PHẦN 1:
TRÍCH GIẢNG KINH A HÀM (tt)
6. Động cơ gây ra khổ
Thôn trưởng Na
Ca Dà hỏi Phật:
-Bạch Thế Tôn,
nguyên nhân nào kích động các khổ?
Phật hỏi:
-Nếu trong
thôn ông có người chết hoặc có người bị tai nạn, ông có buồn khổ không?
-Bạch Thế Tôn,
có khi buồn khổ, có khi không.
-Tại sao?
-Nếu những
người chết hoặc bị tai nạn ấy là bà con thân quyến của con thì con buồn
khổ. Trái lại con không buồn khổ.
Phật kết luận:
-Gốc của sự
buồn khổ là do lòng tham ái vậy.
BÌNH:
Động cơ
chính của khổ đau là lòng tham ái. Mà cội gốc của tham ái là do chấp ngã
mà ra. Từ chấp ngã nên có ngã sở, tức những liên hệ đến bản ngã như tài
sản, vợ con, quyến thuộc v.v… Nếu được thì vui, cố tình giữ gìn không khi
nào dám lơi lỏng, lỡ bị mất mát thì buồn bả, khổ đau v.v… Vì thế trong
kinh Pháp Cú, Phật dạy:
Do ái sanh ưu
Do ái sanh bố
Nhược ly ân ái
Hà ưu hà bố
Dịch:
Do ái sanh lo
Do ái sanh sợ
Nếu lìa ân ái
Đâu lo đâu sợ
7. Quả có theo nhân không?
Một Cư Sĩ đến
hỏi Phật:
-Bạch Thế Tôn, con nghe ngoại đạo nói người sát sanh, trộm cướp, tà dâm,
nói dối phải bị cảm thọ đau khổ có đúng chăng?
Phật đáp:
-Chưa đúng hẳn! Ví dụ: Như có người ra trận giết được nhiều địch quân, khi
về được vua phong thưởng. Như thế tuy sát sanh mà đâu có khổ. Trái lại nếu
người ấy giết quan đại thần trong nước sẽ bị tội.
-Ví như có người đến đánh nước khác lấy được tiền của châu báu chở về nước
mình, sẽ được vua phong thưởng. Như thế tuy làm việc trộm cướp nhưng đâu
có khổ. Trái lại, nếu trộm cướp của vua quan sẽ bị bắt bớ tra tấn khổ sở.
-Ví như có người đến kẻ địch của vua đánh bắt gái đẹp đem về làm người hầu
cho vua, sẽ được vua phong thưởng. Như thế tuy làm việc bất chánh cũng
được vua khen thưởng đâu có khổ sở. Trái lại nếu tư tình với thê thiếp của
vau quan sẽ bị hình phạt lưu đày.
-Ví như có người dùng mưu kế dối gạt nước để chiếm lấy đất đai về cho nước
mình sẽ được vua khen thưởng. Tuy là dùng lời dối gạt nhưng đâu có khổ.
Trái lại, nếu nói dối với triều đình sẽ bị trừng trị.
BÌNH:
Qua thí dụ
nói trên, chúng ta thấy người sát sanh, trộm cướp, tà dâm, nói dối đâu
nhất định hiện đời phải chịu quả khổ (có kẻ khổ người vui). Như thế, căn
cứ lý nhân quả của Phật dạy có đúng chăng? Tuy nhiên lý nhân quả không sai
một mảy, chẳng qua chúng ta chỉ nhìn trên hiện tại mà không biết quá khứ
thấy được vị lai. Hể tạo nhân nào thì kết quả nấy, như sát sanh phải đền
mạng, trộm cướp phải trả nợ oan khiên v.v… Kinh Nhân Quả, Phật nói: “Giả
sử trăm ngàn muôn kiếp nghiệp không mất, nhân duyên đến quả báo tự mình
chịu”. Vậy chúng ta phải có cái nhìn rộng rãi và thấu đáo lý nhân quả của
Phật dạy để khỏi lầm lẫn trong cuộc sống.
8. Tai hại ngũ dục
Một hôm đức Phật kêu các thầy Tỳ Kheo nói:
-Ví như trên núi tuyết, chỗ đất bằng người thú qua lại. Có kẻ lấy nhựa cây
gài bên thức ăn để nhử đàn khỉ. Một vài con khỉ vì tham ăn, rời khỏi đàn
tìm đến bên thức ăn lấy tay bốc. Ngờ đâu tay vừa bám vào liền bị nhựa dính
cứng! Chú khỉ bèn lấy tay kia gỡ ra, thương thay! Lại dính luôn một tay
nữa. Chú khỉ lại lấy chân mặt quào ra, và một chân nữa lại dính luôn vào
nhựa. Tiếp theo chân trái đồng dính cứng cả. Khổ thay! Chú khỉ chỉ còn cái
mồm, chú hy vọng dùng mồm để cạp may ra thoát khỏi. Nhưng than ôi! Nhựa
cây kia cũng không chừa lại. thế là hai tay, hai chân và cái mồm chú khỉ
dính cứng vào nhựa cây. Thật đáng thương! Người thợ bẩy kia có thể xách
chú đi đâu tùy ý.
Này các Tỳ Kheo! Nhựa cây kia ví như ngũ dục, còn năm bộ phận (hai tay,
hai chân và cái mồm) dính vào nhựa ví như năm căn.
-Mắt dính sắc.
-Tai dính thanh.
-Mũi dính mùi.
-Lưỡi dính vị.
-Thân dính xúc.
Như chí khỉ kia, khi năm bộ phận dính cứng vào nhựa cây thì tùy ý người
kia đem đi. Cũng vậy, người nào năm căn dính cứng vào ngũ dục thì tùy ý ma
dẫn đi.
Tóm lại vì không chịu ở nơi địa vực của mình nên mới bị nạn khổ. Thế nào
là ở nơi địa vực của mình? Tức là quán “Tứ niệm xứ”. Người thường quán tứ
niệm xứ thì không bị lôi, không bị dẫn. Cũng như chú khỉ kia nếu ở trong
đàn thì không bị nạn.
BÌNH:
Ngũ dục vốn
không hại người, chỉ tại người bỏ quên chánh niệm mà đam mê ngũ dục. Như
chú khỉ kia vì ham ăn mà tách ra khỏi đàn nên chịu khổ. Cho nên người tu
không khó, chỉ đừng đam mê ngũ dục. Nhưng ngũ dục vốn không lỗi, lỗi tại
tâm dấy niệm. Mà dấy niệm tức là động, động thì chẳng phải chánh niệm.
Trái lại, tâm nếu không thì cảnh vốn lặng, tuy ở trong ngũ dục mà thường
giải thoát. Cho nên trong Tín Tâm Minh có câu:
“Muốn đến
nhất thừa, chớ ghét sáu trần.
Sáu trần
không ghét, hoàn đồng chánh giác”.
9. Hành động không cố định
Có một vị Ni Kiền Tử đến Phật nói rằng:
-Nếu sát sanh, trộm cướp, tà dâm v.v... thì phải đọa địa ngục. Và nếu làm
việc gì ở thời gian dài thì ta sẽ hưởng điều đó.
Phật bảo:
-Ông nói như vậy không đúng. Tại sao? Vì nếu nói như ông thì trên thế gian
này không mấy ai đọa địa ngục. Nếu làm việc gì thời gian dài sẽ hưởng điều
đó, thì sát sanh trộm cướp chẳng hạn, trong một ngày họ chỉ cần hành động
chốc lát là xong, ngoài ra thời gian còn lại họ làm việc khác. Như vậy,
thời gian sát sanh v.v... thì ngắn, thời gian làm việc khác dài, do đó họ
sẽ hưởng cái thời gian dài kia.
Thứ hai nói đến sát sanh, trộm cướp, tà dâm v.v... phải đọa địa ngục thì
trên đời này không có ai tu được cả. Vì sao? Vì tu hay không tu cũng phải
đọa địa ngục thôi. Do đó, ta chỉ nói chớ sát sanh, trộm cướp, tà dâm
v.v... và nếu lỡ phạm thì hãy sám hối, sửa đổi.
BÌNH:
Chúng ta có
cái lầm chấp là cái gì cũng cố định cả. Thiện cố định là thiện, ác cố định
là ác, bất di, bất dịch. Chấp như vậy thì không có ai tu hành được, nó cố
định như vậy rồi, có tu đi nữa cũng không thay đổi được gì. Vô tình đưa
nhau đến chỗ đánh liều, lỡ lầm cho lỡ lầm luôn, không còn hy vọng vươn
lên. Vì vậy Phật bác cái chấp tạo ác cố định đọa địa ngục, đem lại cho
chúng ta niềm tin ở sự cải thiện. Hy vọng vươn lên, trổi dậy, đâu cam chịu
giam mình mãi mãi trong tối tăm, tội lỗi!
Còn nói, nếu
làm việc gì ở thời gian dài sẽ hưởng điều đó. Giả sử thời gian dài ta làm
việc thiện, chỉ thời gian ngắn làm việc sát sanh, trộm cướp v.v… hỏi có
phải đọa địa ngục không? Do đó hai câu này có điều mâu thuẫn nhau vậy.
10. Nguyên nhân có kiến
chấp
Một Cư sĩ hỏi Phật:
-Bạch Thế Tôn, tại sao ngoại đạo có sáu mươi hai kiến chấp? Như họ chấp:
thế giới thường còn, thế giới vô thường, thế giới hữu biên, thế giới vô
biên, thân này thật có, thân này không thật có, Niết bàn còn có, Niết bàn
không còn có v.v...
Phật đáp:
-Do có thân kiến (chấp thân) nên có cái kiến chấp như thế. Vậy ông có biết
thân kiến là gì không?
Cư sĩ thưa:
-Do chấp sắc uẩn là ta, là của ta, thọ uẩn là ta, là của ta, tưởng uẩn là
ta, là của ta, hành uẩn là ta là của ta, thức uẩn là ta là của ta, đó là
thân kiến.
Phật khen:
-Đúng thế!
BÌNH:
Do chấp ngã
(ngũ uẩn làm ta) nên có tranh tụng, từ đó sanh ra sáu mươi hai kiến chấp.
Nếu thấy được thân ngũ uẩn giả hợp này như điện chớp, như bọt nước, như
sương mai, thì các kiến chấp cũng theo đó mà dứt.
11. Kiết sữ và bị kiết sử
Hai Tôn giả cãi nhau về nghĩa kiết sử và bị kiết sử. Một vị bảo kiết sử
và bị kiết sử tên tuy khác mà nghĩa đồng. Vị kia nói tên khác nghĩa khác.
Hai vị cãi nhau nhưng không ngã lẽ, đến cầu Phật xin giải quyết. Phật dạy:
-Dụ như hai con bò (một đen một trắng) bị tròng vào một cái ách. Vậy con
nào trói cột con nào, hay tại cái ách trói cột cả hai con, làm cho mất tự
do?
Cũng thế, mắt thấy sắc “niệm dấy khởi” tức trói cột (kiết sử), chớ mắt và
sắc nguyên lai là vô sự. Năm căm kia: tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng đều như
vậy.
BÌNH:
Căn trần
không lỗi mà lỗi bởi “thức”. Thức có phân biệt tốt xấu, v.v… mới khởi niệm
yêu ghét, tham sân theo đó mà hiện. Do có tham sân nên mới tạo thành
nghiệp dẫn đi trong luân hồi. Trái lại, nếu không khởi niệm yêu ghét thì
tham sân không khởi, tham sân không khởi thì không tạo nghiệp, không tạo
nghiệp tức là dứt sanh tử.
Để làm sáng
tỏ ý này, xin dẫn bài kệ của Cổ đức:
Kiến sắc phi can sắc
Văn thinh bất thị thinh
Sắc thinh vô ngại xứ
Thân đáo Pháp Vương thành.
Dịch:
Thấy sắc không dính sắc
Nghe tiếng chẳng mắc tiếng
Sắc tiếng nếu không ngại
Thẳng đến thành Pháp vương (Phật).
12. Tạo cái vui nào là
nhân tốt
Một vũ kịch sư đến hỏi Phật:
-Con nghe ngoại đạo nói: Ai vũ kịch hay làm cho nhiều người vui, sau khi
chết sẽ sanh lên cõi trời “Hý tiếu” có phải vậy chăng?
Phật lặng thinh không đáp. Ông lập lại câu hỏi trên ba lần. Phật mới nói:
-Người vũ kịch vui làm tâm người buông lung, ba độc (tham sân si) dấy
khởi. Do tạo nhân ấy sẽ mắc quả báo sanh địa ngục “Hý tiếu”.
BÌNH:
Người ta dễ
ngộ nhận, cứ nghĩ nếu làm bất cứ việc gì cho người khác vui thích là được
phước lành. Nhưng họ đâu biết vui có nhiều thứ. Nếu vui trong tịch tỉnh
trong sáng, dứt các vọng niệm, phù hợp với đạo lý là vui trong sạch, vui
giải thoát. Trái lại, vui theo ngũ dục, chạy theo sắc đẹp, tiếng hay v.v…
làm tâm thần dao động, phiền não phát sinh, là vui theo trần tục, kiết tập
nhân sanh tử.
Như vậy, nếu
người tạo nhân nào gây cho người khác cái vui nào, kết quả lên xuống rõ
ràng không thể lầm lẫn.
13. Pháp vẫn còn đó
Ngài Xá Lợi Phất tịch, ông Cunda sau khi thiêu xong gom lấy Xá lợi cùng y
bát của Ngài đem đến trình Phật. Ngài A Nan trông thấy buồn bã thưa với
Phật:
-Ngài Xá Lợi Phất là thầy giáo giới cho con, con thường tin tưởng nơi
Ngài, mà nay đã tịch rồi! Ôi chán ngán quá! Con không còn đủ tinh thần để
tu nữa!
Phật hỏi A Nan:
-Xá Lợi Phất tịch, nhưng giới uẩn có đem theo chăng?
-Thưa Thế Tôn, không đem theo.
-Định uẩn có đem theo không?
-Thưa Thế Tôn, không đem theo.
-Tuệ uẩn... cho đến giải thoát tri kiến uẩn có đem theo chăng?
-Thưa Thế Tôn, không có đem theo.
Phật bảo:
-Như vậy, Xá Lợi Phất tuy đã tịch nhưng “pháp” vẫn còn đó, ông cứ y đó mà
tu hành, cớ gì phải buồn chán?
BÌNH:
Chúng ta có
thói quen trông cậy bên ngoài mà ít khi tin tưởng nơi mình. Trên đường tu
hành còn xa, nếu không sáng suốt nhận ra chánh pháp để thực hành đem lại
niềm tin vững chắc cho chính mình, cứ phải trông cậy nơi thầy bên ngoài
mãi, e có lúc ta phải chới với giữa đường, không chỗ nương tựa. Vì thầy dù
có thương xót giúp đở chúng ta, nhưng cũng giới hạn. Còn tự nhận ra “pháp”
mới chính là ông thầy chơn thật giúp ta trên trọn quãng đường. “Pháp” đó ở
đây Phật gọi là Giới, Định, Huệ, Giải thoát, Giải thoát tri kiến, chỗ khác
gọi là Trí Tuệ Bát Nhã, Pháp thân hay Bản Lai Diện Mục. Chúng ta khéo sống
với cái ấy mới là chỗ nương tựa lâu dài; khỏi phải buồn lo mất mát, xa
lìa.
14. Dễ quên hay dễ nhớ
Có ông Bà La Môn tu Mật tông đến hỏi Phật:
-Con có khi có những bài chú chưa từng học mà bỗng nhiên nhớ cả, có khi có
những bài chú đã học thuộc lòng mà lại quên, như vậy là sao?
Phật nói: Có hai nguyên do:
1. Khi quên là bị năm món triền cái (tham, sân, thùy miên, trạo hối, nghi
hoặc) nó che đậy khiến tâm trí bị mờ đi, do vậy dễ quên.
2. Khi nhớ, lúc rảnh rang tạm thời xa lìa năm món triền cái, nên tâm trí
sáng suốt nhớ được nhiều việc.
Ví dụ: Như một bát nước trong, ta đem hòa vào màu xanh, vàng, đỏ... làm
mất đi sự trong suốt, nên nhìn vào bát nước ta khó thấy được mặt mày. Cũng
vậy, khi tâm có sự tham nhiễm thì làm mờ đi trí sáng suốt.
-Như bát nước trong đem đun sôi sùng sục, nhìn vào đâu thấy được mặt mày.
Cũng vậy, lúc ta nổi sân thì tâm sôi động, bứt rứt, quên mất sáng suốt.
-Như bát nước trong bị rong rêu phủ, nhìn vào chẳng thấy được mặt mày. Khi
thùy miên, tâm trí mơ màng khó nhớ.
-Như bát nước trong bị lắc lư dao động, ta nhìn vào, mặt mày dao động khó
thấy. Cũng vậy, khi trạo hối thì tâm không yên nên khó nhớ.
-Như bát nước trong, vừa quấy động vừa để chỗ tối, lúc nhìn vào ta cũng
không thấy được mặt mày. Cũng vâỵ khi tâm nghi hoặc thì trí bị mờ, không
nhớ được việc lâu xa.
Tóm lại, có năm món triền cái (triền: trói buộc; cái: phủ che) thì trí nhớ
lu mờ, không năm món triền cái thì trí nhớ sáng lẹ.
BÌNH:
Điều này cho
chúng ta thấy cái sáng suốt vốn sẳn có nơi tâm thể bình thường, chớ không
từ đâu đem lại, chỉ vì tâm khởi thất thường trở thành điên đảo vọng động
nên cái sáng suốt ẩn đi như là tâm trong sáng bị che phủ bởi năm triền
cái. Muốn trí tuệ sáng soi chúng ta cứ sống trở lại với tâm bình thường
(như bát nước trong) thì năm món trói buộc kia không còn che phủ nữa, ngay
đó trí tuệ hiện tiền không đâu xa cả.
15. Cái già sẵn trong trẻ
Một hôm Phật đi khất thực trong thành Xá Vệ trở về. Chiều hôm đó nghe
trong người hơi lạnh, Ngài ra ngồi phơi nắng, vén y để lộ làn da lưng nhăn
nheo. Thấy vậy Ngài A Nan xoa lưng Phật than rằng:
-Ôi! Da dẻ Thế Tôn không còn láng mịn như thuở xưa nữa! Lưng Ngài đã hơi
khòm tới trước, còn đâu những gì của thời trai tráng!
Phật bảo:
-Đúng thế, A Nan! Già nó ở sẳn trong trẻ, cái chết nằm trong cái sống.
Thân ta rồi đây cũng hư hoại một lúc nào đó không tránh khỏi.
BÌNH:
Có sanh ắt
có tử, có thành thì có hoại, sự vô thường hằng chi phối cả thế gian không
chừa một ai. Dù Phật đi nữa nhưng nếu còn mang cái thân giả hiệp này thì
cũng đồng chịu sự sanh, già, bịnh, chết, vô thường, biến hoại. Vì sao? Vì
nó là cái từ duyên mà được.
Có một số
người thắc mắc: “Đã là Phật sao còn già, còn chết?”
Quả thật
chúng ta lầm lẫn quá lớn! Thành Phật đâu phải thành cái đãy da hôi thúi
này. Mà thành Phật là thành cái tâm trí tuệ thấy đúng lẽ thật. Nếu nhận
cái thân bảy, tám mươi năm này là Phật, tức là hủy báng Phật vậy. Rõ ràng
người này chưa thấy được chân Phật.
Thân vàng
trượng sáu, ba mươi hai tướng tốt nay thời còn đâu? Thế mà có kẻ còn muốn
luyện phép này phép nọ, hy vọng ôm giữ cái thân bèo bọt này cho đến ngàn
năm muôn thuở, há có phải mê muội lắm chăng?
Hiểu được lẽ
này chúng ta cần phải nỗ lực tiến tu. Vì cơn vô thường hằng theo đuổi
chúng ta không rời một giây phút nào, và cái chết chực sẵn bên ta không
hẹn ngày giờ, nếu cứ dễ duôi thong thả qua ngày e có lúc phải hối hận!
Chúng ta còn
có thì giờ để hẹn nay hẹn mai nữa sao?
16. Có pháp môn nào?
Hôm nay tôi đọc trong Tương Ưng Bộ Kinh thấy có một bài kinh chưa từng
nghe. Bài kinh tựa là “Có pháp môn nào?”.
Phật nói rằng:
-Này các Tỳ Kheo! Chẳng phải do niềm tin, chẳng phải do người truyền,
chẳng phải do học vấn mà khi mắt đối với sắc, tai đối với thinh, mũi đối
với hương v.v... biết có tham sân si, không tham sân si, thì cái biết ấy
(biết có tham sân si, không tham sân si) là có pháp môn nào?
BÌNH:
Nói có pháp
môn đó như là quán Tứ Niệm Xứ, câu niệm Phật hay câu thoại đầu chẳng hạn,
còn khi sáu căn đối với sáu trần “Biết” có tham sân si hay không tham sân
si thì “cái biết” đó là pháp môn gì? Ai truyền? Do học mà được chăng? Như
thế cùng với Thiền có khác nhau gì? Như Ngài Tuyết Phong sau khi ở Đức Sơn
về, có vị Tăng hỏi:
-Hòa Thượng
đến Đức Sơn được cái gì đây?
Tuyết Phong
đáp:
-Ta đi tay
không về tay không.
Thử hỏi Ngài
được cái gì? Cùng với trên có gì khác nhau? Cho nên Đức Sơn cũng nói:
-Tông ta
không ngữ cú, không một pháp cho người.
Xưa nay
chúng ta chỉ nghe Tổ nói, bây giờ đây mới nghe Phật nói, mà đây là bài
Kinh của Phật giáo Nguyên Thủy. Chúng ta mới thấy rõ từ trước Phật đã nói
như thế rồi, chứ đâu phải Thiền là cái gì bày đặt ra!
Giờ đây, qua
cái biết vọng của chúng ta hằng ngày. Có vọng biết có vọng, không vọng
biết không vọng, thì “Cái biết” có vọng, không vọng đó là pháp môn gì? Ai
truyền cho? Cùng với cái “Biết” có tham sân si, không tham sân si trong
kinh đâu khác! Kia nói tham sân si, đây nói là vọng tưởng hay vọng niệm
vậy thôi.
Nhờ đọc
trong Kinh rồi chúng ta mới có thêm niềm tin sâu xa vững chắc nơi đường
lối tu của mình, không thì chúng ta cứ chạy Đông chạy Tây rốt cuộc không
đi đến đâu hết.
Vậy thì, có
vọng Biết có vọng, không vọng Biết không vọng. Cái Biết này là pháp môn
gì?
17. Kinh ngũ ấm vô thường
Một hôm Phật ở xứ A Tỳ Đà (Ayyojjhà) bên cạnh sông Hằng, tôi nghe như vầy:
Khi ấy Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: Ví như sông Hằng dòng nước chảy mạnh, kết
tụ thành hòn bọt, người sáng mắt nhìn kỹ phân biệt, biết nó không thật
không bền chắc. Vì cớ sao? Vì các hòn bọt kia bên trong không chắc thật
như thế. Tỳ Kheo! Các sắc tướng, hoặc quá khứ, vị lai, hiện tại, trong
ngoài, thô tế, tốt xấu, xa gần, Tỳ Kheo xem kỹ, suy xét phân biệt, biết nó
không thật, không bền chắc, như bệnh, như nhọt, như đâm, như giết, vô
thường, khổ không, phi ngã. Vì cớ sao? Vì sắc không chắc thật vậy.
Chư
Tỳ Kheo! Ví như mưa to bong bóng nước vừa hiện, chợt tan, người sáng mắt
nhìn kỹ, suy nghĩ biết nó không thật, không bền chắc. Vì cớ sao? Vì bong
bóng nước kia không chắc thật vậy. Như thế Tỳ Kheo! Các thứ thọ, hoặc quá
khứ, vị lai, hiện tại, trong ngoài, thô tế, tốt xấu, xa gần, Tỳ Kheo xem
kỹ suy xét phân biệt, biết nó không thật, không bền chắc, như bệnh, như
nhọt, như đâm, như giết, vô thường, khổ, không, phi ngã. Vì cớ sao? Vì thọ
không chắc vậy. Chư Tỳ Kheo! Ví như cuối mùa xuân, đầu mùa hạ trời không
có mây, không chuyển mưa, khi mặt trời đúng trưa thấy ngựa nắng chập chờn,
người sáng mắt nhìn kỹ suy xét phân biệt nó không thật, không bền chắc. Vì
cớ sao? Vì những con ngựa nắng kia không chắc thật vậy. Như thế Tỳ Kheo!
Các thứ tưởng, hoặc quá khứ, vị lai, hiện tại, trong ngoài, thô tế, tốt
xấu, xa gần, Tỳ Kheo xem kỹ suy xét phân biệt, biết nó không thật, không
bền chắc, như bệnh, như nhọt, như đâm, như giết, vô thường, khổ, không,
phi ngã. Vì cớ sao? Vì tưởng không chắc vậy. Chư Tỳ Kheo! Ví như người
sáng mắt đi tìm thứ gỗ rắn chắc, vác búa bén vào rừng, thấy cây chuối ngay
thẳng, dài lớn, liền chặt gốc trảy ngọn, rồi lột lần từng bẹ một, trọn
không thấy gỗ, nhìn kỹ suy xét phân biệt, biết nó không thật, không bền
chắc. Vì chớ sao? Vì cây chuối không chắc thật vậy. Như thế Tỳ Kheo! Các
thứ hành, hoặc quá khứ, vị lai, hiện tại, trong ngoài, thô tế, tốt xấu, xa
gần, Tỳ Kheo nhìn kỹ suy xét phân biệt, biết nó không thật, không bền
chắc, như bệnh, như nhọt, như đâm, như giết, vô thường, khổ, không, phi
ngã. Vì cớ sao? Vì các thứ hành kia không chắc vậy.
Chư
Tỳ Kheo! Ví như thầy huyễn thuật ở ngã tư đường cái, thuật ra những thứ
tượng binh, bộ binh, người có trí sáng mắt, nhìn kỹ suy xét phân biệt,
biết nó không thật, không bền chắc. Vì cớ sao? Vì những thứ huyễn thuật
kia không chắc thật vậy. Như thế, Tỳ Kheo! Các thứ thức hoặc quá khứ, vị
lai, hiện tại, trong ngoài, thô tế, tốt xấu, xa gần, Tỳ Kheo nhìn kỹ, suy
xét phân biệt, biết nó không thật, không bền chắc, như bệnh, như nhọt, như
đâm, như giết, vô thường, khổ, không, phi ngã. Vì cớ sao? Vì thức không
chắc thật vậy.
Khi ấy Thế Tôn muốn trùng tu nghĩa này nói bài kệ:
Quán sắc như hòn bọt
Thọ như bong bóng nước
Tưởng như ngựa sóng nắng
Chư
hành như cây chuối
Các thức như huyễn hóa
Bậc tôn quí đã nói
Chung quanh suy xét kỹ
Chánh niệm khéo quán sát
Không thật không kiên cố
Không có ngã, ngã sở
Đối thân khổ ấm này
Đại trí phân biệt nói
Người lìa ba pháp kia
Thân đã thành vật bỏ
Thọ noãn và các thức
Lìa các thân phần này
Bỏ luôn ngoài nghĩa địa
Như cây không hiểu biết
Thân này hẳn như thế
Dối trá gạt kẻ ngu
Như giết, như trúng thương
Không có sự bền chắc
Tỳ Kheo cần tu tập
Quán sát ấm thân này
Ngày đêm hằng chuyên tinh
Chánh trí buộc niệm trụ
Hành hữu vi thường dứt
Hằng được chỗ thanh lương.
Bấy giờ chư Tỳ Kheo nghe Phật nói hoan hỷ phụng hành.
BÌNH:
Đây là hình
ảnh vô thường của ngũ ấm (hay ngũ uẩn) mà Phật diễn tả rất rõ ràng:
Trước tiên
Phật dạy chúng ta quán sắc ấm như hòn bọt. Đã là bọt nước thì đâu có lâu
bền. Bởi sắc ấm không thật có, do các duyên nhóm hợp tạm có (dụ như trong
thân ta, phần cứng thuộc đất, phần lỏng thuộc nước, hơi thở thuộc gió,
nhiệt độ thuộc lửa). Bởi do duyên hợp, nên đủ duyên tạm có, thiếu duyên nó
tan hoại. Vì vậy Phật dùng hòn bọt để thí dụ cho sắc ấm.
Thứ hai,
quán thọ ấm không thật như bong bóng nước. Thọ đâu có thật, do sáu căn
tiếp xúc với sáu trần sanh cảm thọ, như thọ vui, thọ khổ, thọ bình thường
v.v… Nhưng những cái thọ này đâu có lâu dài, chỉ thoáng qua rồi mất. Dụ
như bong bóng nước, một phen động đến liền tan.
Thứ ba là
tưởng ấm không thật như sóng nắng giữa trưa, trên mặt đường thẳng tráng
nhựa, do ánh nắng phản chiếu, ta thấy sóng nắng chập chờn như ngựa chạy
v.v… Sóng nắng do ánh nắng phản chiếu mà có chứ đâu phải thật. Tưởng ấm
cũng vậy, do tâm duyên theo cảnh dù cảnh đã qua… nhưng những bóng dáng
tiền cảnh còn lưu lại trong tâm thức mỗi khi nghĩ đến thì nó hiện ra. Cái
bóng dáng làm sao cho là thật được.
Thứ tư hành
ấm không thật. Hành là sự sinh diệt của tâm thức. Trong Kinh Phật nói, mỗi
sát na (khoảng chớp mắt) có sáu mươi niệm sinh diệt. Nó như dòng thác
chảy, thay đổi tiếp nối rất nhanh, không đứng yên một chỗ, nhưng chúng ta
chỉ thấy trên giả tướng của hành ấm rồi cho đó là thật có (thí dụ như cây
chuối).
Thứ năm thức
ấm không thật như huyễn hóa. Ví như nhà ảo thuật kia hóa ra con cọp, nhưng
thật ra con cọp đâu có thật, chỉ do thuật mà thôi. Thức là cái phân biệt,
sự phân biệt này nó cũng không thật có, tùy chủng tử nghiệp tánh của các
loài chúng sanh mà hiện ra khác nhau. Dụ như cái bàn viết này, với ta là
cái bàn viết, trái lại với con mọt là thức ăn của chúng v.v… Vậy cái phân
biệt nào là đúng. Vì thế Phật nói thức ấm không thật có.
Tóm lại Phật
nói thân ngũ ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) là vô thường để phá cái mê
lầm chấp ngã ngàn đời của chúng sanh. Khi thấy rõ nó là vô thường, là giả
có, là tạm bợ thì lần lần chúng ta sẽ nhẹ tâm si mê chấp ngã (vì nó không
thật mà chấp cái gì?). Si mê chấp ngã đã hết thì các phiền não (tham sân
si) cũng theo đó mà hết. Đến đây vòng luân hồi đã dứt, mọi khổ ách tiêu
tan. Điển hình cho pháp tu này là đức Quán Thế Âm Bồ Tát khi dùng trí Bát
Nhã quán sâu năm ấm đều không, liền được xa lìa khổ ách.
18. Không yêu ai hơn tự
ngã
Tâm ta đi cùng khắp
Tất cả mọi phương trời
Cũng không tìm thấy được
Ai thân hơn tự ngã
Tự ngã đối mọi người
Quá thân thiết như vậy
Vậy ai yêu tự ngã
Chớ hại tự ngã người.
Mạt Lợi phu nhân và vua Ba Tư Nặc một hôm cùng luận đạo. Vua Ba Tư Nặc
hỏi:
-Chẳng hay ái khanh thương ai nhất trên cõi đời này?
Phu nhân trả lời:
-Tiện thiếp thương yêu bệ hạ nhất.
Và phu nhân hỏi lại:
-Chẳng hay bệ hạ thương yêu ai nhất trên cõi đời này?
Nhà vua trả lời:
-Trẫm yêu thương ái khanh nhất chứ còn ai nữa.
Bà Mạt Lợi lại nói:
-Nếu bệ hạ cho phép, thần thiếp sẽ nói khác đi một chút.
-Được ái khanh cứ nói đi.
-Muôn tâu bệ hạ, thật ra trên cõi đời này, thần thiếp chỉ có riêng yêu
thương thần thiếp nhất mà thôi.
Vua nghe qua chừng khó hiểu:
-Vậy là sao? Aïi khanh hãy nói rõ hơn.
-Muôn tâu bệ hạ, chỉ vì thần thiếp thương yêu mình, nên muốn bệ hạ ban bố
cho thân này được hạnh phuc. Muốn cho thân mình có được hạnh phúc, thần
thiếp phải thương yêu bệ hạ. Có thế bệ hạ mới thương yêu lại thần thiếp và
ban bố cho tình thương, thần thiếp được hạnh phúc. Vì thương yêu mình, mà
thần thiếp yêu bệ hạ.
Nhà vua nghe qua sự thật của “yêu thương” qua phu nhân sủng ái nhất của
mình, nhà vua bàng hoàng. Một sự thật xem chừng quá trớ trêu.
Bà Mạt Lợi nói tiếp:
-Như bệ hạ, bệ hạ cũng chỉ yêu thương riêng có bệ hạ thôi. Để hiểu rõ việc
này, như thần thiếp đây, nay lại đi yêu đương với một người khác thì bệ hạ
nghĩ sao? Có phải bệ hạ chém đầu thần thiếp không?
Đến đây nhà vua đã rỏ ý, hiểu được nội vụ vấn đề, Ngài gật đầu:
-Phải chính thế, ái khanh nói rất đúng lý. Trẫm cũng chỉ yêu thương mình
trẫm thôi. Ta chỉ có yêu thương tự ngã thôi.
Rồi sau đó vua Ba Tư Nặc và hoàng hậu Mạt Lợi cùng đưa nhau đến ra mắt đức
Phật. Nhà vua muốn cầu Phật xác minh điều Mạt Lợi phu nhân đã nói.
Qua sự trình bày của nhà vua, đức Phật lắng nghe và gật đầu chấp nhận lời
bà Mạt Lợi. Nhân đó Phật mới nói lên lời pháp như vầy.
BÌNH:
Thật là chí
lý! Nếu thành thật nhìn lại tâm mình thì sẽ thấy tâm mình nó là như vậy.
Cõi lòng thâm sâu, tiếng nói thâm trầm của con tim mình là như vậy.
Tâm ta đã đi
cùng khắp, tất cả mọi phương trời, dạo qua mọi nơi, mọi cảnh, mọi người…
Nào tìm thấy ai thân thiết hơn chính ta, thân hơn tự ngã.
Trên đời này
không gì thiết tha yêu thương bằng ái tình. Cái tình này nó còn có lúc
lướt qua tình phụ mẩu. Trong ái tình, việc đầu ấp tay gối giữa vợ chồng
đậm đà như vậy, yêu thương hạnh phúc như vậy. Như vợ chồng bà Mạt lợi, cặp
tình nhân này thiên hạ mấy ai hơn? Thật tâm đâù ý hợp. Việc yêu thương đủ
cả hai mặt tinh thần và vật chất, xác thịt và tâm hồn, một cuộc tình thật
trọn vẹn. Thế mà để lắng sâu hơn vào tiếng lòng, bà Mạt Lợi đã nghe ra
tiếng nói trung thực của mình. Tiếng nói ấy đã núp sâu dưới bao nhiêu lời
tình gối chăn với nhà vua qua bao nhiêu năm dài chung sống: “Thần thiếp
chỉ yêu thương mình thần thiếp thôi!”. Ta chỉ yêu thương ta thôi! Một phát
giác không kém phần phủ phàng! Sự thật nó là vậy.
Và đến lượt
nhà vua cũng thế thôi. Nhà vua nghe được tiếng lòng mình. Từ tiếng lòng
đó, nó sẽ thôi thúc nhà vua tàn nhẫn hơn để chém đầu “ái khanh” mình, khi
mà đương sự ngoại tình!
Đó là gì?
Cái “tự ngã” mình bị đụng chạm, bị mất mát, thiếu sự vuốt ve, thiếu sự thọ
hưởng.
Như vậy sự
thật của cái gọi là “yêu thương” trên cõi đời này là gì? Bên dưới, bề trái
của tình yêu nó là như vậy, thì hỏi tình yêu là gì? Và mình có yêu được gì
không?
Và để nói
lên một sự khá chua chát như vậy, có thể nói: Tình yêu là một sự lợi dụng
lẫn nhau qua thân xác và tâm hồn, chằm thỏa mãn tự ngã mà thôi.
Không ai
nhìn ra bộ mặt tình yêu. Không ai rờ đụng đến tình yêu. Vì sao? Vì nó
không thật có. Mà nó chỉ là sự phóng hiện của tự ngã. Nói yêu người, tức
yêu tự ngã, yêu mình.
Như vậy “tự
ngã” là cái duy nhất để mình yêu thương. Nói yêu, nói thương, nói gì gì
đó, tất cả đều là tiếng nói vì tự ngã. Nên tự ngã thân thiết hơn bất cứ
cái gì trên thế gian này.
Hãy suy cùng
nghĩ cạn sẽ thấy cái tự ngã đã quá thân thiết với chính mình. Mình đã yêu
“tự ngã” muốn giữ gìn “tự ngã” mình, thì phải tôn trọng “tự ngã” người. Vì
người cũng yêu “tự ngã” của họ như mình. Vậy thì chớ có tàn hoại tự ngã
người. Một người muốn có đời sống cao thượng thánh thiện phải sống như
vâỵ.
Tôn trọng
“tự ngã” tức tôn trọng sự tự do, bình đẳng. Đời sống mình và người có được
tự do bình đẳng trong nền tảng như vậy thì cuộc đời đáng sống biết chừng
nào. Hạnh phúc không cầu mà tự có.
Nếu không
như vậy, hạnh phúc trên cõi đời này chỉ là một cái bóng hấp dẫn vậy thôi.
Mọi người cùng đổ tìm nó, và rồi chỉ chuốc lấy sự nhọc nhằn ê chề và niềm
ngao ngán, bao nhiêu nỗi thống khổ bủa vây.
Đây là một
sự thật khá phủ phàng. Dù không đồng ý, chúng vẫn có mặt.
Cuộc đời vì
thế có ra lắm chuyện. Và rồi hỏi ai đã đem lại nỗi khổ cho cuộc đời này?
Có ai đâu! Chỉ có “cái ta” (tự ngã) làm khổ mình thôi.
Để tạo đời
sống tương đối khá dễ chịu cho nhau thì hãy tập sống như lời khuyên này:
Vậy, ai yêu tự ngã
Chớ hại tự ngã người.
] |