PHẦN II: TRÍCH GIẢNG KINH PHÁP CÚ
1. Khen chê không thật
Xưa vị lai và nay
Đâu có sự kiện này
Người hoàn toàn bị chê
Người trọn vẹn được khen.
Bình:
Người hoàn
toàn bị chê xưa nay và mai sau chưa từng có.
Người trọn
vẹn được khen xưa nay và mai sau chưa từng có.
-Như kẻ uống
rượu, được bạn rượu khen. Kẻ cướp, được đồng đảng khen.
Những kẻ
xấu xa như vậy, vẫn có người khen, đâu hẳn đã hoàn toàn bị chê.
-Rồi hiền
như Phật, vẫn bị ngoại đạo chê. Như chúa Jesus rồi cũng bị đóng đinh trên
thập tự giá.
Như vậy để
thấy rằng việc khen chê ở giữa cuộc đời này không phải là chân lý. Người
được khen nở lỗ mũi, người bị chê xụ mặt, là người ngu si, là kẻ khờ. Chớ
vì sự khen chê mà lấy đó làm cuộc sống, hãy sống hợp lẽ đạo mà xa lìa khen
chê.
Người Phật
tử hãy giữ vững lập trường mà đừng lầm lẫn giữa khen và chê. Đừng để cái
khen và chê nó xoay ta, chủ động đời ta. Ai khen ai chê cũng mặc, hễ biết
mình sống hợp đạo lý thì thôi.
Mặc người chê, mặc kẻ gièm
Lấy lửa đốt trời thêm nhọc xác.
(Chứng Đạo Ca)
2. Si mê là gốc đau khổ
Đêm dài với người thức
Đường dài với kẻ mệt
Luân hồi dài kẻ ngu
Không hiểu chân diệu pháp.
Bình:
Với người
thức không ngủ được, thấy đêm sao mà dài lê thê.
Với người đi
mệt, thấy con đường nó sao mà dài xa xôi diệu vợi.
Với kẻ ngu
thì, thấy cuộc luân hồi dài đăng đẳng không có ngày kết thúc. Bao nhiêu
nỗi khổ đau đè nặng trên kiếp người. Ở trong cuộc luân hồi không tìm đâu
được lối ra. Và khổ thay đã là kẻ ngu thì có biết đâu là cuộc “luân hồi”!
Và có bao giờ nghĩ đến phải ra và tìm đường thoát ra. Nhưng thực trạng cái
khổ đau niềm tủi nhục cứ khắn chặt con người họ, và họ phải tự thấy cuộc
đời, cái dòng đời này, thật ê chề, thật ngao ngán. Sự thật đó chẳng khác
nào kẻ thức khuya không ngủ trong đêm, thấy đêm dài lê thê, và kẻ lữ hành
đang trên đường cảm nghe mình mệt mõi và nhìn lại thấy con đường hãy còn
xa thăm thẳm, người mệt, thân nhừ, tất cả việc trước mắt thấy ê chề ngao
ngán. Người ngu ở giữa cuộc đời này là như vậy đó!
Tội nghiệp
thay! Con người nào hay ngoài nỗi cơ cực của kiếp người, còn có đời sống
siêu thoát, đời sống an lành. Đó là đời sống của người hiểu chân diệu
pháp. Không hiểu “chân diệu pháp” con người sẽ khổ đau mãi mãi trong kiếp
luân hồi. Chân diệu pháp chính là Phật pháp.
3. Biết được lỗi mình mới
khó
Dễ thay thấy lỗi người
Lỗi mình biết mới khó
Lỗi người ta phanh tìm
Như tìm thóc trong gạo.
Còn lỗi mình che đậy
Như kẻ gian giấu bài.
Bình:
Dễ thấy lỗi
người việc ấy không khó, chỉ cần nhìn sơ qua là mình thấy người đó có lỗi
rồi. “Vạch lá tìm sâu, quét nhà ra rác” điều này quá rõ ràng. Thấy lỗi
người không khó.
Thấy lỗi
mình mới thật là khó. Vì thông thường mình vốn thương mình, thì có bao giờ
mình chịu cho mình là xấu (có lỗi thì thành xấu), vậy nên có mấy người
chịu trở lại tìm lỗi mình, mặt mình dính lọ thì có bao giờ mình thấy, nếu
không có người chỉ, không biết xem gương.
Vậy đó mà
với lỗi người thì ta phanh tìm không bỏ sót. Người ta có giấu mình cũng
phải tìm bươi móc cho ra. Việc này giống như việc lượm thóc trong gạo. Gầm
đầu lượm từng hạt, lượm thật kỹ. Cái tật này gần như muôn đời ở một con
người. Đó là gần như bản chất, một thứ bản chất xấu xa tồi bại. Nó được
coi là rất trái với thánh đạo.
Ngược lại,
với lỗi mình thì bưng bít, che đậy giống như người cờ gian bạc lận, giấu
đi con bài của mình v.v... để phòng thủ thắng kẻ khác. Một sự giấu giếm
thật khéo léo thật tinh vi.
Cái tật
chúng sanh là như vậy. Mấy ai chịu gan dạ phơi bày lỗi mình.
Đức Phật đã
nói như vậy, là trước chỉ cho con người thấy rõ sự lầm lẫn của mình, thấy
rõ ngõ ngách của tâm hồn mình. Thấy rồi để mà khéo chừa đi. Là một Sa Môn,
một người tu chớ có thấy lệch lạc như vậy. Mà lúc nào người Sa Môn cũng
phải biết rõ lỗi của mình đẻ phát lồ sám hối. Phát lồ tức là phơi bày lỗi
lầm, không giấu giếm, mà đưa ra trình lên trước đại chúng, nhận khuyết,
nhận lỗi cầu xin sám hối.
Ngài Huệ
Năng đã dạy: Thường biết lỗi mình, chớ biết lỗi thế gian.
Tu là cốt để
biết rõ mình. Muốn biết rõ mình phải “biết lỗi” mình. Tu mà không biết lỗi
mình thì không bao giờ tu tiến được. Những lỗi hiện đời và lỗi từ vô thủy,
biết bao lỗi, thế mà không biết, thì sao gọi là tu? Tu là sửa. Sửa là sửa
lỗi. Sửa lỗi thành không còn lỗi nữa gọi là tu. Không như vậy, gọi tu là
tu làm sao?
Vậy chớ có
biết lỗi người. Phải thường biết lỗi mình. Được vậy trong tương quan cuộc
sống mình không bị thiên hạ ghét. Mình không nói lỗi người thì ai ghét
mình. Và trong việc tu hành, ngày càng tiêu được tội lỗi, nghiệp chướng
vơi đi, tâm trí ngày càng sáng thêm. Niềm an vui ngày càng rộng mở. Cuộc
sống ngay đó được hạnh phúc. Không cầu mà được.
4. Thắp sáng trí huệ
Như giữa đống rác nhớp
Quăng bỏ ngoài đường lớn
Chỗ ấy nở hoa sen,
Thơm sạch đẹp lòng người.
Cũng vậy giữa quần sanh,
Uế, nhiễm, mù, phàm tục,
Đệ tử bậc chánh giác
Sáng ngời với trí tuệ.
Bình:
Trong chỗ
nhơ nhớp mà sanh hoa sen. Hoa nở thơm sạch, đẹp lòng người.
Ở trong các
pháp thế gian: khổ, không, vô thường, vô ngã, bốn điều này người thế tục
cho là thường, lạc, ngã, tịnh. Đó là bốn việc: vô thường không phải
thường, vô ngã không phải ngã, khổ không phải lạc, nhớp không phải tịnh.
Vậy mà họ thấy thường, lạc, ngã, tịnh, cái thấy như vậy là không đúng sự
thật. Như bàn tay trắng mà thấy là bàn tay đen. Thấy như vậy là thấy mù.
Một cái thấy hoàn toàn không đúng sự thật.
Với các pháp
giữa này, người phàm tục đều thấy như vậy, nên gọi là mù.
Từ cái thấy
mù như vậy mà chấp lấy các thứ uế nhiễm của thế gian làm sự sống. Chính vì
bằng cái thấy mù tối như vậy, nên các pháp ấy đã trở nên trói buộc, làm
thống khổ cho người. Đã dính mắc vào nó mong gì thoát ra, càng giẫy giụa
nó càng khắn chặt. Như những con rắn đã quấn vào mình mà càng vùng vẫy thì
nó càng siết cứng và cắn rứt.
Ngược lại
đối với bậc đệ tử bậc Chánh giác, hàng Sa Môn, đối với các vật gọi là uế
nhiễm: khổ, không, vô thường, vô ngã. Thấy đúng như thật. Cái thấy ấy như
đầu đen thấy là đen, bàn tay trắng thấy là trắng. Thấy như vậy là cái thấy
của con mắt sáng. Thấy đúng như thật. Cái thấy đó là trí tuệ.
Ở trên tướng
uế nhiễm mà thấy đúng như thật, thì ngay đó đã được giác ngộ đúng đắn, tức
được chánh giác. Cái thấy đó là sáng ngời trí tuệ, đâu còn lầm lẫn nữa. Vì
vậy mà giải thoát được ngay trên nó, giải thoát vươn lên tỏa rộng đời sống
thanh tịnh ngay trên nó, có khác gì hoa sen mọc lên nở đẹp giữa nơi nhơ
nhớp.
Từ cái thấy
này, nếu ở trong pháp Đại thừa, tức thấy rõ “Phiền não tức bồ đề”. Ngay
chúng sanh tức là Phật. Ngay cảnh giới chúng sanh nhơ xấu, tức là cõi Phật
thanh tịnh đủ bốn tánh: Thường, lạc, ngã, tịnh. Và để phân biệt bốn tánh:
Thường, lạc, ngã, tịnh của chúng sanh (bốn cái thường không thật) gọi đây
là Chơn thường, Chơn lạc, Chơn ngã, Chơn tịnh.
5. Cội gốc luân hồi
Không có một pháp khác
Quần sanh bị bao phủ
Ngày đêm chạy luân chuyển
Như bao bọc bởi si
Và ai phá được si
Đâm thủng khối u ám
Chúng không lưu chuyển nữa
Trong chúng, nhân không còn.
Bình:
Tất cả chúng
sinh sỡ dĩ bị luân chuyễn trong sáu đường không có ngày cùng, đều bởi
không thấy được lẽ thật mà khởi tâm điên đảo chớ không có gì khác. Không
thấy được lẽ thật tức gọi là si vậy. Cho nên đầu tiên Phật dạy hàng Tỳ
Kheo phải thấy rõ Tứ đế như thật. Tiến lên dùng trí Bát Nhã soi thấy năm
uẩn đều không. Cả hai đều khởi đầu bằng trí tuệ, nghĩa là thấy mình đúng
như thật, thấy sự vật đúng như thật, tức phá được si, dứt nhân luân hồi.
] |