt >. Nếu muốn thành tựu chủng trí phải đạt nhất tướng tam muội và nhất hạnh tam muội.

Nếu ở tất cả chỗ mà không trụ tướng, ở trong tướng ấy mà không sanh yêu ghét, chẳng lấy, chẳng bỏ, chẳng nghĩ việc lợi

ích, thành hoại,v.v…an ổn thanh tịnh gọi là nhất tướng tam muội. Nếu ở tất cả chỗ đi đứng ngồi nằm, ṛng một trực tâm, không dời khỏi đạo tràng, liền thành tịnh độ, gọi là nhất hạnh tam muội.Nếu người đủ hai tam muội nầy, như đất có giống hay chứa đựng, nuôi dưỡng thành tựu được bông trái của nó. Nhất tướng, nhất hạnh cũng lại như vậy.

Nay ta nói pháp, ví như khi mưa thấm ướt cả đất, Phật tánh của các ngươi ví như các hột giống, vừa gặp thấm ướt, liền nảy mầm. Giữ đúng lời ta quyết được Bồ-Đề, đúng theo ta dạy mà thực hành nhất định chứng quả Phật. Niên hiệu Tiên-Thiên năm đầu (712 T.L) một hôm Sư chợt gọi đồ chúng đến bảo: -Ta ở chỗ Tổ Hoằng-Nhẫn thọ pháp yếu cùng y bát. Nay tuy nói pháp mà không truyền y bát, bởi v́ các ngươi ḷng tin đă thuần thục, không c̣n nghi ngờ, nên chẳng truyền. Nghe ta nói kệ: Tâm địa hàm chư chủng, Phổ vũ tất giai manh. Đốn ngộ hoa t́nh dĩ, Bồ-Đề quả tự thành.

Dịch: Đất tâm chứa các giống, Mưa khắp ắt nẩy mầm. Hoa t́nh vừa đốn ngộ, Trái bồ-đề tự thành.

Sư lại bảo: -Pháp ấy không hai, tâm ấy cũng vậy. Đạo kia thanh tịnh cũng không các tướng. Các ngươi dè dặt chớ quán tịnh và tâm kia không.Tâm nầy sẵn tịnh, không lấy bỏ, mỗi người tự nỗ lực tùy duyên đi an lành. Sư thuyết pháp độ sanh

đă được bốn chục năm. Trước đây, Sư đă sai người về chùa Quốc-Ân ở Tân-Châu xây tháp. Đến ngày mùng 6 tháng 6 năm nầy, Sư lại sai người đến đốc suất làm nhanh.

Đến ngày mùng 1 tháng 7, niên hiệu Tiên-Thiên thứ hai (713 T.L),Sư gọi môn nhân bảo: -Ta muốn trở về Tân-Châu, các ngươi lo sửa soạn thuyền. Lúc ấy, đại chúng đều buồn bă, thỉnh Sư ở nán lại. Sư bảo: -Chư Phật ra đời vẫn thị hiện vào Niết-Bàn. Có đến ắt có đi, lẽ đó là việc thường vậy. Thân h́nh hài của ta về ắt có chỗ. Chúng hỏi: -Hôm nay thầy đi bao giờ trở lại ? Sư bảo: -Lá rụng về cội, trở lại không hẹn. Chúng hỏi: -Pháp nhăn tạng, thầy sẽ trao cho người nào ? Sư bảo: -Có đạo th́ được, vô tâm th́ thông. Chúng thưa: -Thầy để lời di chúc xem có nạn không ? Sư bảo: -Ta diệt độ khoảng năm, sáu năm ắt có người đến lấy đầu ta. Nghe ta nói kệ:

Đầu thượng dưỡng thân, Khẩu lư tu xan. Ngộ Măn chi nạn, Dương Liễu vi quan.

Dịch: Trên đầu nuôi thân, Trong miệng để ăn. Gặp Măn gây nạn, Dương Liễu làm quan.

-Sư nói tiếp: Sau khi ta diệt độ khoảng bảy chục năm, có hai vị Bồ-Tát từ phương Đông đến, một tại gia, một xuất gia chung hưng hóa Phật pháp, sửa lại các ngôi già lam nâng đỡ tông chỉ của ta. Sư về đến Tân-Châu, vào chùa Quốc-Ân, tắm gội xong, ngồi kiết già, an nhiên thị tịch. Khi ấy có mùi hương lạ xông ra, móng trắng ṿng chí đất. Sư tịch ngày mùng hai tháng tám năm Quư Sửu, niên hiệu Tiên-Thiên thứ hai (713 T.L), đời Đường, thọ 76 tuổi.

Bấy giờ môn đồ hai châu Thiều và Tân muốn đem hài cốt Sư về châu ḿnh an táng. Bàn nhau không ngă lẽ, phải thấp hương cầu nguyện ư Sư; nếu khói hương bay về đâu, th́ vâng theo ư đó. Khói hương bay thẳng hướng Tào-Khê. Thế là môn đồ ở Thiều Châu sửa soạn đưa linh cữu Sư về nhập tháp. Ngày 13 tháng 11 đưa linh cữu về nhập tháp tại bên bờ khe Tào-Hầu, nay là chùa Nam-Hoa.

Vua Đường Hiến-Tông truy phong Sư là Đại Giám thiền sư, tháp hiệu Nguyên Ḥa Linh Chiếu. Môn đệ của Sư đắc pháp và hoằng hóa sau nầy có cả thảy bốn mươi ba vị: 1-Hành-Tư ở núi Thanh Nguyên. 2-Hoài-Nhượng ở Nam Nhạc.

3-Pháp-Hải. 4-Huệ-Trung. 5-Bổn-Tịnh. 6-Thần-Hội. 7-Huyền-Giác. 8-Huyền-Sách. 9-Tam Tạng Quật-Đa v.v…

-Những lời Sư chỉ dạy có thể đa số được sưu tập trong quyển Pháp-Bảo-Đàn Kinh.


[Mucluc][1][2][3][4][5][6][7][8][9][10][11][12][13][14][15]

[16][17][18][19][20][21][22][23][24][25][26][27][28][29][30][31][32][33]

[Trang chu] [Kinh sach]