Giảng tại Thiền viện Trúc Lâm - 2000
Tôi có một câu chuyện muốn nói cho quý vị nghe. Chuyện này cũng với tinh
thần chỉ Ông chủ chứ không có gì lạ.
Một sáng, khi xả thiền ra tôi có tuyên bố với một số người rằng: "Tôi quả
thực là con ngỗng chúa biết uống sữa, lọc nước chừa lại". Câu nói đó quý
vị nghe lạ đời phải không? Đây là câu nói của các Thiền sư Trung Hoa thời
xưa. Lúc trước tôi học tôi tu, đọc câu đó tôi cũng biết nhưng biết hơi ngờ
ngờ. Bây giờ đem một bát sữa lại bảo chúng ta uống, chúng ta khôn hơn con
ngỗng, nhưng chúng ta có lọc riêng sữa một bên nước một bên, để uống sữa
chừa nước lại không? Huống là con ngỗng khờ hơn mình tại sao nó biết lọc
sữa uống, còn nước chừa lại.
Như vậy tại sao Thiền sư lại nói như con ngỗng chúa uống sữa, lọc nước
chừa lại. Quý vị thử nghiệm xem uống sữa lọc nước lại là gì? Cái gì là
sữa, cái gì là nước? Nếu mình không biết rõ cái gì là sữa, cái gì là nước
thì thôi cứ uống hết cho rồi. Uống cạn ly cạn bát, chứ không có cách nào
khác. Vậy muốn lọc sữa chừa nước lại thì phải lọc bằng cách nào? Dùng
phương tiện gì để lọc? Đó là một vấn đề nan giải.
Ngày xưa tôi hiểu rõ rằng, sữa là chỉ cho cái chân thật của mình, nước là
chỉ cho cái giả dối. Cái thật giả nó lẫn nhau, khó mà lừa lọc được. Hiểu
vậy thì được rồi, nhưng bảo phải lọc cái này bỏ cái kia thì thật là khó vô
cùng. Nói khó nhưng không ngờ nó lại dễ. Khi thấy nó rồi thì rất là dễ.
Tôi xin hỏi lại, chúng ta ngồi thiền để làm gì? Là tập làm con ngỗng chúa
lọc sữa uống chừa nước lại đó. Vậy thì cái gì là sữa để uống, cái gì là
nước để chừa lại? Hiểu thì hiểu, nhưng nói ra thì nói không được. Nói
không được và làm cũng chưa được luôn. Bởi vậy nên rồi chúng ta trở thành
ngỗng con, chứ không phải ngỗng chúa.
Khi nhìn thấy cái đó rồi, tôi mới thông cảm ngày xưa trong kinh dạy các vị
A La Hán có hai thân: Một là còn thân xác thịt này mà đã ở trong Niết bàn
gọi là Hữu dư y Niết bàn. Hai là thân xác thịt này hoại diệt đi, hoàn toàn
nhập Niết bàn gọi là Vô dư y Niết bàn. Sau khi thân hoại diệt nhập Niết
bàn thì chúng ta dễ hiểu, vì Niết bàn là vô sanh. Còn thân này đi đứng là
còn sống, còn sống là còn sanh, sao lại được Niết bàn? Đó là điều tôi thắc
mắc. Bởi vì Niết bàn, nghĩa chánh là vô sanh. Đó là một nghi vấn tôi thầm
đặt ra mà chưa tự giải đáp thỏa đáng. Nhưng khi hiểu được con ngỗng chúa
uống sữa, chừa nước lại thì tôi liền hiểu qua nghĩa Hữu dư y Niết bàn của
các vị A La Hán.
Chỗ này tôi sẽ nói chậm, từ từ để cho quý vị vừa nghe vừa gẫm, mới thấy rõ
được lẽ thật. Tất cả chúng ta tu ai cũng sợ vọng tưởng dấy khởi, cho nên
vọng khởi là liền bỏ, liền dẹp. Khi bỏ dẹp rồi, lúc đó nói mình không còn
vọng tưởng. Nhưng chú thứ hai thứ ba trồi lên rồi bỏ dẹp, ... cứ làm như
vậy suốt buổi có mệt không? Quả là còn nhọc hơn mấy người nông phu cuốc
đất ngoài đồng nữa, phải không? Ra đồng cuốc đất, dỡ cuốc lên cuốc xuống,
làm mệt đứng chống cuốc thở, ngó trời ngó mây chơi. Còn mình ngồi đó, một
giờ hai giờ có dám nghỉ không? Lúc nào cũng phải dòm chừng, cứ hết chú này
tới chú khác trồi lên liên miên. Một hai giờ đồng hồ không nghỉ chút nào
hết.
Như vậy người tu mới nhìn qua thấy thảnh thơi quá, ngồi lim dim đó thôi,
không có gì quan trọng. Mà thực là đổ mồ hôi hột, không có chút rãnh rỗi,
nhàn hạ. Bởi vì chúng ta quen nhìn mọi sự vật bên ngoài theo lối hình thức
phân biệt tướng mạo, vì vậy cái gì có hình tướng, cái gì có phân biệt thì
chúng ta hiểu nhận, còn cái gì không hình tướng, chúng ta lại không biết.
Ai
cũng nói tâm là cái biết của mình, là phần tinh thần của mình. Như vậy khi
khởi nghĩ phân biệt hơn thua, phải quấy, tốt xấu là chân hay giả? Đến lúc
những thứ đó lặng xuống thì cái chân cũng lặng xuống mất tiêu phải không?
Đó là chỗ mà lâu nay chúng ta không biết. Không biết uống sữa chừa nước
lại là vậy.
Tôi nói xa như người tu Thoại đầu. Thoại đầu là gì? Thoại là câu nói, đầu
là ở trước câu nói. Thí dụ như khởi niệm "trước khi cha mẹ chưa sanh, ta
là gì?", thì từ "trước khi cha mẹ chưa sanh" là thoại, khi chưa khởi câu
đó là đầu. Nên sau này các Thiền sư thường nói chúng ta khán thoại vĩ, chứ
không phải khán thoại đầu. Vĩ là đuôi, đuôi câu nói. Khán đuôi câu nói,
chứ không khán được đầu câu nói. Cứ nhớ "trước khi cha mẹ chưa sanh, ta là
gì?", mà không thấy được cái trước khi khởi câu nói. Chưa thấy cái trước
khi khởi câu, đó là chưa khán tới thoại đầu.
Chúng ta ngồi thiền chỉ biết vọng tưởng. Thấy vọng tưởng sinh, vọng tưởng
diệt, chứ không biết cái đầu, trước khi vọng tưởng khởi hay là cái cuối,
sau khi vọng tưởng lặng. Như vậy trước khi vọng tưởng dấy lên là cái gì?
Sau khi vọng tưởng diệt là cái gì? Bởi khi vọng dấy lên chúng ta nhớ: "Có
vọng, buông!". Buông cái này lặng rồi, một lát cái khác dấy lên. Vọng
trước lặng, cái khoảng trống trước khi qua vọng thứ hai, là cái gì? Chúng
ta chỉ nhớ vọng tưởng lặng, vọng tưởng sanh thành ra cứ đánh lộn hoài,
nhọc nhằn quá phải không? Còn cái khoảng giữa khi nó lặng rồi, mà chưa có
cái thứ hai dấy lên, là gì? Đó là chỗ mà chúng ta quên.
Khi vọng tưởng thứ nhất lặng, chừng một giây hay hai giây mới thấy vọng
tưởng thứ hai dấy lên, thì khoảng trống giữa cái thứ nhất với cái thứ hai
đó, chúng ta hữu tri hay vô tri? Hữu tri tức là có tâm. Vọng tưởng dấy lên
thì có suy nghĩ, cái suy nghĩ đó là cái biết động. Mỗi một niệm dấy lên là
động, động là tướng sinh diệt. Khi nó lặng, khoảng giữa này không có dài,
nhưng vẫn có một khoảng giữa trước khi niệm thứ hai dấy lên. Khoảng giữa
đó, nếu không có tri thì niệm thứ hai dấy lên mình không thấy. Nhưng niệm
thứ hai vừa trồi đầu lên, mình thấy liền, như vậy trong khoảng giữa đó
mình có tri hay vô tri? Có tri. Cái tri của khoảng giữa đó là cái tri sinh
diệt hay cái tri bất sinh bất diệt? Có tướng mạo gì không?
Khi chúng ta khởi nghĩ nhớ ba, nhớ má, thì hình bóng ba má hiện ra. Ta
liền nói: "Vọng, buông!" Buông thì nó lặng xuống, im lìm được một chút lại
dấy lên nhớ chú, nhớ bác. Khi đó hình dáng chú, bác hiện ra. Như vậy
khoảng giữa này biết mà không có bóng dáng, không có dấy niệm. Vậy khoảng
giữa đó là cái gì? Đó, tôi muốn chỉ cho tường tận chỗ này. Nếu không nói
tường tận, quý vị sẽ không hiểu được. Cứ nghĩ rằng hôm nay tôi ngồi một
giờ đồng hồ thấy cả trăm vọng tưởng. Chỉ thấy vọng tưởng thôi, mà không
thấy cái gì khác. Như vậy là quên sữa mà chỉ uống nước.
Bây giờ chúng ta phải nhìn lại cho kỹ, khoảng giữa của hai niệm có một
khoảng, nhiều khi được một giây hai giây, hoặc một phút hai phút, sau đó
mới có niệm thứ hai. Vậy một hai phút đó là một hai phút chúng ta đang
sống với cái gì? Biết mà không khởi động là cái gì? Là cái biết không sinh
diệt. Dấy niệm là cái biết sinh diệt. Cái biết sinh diệt vùng lên mình
thấy, rồi nó lặng đi. Khoảng trống đó không có niệm sinh diệt, thì đó là
khoảng trống của cái không sinh diệt. Bởi vì khoảng trống đó mình vẫn biết
mà. Mình biết mà không có dấy động, biết mà không có bóng dáng, thì cái
biết đó thuộc cái không sinh diệt.
Như vậy ngồi hai tiếng đồng hồ, giả sử quý vị có hai trăm lần vọng tưởng,
nếu quý vị tỉnh thì trong hai trăm lần vọng tưởng đó, cho mất đi một tiếng
đồng hồ, còn lại một tiếng lặng lẽ đó, quý vị đang làm gì? Đang ở đâu? Chỗ
này phải nhìn cho thật sâu mới biết hết giá trị của nó. Như vậy trong một
trăm lần vọng tưởng mất một giờ động, nhưng cũng có một giờ tịnh, phải
không? Một giờ tịnh là không mê. Vừa dấy niệm chúng ta liền thấy, đó là
yên tịnh trong cái rõ ràng thường biết. Góp lại từng chặng từng chặng rõ
ràng thường biết đó được một giờ, như vậy buổi ngồi thiền đó hữu ích hay
vô ích? Tối thiểu chúng ta cũng được một giờ yên tịnh. Đằng này chúng ta
cứ nhớ một trăm lần vọng tưởng mà bỏ quên cái khoảng lặng quý giá đó. Vì
vậy, cứ nghĩ buổi ngồi thiền hôm nay vô ích quá. Lát nghĩ cái này, lát
nghĩ cái kia. Một lát mới nghĩ, thì khoảng giữa "một lát" đó cộng lại xem
bao nhiêu? Điều nay nếu không giải thích quý vị cứ lầm, cứ ngỡ rằng mình
tu sao chỉ thấy toàn vọng tưởng, vô ích quá!
Đang trên đường tu mà muốn được rỗng rang, sạch làu làu, không còn gì hết
sao được. Phải chia chớ! Chia cho vọng một chút phần. Vậy mới tu. Tu là
đang giành cái nào nhiều, cái nào ít. Hoặc là vọng tưởng nhiều thì khoảng
yên lặng ít; hoặc là khoảng yên lặng nhiều thì vọng tưởng ít, đi từ từ như
vậy. Vậy chúng ta xác nhận lại một lần nữa xem khoảng không có vọng tưởng
là cái gì?
Ở
đây, tôi chưa cắt nghĩa thẳng mà tôi dẫn chuyện vòng vo tam quốc một chút.
Ngày xưa Tổ Huệ Khả than với Tổ Bồ Đề Đạt Ma:
-
Tâm con không an, nhờ Hòa thượng dạy pháp an tâm.
Tổ
Đạt Ma bảo:
-
Đem tâm ra ta an cho!
Ngài Huệ Khả sực tìm. Lúc trước, Ngài nhớ nó chạy lăng xăng hoài sao bây
giờ dòm lại nó mất tiêu. Khi đó, Ngài bạch với Tổ rằng:
-
Bạch Hòa thượng, con tìm tâm không được.
Tổ
Đạt Ma bảo:
-
Ta đã an tâm cho ngươi rồi.
Ngay đó Tổ Huệ Khả nhận ra, biết được đường vào. Biết được đường vào,
nhưng phải trải qua thời gian khá dài tu tập.
Một hôm Tổ Huệ Khả thưa:
-
Bạch Hòa thượng hiện nay con bặt hết các duyên.
Tổ
Đạt Ma bảo:
-
Coi chừng rơi vào không.
Ngài nói:
-
Rõ ràng thường biết làm sao không được.
Tổ
Đạt Ma liền nói:
-
Ông như thế, ta như thế, chư Phật cũng như thế.
Nghĩa là sao? Nghĩa là bặt hết các duyên mà rõ ràng thường biết thì ông
được như vậy, ta được như vậy, chư Phật cũng được như vậy. Chư Phật được
như vậy nên các Ngài thành Phật. Bây giờ ta được như vậy rồi ta cũng sẽ
thành Phật, ông được như vậy ông cũng sẽ thành Phật. Vậy chỗ rõ ràng
thường biết đó tên gì?
Trên đường tu, nhiều khi chúng ta mắc kẹt ở ngôn ngữ, văn tự, mà không
thấy được bản chất thực, giá trị thực của sự tu. Bây giờ chúng ta phải
thấy giá trị thực của nó. Hiện giờ chúng ta ngồi thiền, dấy niệm liền
biết, không dấy niệm cũng biết. Giữa hai niệm dấy lên chúng ta đều biết.
Chính khoảng giữa rõ ràng thường biết đó, Tổ Huệ Khả nói bặt hết các
duyên.
Chúng ta chỉ mới bặt được mười phần trăm, hai chục phần trăm hoặc năm chục
phần trăm các duyên thôi. Như vậy so với Tổ, chúng ta còn cách xa nhiều,
nhưng cũng có một phút, hai phút bặt các duyên rồi. Chỗ bặt hết các duyên
ấy gọi là gì? Gọi là gì mà chư Phật như vậy, Tổ như vậy, chúng ta cũng như
vậy? Chính cái không thể gọi đó nên có rất nhiều tên gọi. Ông chủ cũng là
một tên gọi. Ông chủ không có hình dáng. Khách lên thì có hình dáng, mà
chủ thì không có hình dáng. Bởi không hình dáng cho nên khó nhận. Còn
khách lên thấy có hình dáng nên dễ nhận. Vì vậy suốt mấy giờ ngồi thiền,
chúng ta chỉ thấy khách chớ không thấy chủ. Đó là vì chúng ta sơ suất. Nếu
chúng ta nhìn kỹ, niệm dấy lên là khách, khi nó lặng xuống thì ông chủ
ngồi sờ sờ đó. Nhưng tại vì ổng ngồi trong màn, khuất đi nên khó thấy.
Niệm khởi là duyên, nếu hết các duyên mà rõ ràng thường biết thì chỗ đó
chính là chỗ Tổ Bồ Đề Đạt Ma ấn chứng cho Tổ Huệ Khả. Ấn chứng bằng cách
"ông như thế, ta như thế", tức ta và ông không khác nhau. Con dấu thế nào
in xuống giấy trắng hiện ra thế ấy, không sai chạy, gọi là ấn chứng. Chẳng
những ông như thế ta như thế mà chư Phật cũng như thế luôn. Ba bốn con dấu
giống hệt nhau. Đó là ấn chứng sâu đậm. Hiểu cho tới nơi rồi chúng ta mới
thấy cái giá trị của sự tu.
Khi khách dấy lên chúng ta thấy, khách lặng chúng ta nói không thấy. Chúng
ta không thấy là không thấy khách, chớ không phải không cái thấy. Ai thấy
khách? Ai thấy không khách? Ông chủ chớ ai. Như vậy niệm lặng tức là ông
chủ sờ sờ. Vì ông chủ thấy lúc này nó lặng nè, khách ra khỏi nhà rồi. Như
vậy có vắng ông chủ lúc nào đâu.
Vậy mà chúng ta cứ than: "Ngồi thiền sao cứ loạn hoài!" Tuy loạn hoài
nhưng ông chủ vẫn ngồi đó chớ đâu. Nếu không quên ông chủ, thì nó loạn
cười với nó chơi "mấy chú hề mà". Cái thật sờ sờ ở đây thấy mấy chú đang
diễn trò. Tu như vậy mới thật là hữu hiệu. Người không biết tu thì sự tu
của mình cảm thấy như vô ích. Năm ngoái ngồi cũng vọng tưởng, năm nay ngồi
cũng vọng tưởng, chắc năm mười năm nữa cũng vọng tưởng! Tu như vậy buồn
chết.
Phải thấy năm ngoái trong một giờ bao nhiêu lần vọng tưởng, năm nay một
giờ bao nhiêu lần vọng tưởng. Nó thưa từ từ. Mà thưa vọng tưởng từ từ, thì
ông chủ hiện ngày càng rõ hơn, phải không? Vọng tưởng càng vắng, ông chủ
càng hiện sờ sờ, chứ có thiếu chỗ nào. Nghiệm cho chín chắn mới thấy giá
trị của sự tu, còn nghiệm chưa chín chắn thì chỉ thấy vọng tưởng chớ không
thấy gì nữa hết. Tu như vậy tức là vô ích rồi.
Cứ
thế mà thấy tới thấy lui, ông chủ không vắng mặt lúc nào hết. Cho nên
trong nhà thiền quở trách không cho chúng ta ngủ, vì ngủ thì hết thấy. Thà
là thức, dù nó chạy lên chạy xuống nhưng quan trọng là mình vẫn thấy nó,
thì không mất ông chủ. Nếu nó lặng mà không biết gì hết thì mất ông chủ.
Nên Phật nói khi chúng ta ngủ như đi vào hang quỷ. Vọng tưởng tuy nó điên
đảo một chút nhưng ông chủ vẫn có mặt đó để quán sát nó. Còn vào hang quỷ
thì thôi hết thấy ai, khách không mà chủ cũng không luôn. Vì vậy khi vọng
tưởng, không ai đánh, không ai véo tai; nhưng ngủ gục là bị đánh, bị véo
tai. Bởi vì lúc đó ta quên mất ông chủ rồi. Mất cả chủ khách thì phải kêu
dậy, chứ không thì đi sâu vào trong hang quỷ tối sao! Hiểu cho thật kỹ
chúng ta mới thấy ý nghĩa, giá trị của người tu thiền.
Như vậy quý vị nhớ lại, ở trước tôi nói con ngỗng uống sữa chừa nước lại.
Cũng vậy nội tâm chúng ta giống như một bát chứa sữa nước lẫn lộn. Bây giờ
chúng ta phải lọc bỏ nước, uống sữa thôi. Nước là cái gì? Là các chú vọng
tưởng. Chú nào tới mình đều loại ra, không theo. Loại ra rồi, lúc đó mình
đang làm gì? Đang uống sữa. Vậy mà quý vị không biết, cứ than hoài, tu sao
thấy vọng không. Nếu hết vọng không biết gì nữa, đó là không biết uống
sữa. Dù đã loại nước ra rồi nhưng tới sữa không biết uống, thành con ngỗng
đói kêu la om sòm.
Sữa hiện khi nước bị loại. Cũng như khi vọng tưởng lặng thì cái hiện tiền
đó là mình, chứ ai? Mình hiện tiền, hay nói cách khác là ông chủ hiện
tiền, thấy rõ, nghe rõ, biết rõ, không có nghi ngờ gì hết. Thấy, nghe,
biết mà không có một bóng dáng, không có một khởi nghĩ. Cái biết đó thuộc
loại gì? Nếu so với cái biết có hình có bóng thì nó thế nào? Có hình có
bóng là vọng. Vọng là động là sinh diệt là nhân tạo nghiệp sinh tử. Còn
cái biết này lặng lẽ không hình không bóng, mà rõ ràng thường biết. Cái rõ
ràng thường biết là nhân gì? Là nhân vô sinh, tức là Niết bàn.
Như vậy chúng ta ngồi thiền vắng vọng tưởng một phút, hai phút, ba phút...
thời gian đó chúng ta đang ở trong cái gì? Đang ngồi trong Niết bàn, phải
không? Cho nên các vị A La Hán khi còn thân này, các Ngài sinh hoạt bình
thường nhưng không có niệm duyên theo cảnh. Vì thế nói các Ngài đang ở
trong Hữu dư y Niết bàn. Bởi Niết bàn là vô sanh. Còn niệm là còn sanh.
Dứt niệm mà hằng tri giác, đó là vô sanh, là Niết bàn.
Chúng ta cứ ngỡ rằng vào Niết bàn là vào một cảnh giới rực rỡ, có đủ thứ
sung sướng, tươi đẹp... Tưởng Niết bàn như vậy là Niết bàn tưởng tượng.
Niết bàn là vô sanh, vô sanh mà hằng tri hằng giác, chứ không phải vô sanh
mà vô tri vô giác. Cái hằng tri hằng giác đó cũng gọi là Phật tánh. Như
vậy được cái vô sanh hằng tri giác đó là nhập được Phật tánh của mình. Nếu
nhập được Phật tánh của mình thì gọi là Phật chứ gì! Chúng ta cứ mong
thành Phật được ngồi trên tòa sen có hào quang rực rỡ, ông Phật đó là ông
Phật gì? Ông Phật đó là ông Phật sinh tử, hoặc là báo thân, hoặc là hóa
thân. Phật Pháp thân thì không có hình tướng.
Như vậy chúng ta có tu sẽ được kết quả rất cụ thể, còn người không biết tu
hết nghĩ chuyện này đến nghĩ chuyện nọ liên miên. Trong khi cái biết thầm
lặng luôn ở bên mình thì lại không hay, không nhớ tới. Do không nhận được
cái hằng tri hằng giác thầm lặng ấy, nên chỉ nghĩ hơn nghĩ thua, nghĩ phải
nghĩ quấy, cho đó là tâm. Chấp giữ khư khư thân sinh diệt và tâm sinh diệt
là mình thì trách gì không đi trong luân hồi muôn kiếp sao được. Bởi cho
cái sinh diệt là mình nên vừa mất cái sinh diệt này liền ôm cái sinh diệt
khác, cứ liên miên như vậy, nên đi trong luân hồi vô số kiếp.
Nếu bây giờ biết rõ thân này là vô thường sinh diệt, tâm phân biệt hơn
thua phải quấy cũng vô thường sinh diệt; chỉ có cái hằng tri hằng giác,
không hình không tướng đó mới thật là mình. Cái đó có bị lửa đốt cháy
không? Không. Vì vậy nên nói hoa sen trong lò lửa.
Nói thân vô thường vì thân bị lửa vô thường thiêu đốt, cháy mòn dần. Thí
dụ như một cây củi tươi, đút vô lò lửa. Ban đầu củi tươi cháy chậm, lần
lần củi khô cháy nhanh hơn, cuối cùng nó bắt cháy hết. Cũng như vậy, hồi
ta sinh ra đến lớn lên năm mười tuổi, đầu tóc xanh. Năm tháng chất chồng,
lửa vô thường đốt riết bây giờ đầu bạc trắng. Hồi xưa mặt mày no đầy, bây
giờ bắt đầu nhăn nheo. Nó hiện tướng khô đó, khô rồi thì tới cháy rụi. Rõ
ràng chúng ta mang thân vô thường, bị lửa vô thường đốt cháy. Có khi nó
cháy gấp, có khi nó cháy muộn, nhưng nhất định phải cháy.
Song trong cái vô thường đó, ngầm có một cái chân thường, tức là cái không
có hình tướng, hằng giác hằng tri. Không hình tướng nên đâu bị vô thường,
hằng giác hằng tri nên đâu phải là không. Trong nhà Phật nói chỗ đó "không
phải có, không phải không", (phi hữu, phi vô). Bởi vì nó không phải có
theo hình tướng vô thường, không phải không vì nó hằng giác hằng tri.
Trên đường tu chúng ta nghiệm, nhận kỹ mới thấy, từng phút từng giây chúng
ta đang tiến chứ không phải là vô ích. Nhưng vì lâu nay không ai giảng
trạch cho mình biết, cứ cho rằng ngồi thiền phải yên, phải lặng; mà sao
mình ngồi vọng tưởng hoài, chưa yên chưa lặng nên coi như mình tu chưa có
kết quả. Năm năm, mười năm nhìn lại thấy cũng còn vọng tưởng, bèn than:
"Ôi, mười năm rồi mà tu vẫn không có kết quả gì!", nên thối Bồ đề tâm.
Nếu quý vị ngồi thiền từ đầu giờ đến cuối giờ, chịu khó để ý ngày nay nghĩ
mười lần, ngày mai còn chín lần, ngày khác còn tám lần... Như vậy là đã
thấy bước tiến của mình. Niệm khởi và vô thường là điên đảo. Qua những cái
đó chúng ta có những phút giây sống với cái chơn thường. Từ niệm điên đảo
mà thức tỉnh, chúng ta sống lại với cái bình lặng vô thượng chánh giác.
Như vậy là mình có giác, chứ đâu phải hoàn toàn mê.
Giả sử chúng ta còn vọng tưởng mà ông chủ vẫn hiện tiền hoài thì có thiệt
thòi gì đâu. Mỗi niệm dấy lên ông chủ thấy quở nó, nó liền mất. Lát sau nó
dấy lên niệm khác, ông chủ thấy lại quở nó, nó liền mất. Cứ như vậy, trong
nhà có khách bước vô, chủ chào hỏi, xong khách bước ra. Đến người khác
bước vô, chủ cũng chào hỏi... Cả ngày khách tới lui tấp nập, nhưng ông chủ
vẫn có mặt để chào hỏi khách thì có thiệt thòi gì đâu! Chỉ sợ không có ông
chủ, khách vô làm quyền ở trong nhà thì mới nguy. Chứ còn trong nhà có
chủ, khách bước vô, chủ chào rồi đưa ra. Như vậy ông chủ có thiếu vắng lúc
nào đâu?
Vậy mà nhiều người than thở hoài, tu lâu mà không có kết quả, vì quên ông
chủ của chính mình. Nên biết giờ ngồi thiền không phải thiệt thòi, mà
chẳng những giờ ngồi thiền thôi, cho tới giờ đi tưới hoa, nhổ cỏ, nấu cơm,
lặt rau v.v... quý vị cũng biết rõ từng niệm khởi. Đó là quý vị không
thiếu ông chủ. Ông chủ vừa thấy dấy nghĩ liền đuổi đi, như vậy có gì mất
mát đâu? Nếu giờ nào cũng có ông chủ, tức là giờ nào mình cũng có ông
Phật. Tuy tu chưa thành Phật, mà lúc nào cũng có Phật hộ cho mình. Đó là
Phật luôn luôn gia hộ cho mình không bị mấy đứa phàm tục chen vô.
Ngược lại cứ dong ruổi, thả trâu chạy cùng đường cùng xá, chiều lại thắp
hương cầu Phật phù hộ cho con, mà không chịu nhận ông Phật thường trực gia
hộ bên mình. Đó là lối tu quên gốc chạy theo ngọn ngành. Cái gốc đó không
xa, ở gần bên mình. Nên chúng ta thường hay nói tu là cốt trở về cố hương.
Cố hương ở đâu? Nếu nghĩ cố hương cách đây chừng năm trăm hay một ngàn cây
số là sai lầm. Chúng ta phải nhớ cố hương ở ngay dưới gót chân mình chứ
không ở đâu xa hết. Chúng ta đang đứng trên cố hương mà quên mình đang
đứng trên cố hương, cứ nhìn đằng này đằng kia kiếm tìm cố hương. Đang đứng
trên đất cố hương, mà cứ nhìn ra ngoài nên nói quê hương xa mù, không biết
ở đâu.
Như vậy mới thấy chúng ta hết sức điên đảo. Cái thật hiện tiền lại quên,
chỉ đuổi theo cái tưởng tượng, cái mình ước mơ. Bây giờ muốn trở về cố
hương, chúng ta phải làm sao? Chúng ta phải chịu khó nhìn xuống chân mình
thì thấy chớ gì. Vì muốn cho quý vị thấy cố hương nên tôi mới khuyên mỗi
khuya mỗi tối, quý vị ngồi nhòm xuống một chút. Đừng nhìn đi xa, nhìn xa
thì quên bẳng quê mình. Nhìn xuống để thấy mình đang ngồi, đang đứng tại
quê hương cũ của mình. Đó là chúng ta tỉnh, chúng ta giác. Còn nếu quên,
chạy đi tìm đầu này góc nọ là chúng ta mê. Quên là mê. Mê cố hương hiện
tiền nên chạy tìm nơi nọ nơi kia. Tất cả chúng tu hành là quay lại, nhận
thẳng nơi mình, chứ không có ở đâu xa.
Trở lại đề tài tôi nêu ở trước là con ngỗng chúa chỉ uống sữa chừa nước.
Chỗ rõ ràng thường biết không dấy niệm là sữa. Niệm khởi sinh diệt là
nước. Nếu chúng ta ngồi thiền hoặc đi lại, mà cứ nhìn nhận cái rõ ràng
thường biết, không chạy theo cảnh bên ngoài, gọi là biết uống sữa chừa
nước lại. Đó, chúng ta đang làm một công tác lọc lừa, cái gì không phải
thật mình thì loại ra; còn ông chủ thật thì mình nhận và sống với ông chủ.
Đó chính là công phu tu của mình. Nếu một giờ không có vọng tưởng, hằng
tri hằng giác, thì giờ đó gọi là giờ Niết bàn.
Như vậy ngay nơi thân phàm tục này cũng vẫn có Niết bàn. Nhưng Niết bàn đó
chưa trọn vẹn, chỉ là Niết bàn từng chặng, từng khoảng thôi. Lát thì sinh
tử, lát thì Niết bàn, còn chập chờn chứ chưa hoàn tất Niết bàn. Chừng nào
như Tổ Huệ Khả, mọi duyên đều sạch, không còn một niệm nào nữa, lúc đó
chúng ta vẫn sống, vẫn đi lại, mọi công tác chúng ta vẫn làm mà tâm hằng
giác, hằng thanh tịnh, đó là Hữu dư y Niết bàn. Như vậy Niết bàn xa không?
Kiếm ở đâu? Chúng ta có quyền được Niết bàn không? Có ai không có quyền đó
không?
Lâu nay chúng ta cứ nghĩ Phật, Bồ tát mới có Niết bàn, còn mình là phàm
phu ngu si nên vô phần. Bởi vì chúng ta cứ ngỡ Niết bàn chỉ có, khi tu đến
hoàn toàn viên mãn. Chúng ta biết mình có nhân Niết bàn rồi, thì quả Niết
bàn sớm chầy gì cũng sẽ được. Như vậy ai cũng có khả năng, ai cũng có thể
tu được quả Niết bàn. Nên khi tôi thấy rõ việc này rồi, tôi cười vì hồi
xưa đến giờ chúng ta cứ nghĩ rằng sữa với nước đã hòa rồi thì không tài
nào lọc được, phải không? Nhưng bây giờ có thể lọc được thì mình là ngỗng
chúa rồi. Ngỗng chúa này đang uống sữa lọc nước, chứ không phải đã uống
xong.
Như vậy quý vị cũng đang tập làm ngỗng chúa đó, chứ đâu phải chuyện
thường. Khi niệm khởi là sanh tử, khi lặng lẽ hằng tri là vô sanh. Sanh tử
với vô sanh ở cạnh bên, một giờ ngồi thiền ít ra cũng được phân nửa thời
gian của vô sanh. Như vậy có buổi nào quý vị không có Niết bàn đâu. Ngày
nào cũng có Niết bàn nhưng nhiều ít vậy thôi. Do đó trên đường tu không có
chuyện luống công vô ích mà chỉ vì chúng ta không nhận ra.
Tôi nhắc lại câu hỏi của ngài Thạch Cựu: Bồ tát Địa Tạng tay cầm viên ngọc
để làm gì? Bởi vì chúng ta cứ nghĩ Bồ tát Địa Tạng mới có viên ngọc, còn
mình vô phần. Cho nên Ngài đặt câu hỏi lại để cho chúng ta tỉnh, biết rằng
mình cũng có ngọc. Chư Bồ tát có Niết bàn, mình cũng có Niết bàn, chứ
không phải mình vô phần. Chỉ vì mình không khéo, không nhận rồi cảm thấy
vô phần. Vô phần là tại có của mà không dám nhận, nên thành kẻ cùng tử
lang thang. Nếu nhận ra có ngọc báu đầy kho thì mình là con trưởng giả, là
phú gia rồi. Một bên có mà quên thì thành cùng tử, một bên có mà nhớ thì
thành trưởng giả.
Bây giờ quý vị ưng làm gì? Ưng làm cùng tử lang thang hay làm trưởng giả?
Chúng ta hiện giờ chắc cũng thấy mình là con trưởng giả, có nhiều của chôn
cất kỹ, chỉ tại chưa bới lên thôi. Mai kia bới lên mình cũng sẽ là trưởng
giả, chứ không nghèo nàn như người ta tưởng nữa. Ý nghĩa này rất rõ ràng.
Tôi nói câu chuyện con ngỗng chúa biết uống sữa chừa nước lại để giúp quý
vị có thêm kinh nghiệm trong việc tu hành. Mong rằng tất cả sẽ là những
con ngỗng chúa biết uống sữa chừa nước lại như thế. |