PHẦN III: DIỄN GIẢNG
1. Đặt lại vấn đề tu cho
hàng Phật tử tại gia
Tu là gì? Là sửa.
Vậy Phật tử có tu chưa?
Phật tử đi chùa cúng Phật để làm gì?
Việc ấy có gọi là tu không?
Cúng Phật để xin cầu an hay cầu siêu? Đó là việc của Phật tử?
Từ việc này hỏi lại Phật tử. Thí dụ: Phật tử có con cái nó về thăm mình,
cho tiền cho quà rồi nó đòi hỏi mình phải đáp ứng lại nó việc này, việc
nọ... thì hỏi mình có vui mà nhận quà của chúng không? Chúng là con cái
mình mà lại đặt điều kiện với mình buộc mình phải thỏa mãn cho chúng khi
mình nhận tiền của, lễ vật của chúng?
Con cái như vậy là có tốt với cha mẹ không? Phải là con hiền con thảo
không? Một bậc cha mẹ nghiêm chỉnh đúng đắn có chấp nhận yêu sách vô lối
như vậy của con cái không?
Ở đây việc cúng kiến của Phật tử cũng vậy. Cúng Phật một số lễ vật, tiền
của nào đó rồi mong cầu Phật phải độ cho mình điều này điều nọ. Phật phải
giúp cho thân nhân mình siêu, giúp cho mình an, thỏa được những việc muốn
của mình trong cuộc sống. Mua may bán đắt, tai qua nạn khỏi, gia đạo yên
lành, con cái nên danh nên phận v.v... biết bao nhiêu việc mình đòi hỏi ở
đức Phật với một mớ lễ vật như vậy?
Như vậy đó là mình đã tu chưa? Tu là sửa. Ở đây mình có sửa gì không? Mình
chỉ có tham thôi, không có sửa gì cả, phải vậy không? Mà tham tức là trái
với sự tu rồi. Tu là sửa. Sửa là sửa tham sân si để lần hồi tham sân si
không còn nữa. Như vậy mới gọi là tu! Chứ tu gì mà mỗi ngày lòng tham thêm
nhiều.
Đem nải chuối, ốp nhang cúng Phật cầu được việc, mừng quá, sau đem hai
nải, hai ốp cầu thêm nữa..., như vậy đó là mỗi ngày lòng tham thêm lớn. Và
lúc nào việc cầu không còn linh nữa, kiếm chùa khác, Phật khác linh hơn.
Việc cúng kiến đi chùa như vậy ở Phật tử , đó là cái duyên dễ bước vào tà
đạo, bước vào mê tín dị đoan. Nghe ở đâu có gì linh thiêng hiển hách, có
gì lạ một chút là rủ nhau kéo đến xin xỏ nọ kia v.v... gặp tà ma dẫn dụ là
đi vào đạo tà mất nhân chánh giáo.
Đó là chỗ đáng tiếc cho quí Phật tử. Đã có tâm tốt mà gieo nhân không
chính xác, không cần hiểu Phật pháp ra sao. Thành ra cũng đồng làm một
việc mà người hiểu biết thì có kết quả tốt, còn người không hiểu biết thì
kết quả chẳng ra gì.
Cũng chỉ một ốp nhang nải chuối mà người hiểu được Phật pháp thì gặt được
pháp lành an vui, còn người không hiểu thì chỉ thêm sự rối rắm đau buồn,
nếu không nói là hoài công vô ích.
Nói như vậy để Phật tử thấy rõ chỗ tu chớ không phải nhằm trách cứ gì Phật
tử. Thật ra cái lỗi không phải ở Phật tử, mà nếu có nói thì đó là lỗi của
những Tăng Ni nào đó. Các vị ấy đã vô tình hay cố ý đưa các Phật tử vào
chỗ nhận thức lệch lạc.
Người Phật tử đến chùa xin cúng 100 đồng. Vị trụ trì hay người có trách
nhiệm thâu tiền liền hỏi:
-Phật tử muốn cầu gì? (Hỏi và hướng dẫn) Cầu an hay cầu siêu?
Và lắm lúc vị đó còn tâm lý hơn, tìm hiểu về gia đình của Phật tử, biết có
chuyện gì đó không ổn thì gợi ý cầu nguyện cho v.v... Phật tử thiếu hiểu
Phật pháp liền đó nghe mình được người Thầy chăm sóc cẩn thận, bèn thích
ý. Và cứ vậy, nhờ Thầy giúp cho việc này, việc nọ qua cúng kiến, cầu an,
cầu siêu...
Tại sao khi Phật tử cầm tiền, dâng lễ vật cúng kiến, nếu người Thầy có hỏi
cầu gì? Phật tử lại không trả lời rằng:
-Con không cầu gì khác, chỉ cầu cho tam bảo trường tồn để độ thoát chúng
sanh trầm nịch.
Vì vậy việc Phật tử đi chùa, cúng Phật, lễ Phật phải được đặt lại. Việc tu
ở Phật tử phải được đặt lại.
Trước hết Phật tử đến chùa để cúng dường Tam Bảo. Việc cúng dường này có
nghĩa là góp một phần tài lực để duy trì ngôi Tam Bảo cho còn mãi mãi ở
đời. Mà đại diện ngôi Tam Bảo là Tăng Bảo. Như vậy, cúng dường Tam Bảo có
nghĩa là cúng dường cho Tăng Bảo. Khi cúng lòng những mong sao cho ngôi
Tăng Bảo có được nguồn sống mà duy trì Phật Bảo, Pháp Bảo. Chư Tăng có
sống thì ngôi Tam Bảo mới thường trụ ở thế gian và làm ngọn đèn sáng cho
chúng sanh hướng tới để tiêu trừ bao nỗi vô minh hắc ám.
Phải biết việc khai mở đạo mầu là quý báu vô lượng, vì việc ấy mà cúng
dường nên phước đức theo đó cũng vô lượng. Cúng dường như vậy là không vì
việc riêng mà chung cho cả Tam Bảo, cho cả chúng sanh, nên dù không cầu gì
khác mà phước đức vẫn to tát. Việc cúng dường này không phải nhằm chuyển
đổi lòng tham, không phải chuyển từ cái tham lệch lạc thành cái tham chính
đáng, đã tham thì không cái nào chính đáng. Ở đây nói là nhằm hướng dẫn để
xác định về nhận định chính đáng trong việc làm, nhằm xây dựng cho Phật tử
có được chánh kiến, có được cái nhìn đúng đắn khi đi vào ngôi nhà Phật
pháp.
Như đã nói: Trước là giữ vững ngôi Tam Bảo. Giúp Tăng Bảo được sống còn để
tiếp nối ngọn đèn chánh pháp của Phật. Kế đó Phật tử phải chịu khó học hỏi
nghe pháp.
Đến chùa, nếu chỉ một bề lo cúng dường cơm áo (tứ sự) không, chưa đủ.
Người Phật tử phải trau giồi thêm Phật pháp với chư Tăng Ni nữa. Có vậy,
việc Phật pháp mới sáng ra và việc tu theo đó mới có lối vào, khi hành
không sai lạc.
Đó là việc chiïnh yếu, Phật tử phải chú ý. Tu mà không học là tu mù. Vả
lại đó cũng là trợ duyên cho Tăng Ni tự trau giồi để đáp ứng lại chỗ cầu
học của Phật tử. Chứ không, không ai hỏi gì hết, khiến Tăng Ni có người
cũng lơ là sự tu học kinh điển. Để rồi qua ngày đoạn tháng, chỉ làm một
việc cúng kiến lặt vặt có chừng. Như vậy, uổng phí cho cả đời xuất gia học
đạo.
Phật tử đến chùa, phải cầu học Phật pháp, và chỉ nên nói về những vấn đề
Phật pháp, chớ nên đem việc thế sự lạm bàn. Chỉ mất thời giờ vô ích và làm
rối tâm người tu.
Phật tử học tu là tu như thế nào?
Có ai hỏi: Là Phật tử, sau khi chết đi về đâu? Phật tử sẽ trả lời làm sao?
Nếu mình tu cầu về cõi Phật, mà đạo nghiệp chưa tròn, Phật và Thánh chúng
không rước thì mình về đâu?
Mình sẽ ú ớ về điều này! Vì vậy Phật tử chưa nắm vững đường lối tu.
Phải biết trong Phật giáo có chia ra làm ngũ thừa, là năm thừa, năm từng
bậc để người tu hướng đến. Năm thừa là: Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn
thừa, Duyên giác thừa, Bồ Tát thừa.
Với nghiệp nhân cho các thừa cũng phải biết qua. Thí dụ ở Nhân thừa, tu
nhân gì sẽ được sanh về cõi người? Muốn sanh về cõi người phải giữ năm
giới làm căn bản. Ở Thiên thừa, muốn sanh về cõi trời phải tu Thập thiện
v.v... Người Phật tử phải biết qua những điều như vậy để xác định hướng đi
của mình, để biết rồi mình sẽ đi về đâu.
Như bây giờ mình không đủ điều kiện sanh về cõi Phật mà bình sinh mình
khéo giữ được năm giới, thì biết chắc là sau khi chết mình sẽ sanh lại làm
người. Và do tu pháp lành nên thành người có đức hạnh được vào hàng tôn
quý, giàu có sang trọng v.v... Biết được vậy, không sanh (tâm) nghi ngờ,
an tâm tu tập pháp lành.
Phật tử tu pháp lành của phần mình là tu làm sao?
Đây là việc tu của người Phật tử tại gia. Phật tử đã thọ quy giới rồi.
Giới thứ nhất, không giết hại, Phật tử phải vâng giữ không nên giết người,
không nên giết các loài sinh vật bừa bão. Phải giới hạn tối đa trong hoàn
cảnh điều kiện của mình, cố tránh nợ sanh mạng càng nhiều càng tốt.
Giới thứ hai, không trộm cắp, Phật tử đã vâng giữ rồi không nên tái phạm.
Không được trộm cắp của người bằng bất cứ hình thức nào, hoặc gián tiếp
hay trực tiếp cũng đều không nên.
Giới thứ ba, không tà dâm. Phật tử phải thể hiện đời sống lứa đôi một cách
chơn chánh, tránh các trường hợp lang chạ, ngoại tình.
Giới thứ tư, không nói dối, Phật tử phải thành thật, dù trong công việc
mua bán đổi chác, không nên lừa lận người. Buôn bán làm ăn thì phải có
thịnh có lời, nhưng đồng thời phải nhắm trên công sức, trên mồ hôi trí tuệ
mình. Tránh mọi trường hợp nhằm bóc lột tài lực, nhân lực người. Cắt giá
ăn tiền, tráo trở mặt hàng, lật lọng giao kèo hợp đồng, bội tín trong công
việc làm ăn v.v... Uy tín người Phật tử được xác định phần lớn trên việc
này.
Giới thứ năm, không uống rượu, điều này quan trọng đối với người nam.
Người Phật tử nam phải khá chinh phục mình về việc này. Trong cuộc sống,
không tránh khỏi giao tế, nhưng đối với việc rượu chè, phải khéo linh động
làm sao không phải vướng vào. Hay ít ra hoặc vướng vào cũng phải biết
đường ra. Uy tín con người nằm trên chỗ tỉnh và say. Phật tử phải khéo chế
ngự mình. Đã thấy rõ tác hại của rượu trên mọi mặt thì nên tránh xa càng
tốt. Phật tử lúc nào cũng phải tỉnh sáng. Có tỉnh sáng mới thấy được vấn
đề phức tạp khác đang bao quanh cuộc sống của mình. Nhất là màn tối vô
minh hãy còn dày đặc, Phật tử hãy thoát ra khỏi mọi sự nghiện ngập!
Là Phật tử, còn tại gia cư sĩ không phải tu gì nhiều hơn, nếu có đủ duyên
tiến xa hơn càng tốt. Nếu không, chỉ giữ chừng ấy việc là đã quý lắm rồi.
Phật tử ngoài chiều tu tiêu cực (chỉ lo cho mình đừng phạm năm giới) còn
phải phát huy trên chiều tích cực. Tức nhằm giúp người, tạo duyên cho
người cũng được như mình. Việc này cần phải khéo làm trong tin thần cởi
mở, chân thành vì người, không một ý đồ vụ lợi riêng tư nào. Làm thế nào,
nơi nào có bóng dáng Phật tử là nơi đó có cuộc sống tươi mát, có sự ấm êm
hạnh phúc.
Gia đình có Phật tử thì gia đình hạnh phúc. Láng giềng có Phật tử thì láng
giềng thêm vui. Người đời có Phật tử thì có sự ấm áp, có được yên lành.
Phật tử phải là hiện thân Phật pháp sống đi vào cuộc đời. Chớ nhìn Phật
pháp trên hình tượng Phật, hãy nhìn Phật pháp ở nơi mình, và ở ngay trong
lòng cuộc sống. Phật pháp phải là pháp sống, không thể là pháp chết được.
Phật tử muốn tuyên dương Phật pháp, hãy tự mình sống đúng như Phật pháp.
Đó là sự cúng dường cao tột nhất. Chư Phật sẽ nhất tâm tùy hỷ cho người có
trình độ sống như vậy. Và từ đó mọi rối rắm của cuộc sống sẽ lần hồi được
giải quyết ổn thỏa. Đó là đã được pháp lực gia hộ. Một sự gia bị bất khả
tư nghì. Ấy cũng từ nơi mình nỗ lực quyết sống vì Phật pháp mà thôi, không
có gì huyền hoặc, thần bí.
Phật tử đã có gan sống như Phật pháp, thì không cầu an mà được an. Vì đã
là người Phật tử chân chánh thì thấy nguy nào khác gì an. Nguy cũng là
tướng, an cũng là tướng. Mà đã là “tướng” tức là hư vọng thì an hay nguy
thảy đều hư vọng. Thế nên Phật tử ngay đó mà bình an. Một sự bình an như
vậy mới thật là bình an lớn. Và từ niềm bình an ấy, Phật tử có đủ tỉnh táo
sáng suốt chuyển nguy thành an theo cái nhìn của cuộc đời. Chuyển được
hoàn cảnh xấu thành tốt.
Vô lý, tu hành là chỉ để “cầu an” . Tu là đối kháng lại ma quân thì làm
sao an được? Mà hễ không an thì thối lui, đó có phải là người tu chưa? Lui
thì ai tiêu trừ ma quân? Ma quân mà còn thì an làm sao an? Dù muốn an có
được không?
Vậy nên người tu không thể chấp nhận được sự “cầu an” như vậy. Không thể
cầu an bằng cách thối, không chiến đấu với ma quân, bằng cách làm nô lệ ma
quân, hay bằng cách bám theo chân đức Phật, núp trong hào quang ẩn quanh
cội Bồ đề.
Không! Người đã nghĩ đến chuyện tu không thể như vậy được.
Phải biết, đức Phật cũng đã là người từng chiến đấu với ma quân. Nay Ngài
đâu chấp nhận lũ “hậu duệ” chỉ biết núp bóng trốn vây quanh bên Ngài.
Không được, dù muốn dù không cũng phải chiến đấu. Đã chấp nhận chiến đấu,
quyết một mất một còn thì làm sao mà an được. Thế nên dù có cầu an cũng là
điều vô ích. Ma quân có chịu cho ta cầu an không? Có thể nó chỉ chịu khi
nào nó cảm thấy núng thế trước ta, tức có nghĩa ta phải trên đà thắng
chúng mới chịu để ta an, mới chấp nhận sự cầu an.
Hãy chiến đấu! Là đệ tử Đức Điều Ngự thì không có quyền chùn bước. Nguyện
đời đời không khiếp nhược để cầu an. Chỉ cầu an khi nào ma quân trở thành
nô lệ dưới tay kiếm này.
Là Phật tử, tức là dòng giống của trí tuệ, là dòng kiếm Bát Nhã muôn đời.
Người Phật tử hãy đón nhận lưỡi kiếm mầu, cầm vững trong tay linh hoạt
tiếp đón lũ ma quân. Sự cầu an trên ánh kiếm lướt qua đầu vạn lũ ma quân.
Đó là sự cầu an đích thực nhất.
Việc tu hành như vậy ở một Phật tử thuần thành, biết tin tưởng Phật pháp
đúng lẽ thật, sẽ thấy rõ điều ấy không phải một sớm một chiều mà được.
Việc tu như vậy phải trải qua nhiều đời nhiều kiếp. Cả ba đại a tăng kỳ
kiếp.
Nói như vậy không phải nhằm gây chán nàn một công trình có vẻ dài lâu. Mà
ta thấy rõ một sự thật không phải đơn giản, không phải là một chuyện dễ
dàng gì. Một cái nghề nghiệp thông thường ở thế gian thôi, mà muốn đạt
trình độ tinh sảo cũng phải đến cả đời người. Huống chi đây là một việc mờ
mờ, ảo ảo, khó nghe, khó thấy, khó thực hiện thì hỏi với số thời giờ phù
du của ba vạn lẻ ngàn ngày là mấy, sẽ dùng vào đâu được. Thật chẳng có vào
đâu, chỉ trong một đời người.
Việc tu hành mà đem thời gian ba vạn sáu ngàn ngày để ấn định thì thật
chẳng đáng gì!
Ở nhà Thiền nói: Phải gắng đời này cho xong. Đây là một lời nêu cao ý chí,
khích lệ kẻ trượng phu. Kỳ thực, làm sao xong được chỉ trong một đời. Có
được chăng là những bậc đã tu qua nhiều đời, đến đời này một nghe ngàn
ngộ, thì gọi là xong. Xong căn cứ đời này mà nói. Hay xong là quyết trong
đời này, không còn lầm nữa. Đối với chân lý đã sáng tỏ rõ ràng. Chứ công
hạnh làm sao mà tròn được. Và nếu có được, thì chỉ là xong phần nhân, nhân
thành Phật. Đó là trường hợp Long Nữ trong Kinh Pháp Hoa. Nàng vừa được
Ngài Văn Thù điểm hóa, thoát liền thành Phật. Phật ấy mới là Phật nhân
thôi. Tuy là nhân quả đây mang tính đồng thời. Đồng thời là cùng lúc đồng
lớn lên cả nhân và quả. Chớ không phải liền đó nẩy nở đúng mức. Cũng như
hạt sen và gương sen, đồng có một lượt, cùng nẩy nở, để rồi mới lớn lên;
chứ không có nghĩa ngay khi có hạt, gương là liền thành quả lớn trọn vẹn
đúng mức.
Vậy, phải hiểu điều này chớ có lầm lẫn. Không vì lâu xa mà nản, không vì
mau chóng mà hấp tấp xem thường. Dù thời gian lâu hay mau, cũng không nên
xem thường hay nản chí. Mà phải biết đây là một việc đòi hỏi một ý chí phi
thường, một sự kiên tâm không bờ mé.
Tuy vậy, đối với người khéo tu thì luôn luôn giữ được sự thảnh thơi trong
lúc dụng công. Cho nên dù chưa đạt được quả vị cuối cùng, cũng giữ được
tính chất giải thoát an nhàn.
Phật tử khéo tu như vậy, dù chưa tới đâu, nhưng khi nhận đúng pháp, tu
đúng đường lối thì việc tu cũng được nhẹ nhàng thư thới. Như nếu thật là
ăn cơm, thì vừa ăn là vừa no, vừa khoan khoái. Cứ vậy mà ăn, càng ăn càng
no, càng khoan khoái.
Nếu khác vậy thì phải soát lại, xem đường lối mình có đúng như pháp không.
Pháp Phật là pháp giải thoát thì từ đầu đến đuôi cũng phải mang tính giải
thoát mới được.
Có những Phật tử khi tu không được hướng dẫn đúng pháp, khiến ra công trở
nên trì trệ và có nhiều điều đáng tiếc cho cá nhân và người chung quanh.
Thay vì tu để có được an vui giải thoát thì lại sanh gắt gỏng vô lý, tạo
nhiều nỗi bất an cho mình và cho người, gây xáo trộn cuộc sống vô lối, tạo
nhiều ràng buộc, những dính mắc không đâu.
Vậy nên Phật tử phải hiểu rằng tu theo Phật pháp là nhằm tạo cho đời sống
giữa mình và người đồng được an vui. Hay ít ra chính mình phải được an vui
đúng như pháp.
Làm thế nào khi chưa biết đi chùa thì gia đình lục đục rối loạn. Đến khi
biết đi chùa thì gia đình trở nên êm ấm hạnh phúc. Như vậy mới là một Phật
tử tốt.
Người Phật tử như vậy là người khéo học đạo. Biết vận dụng đời sống đạo
vào đời sống thế tục. Để tóm kết, người Phật tử tại gia cư sĩ phải nhận
định rõ ràng về những việc của mình khi đến trong Phật pháp:
-Cần nhận định đúng đắn về việc cúng dường.
-Phải xây dựng nhân tu theo nhân quả. (Quả: vô tham. Nhân: phải lìa tham)
-Tu không phải để cầu an. Tu là chiến đấu với ma quân.
-Tu không phải một ngày một buổi.
-Tu là phải thảnh thơi.
2. Then chốt luân hồi và
giải thoát
Mục đích của người tu hành là ra khỏi vòng luân hồi sanh tử, được giác ngộ
và giải thoát. Người tu thì nhiều mà người giải thoát thì không được bao
nhiêu. Vì sao? Vì pháp của Phật không đúng chăng? Vì chướng ngại quá cao
chăng? Không, pháp của Phật là chân lý muôn đời, còn chướng ngại thì không
cao không nặng, chỉ vì người tu hành không thực hành đúng lời Phật dạy,
hoặc không biết rõ then chốt của luân hồi và giải thoát để nắm vững và hạ
thủ công phu.
Phật dạy: Chúng sanh luân hồi trong ba cõi sáu đường là do vô minh tác
động gây nghiệp, rồi chịu quả báo. Muốn cho người tu hành hiểu rõ sự việc
từ đầu đến cuối, Phật dạy lý mười hai nhân duyên:
Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên
lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ,
thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão tử. Nếu vô minh diệt thì
hành diệt, hành diệt thì thức diệt... sanh diệt thì lão tử diệt.
Như vậy, muốn hết luân hồi sanh tử thì phải diệt vô minh. Chúng ta hãy
tìm hiểu vô minh là gì? Theo Kinh A Hàm thì nếu không biết Tứ Đế như thật
là vô minh. Theo Kinh Viên Giác nếu thấy thân ngũ uẩn và lục trần có thật
là vô minh. Theo Tổ Hoàng Bá, nếu thấy chín mươi chín phần là giả, chỉ còn
thấy một phần nhỏ nhất là thật có thì vẫn còn vô minh.
Làm sao diệt được vô minh? Rất khó, vì nó thuộc thuộc về nhân quá khứ làm
sao diệt được? Như vậy chúng ta không thể chặt đứt vòng luân hồi ở chỗ vô
minh được, mà phải tìm chỗ khác. Hành, thức, danh sắc, lục nhập, cũng
không thể được, vì làm sao diệt được hành là nghiệp quá khứ. Thức, danh
sắc, lục nhập là bộ phận của thân thể con người, chẳng lẽ mang ra hủy
hoại? Xúc, thọ là những cảm giác ảnh hưởng đến chúng ta cũng không tu
được. Chỉ còn Ái là bộ phận cái khoen mềm yếu nhất trong cái vòng gồm mười
hai cái khoen của sự luân hồi, chính nơi đây người tu hành nhắm vào để
chặt.
Ái là thương yêu. Vì thương yêu nên muốn nắm giữ (thủ), nắm giữ cho ta
(ngã), vật đó của ta (ngã sở). Diệt ái tức là phá trừ chấp ngã và ngã sở
vậy.
Người đời được khen thì vui, đó là thọ lạc. Bị mất thì buồn, đó là thọ
khổ. Nếu có tiếng nói không khen không chê thì mình không vui, không buồn,
đó là vô ký. Trên đây là nói về tiếng. Nếu nói về sắc thì cũng vậy. Đẹp
thì thích, xấu thì chán ghét. Người tu phải làm sao không còn cái tâm ưa
thích, chán ghét, giận dữ, nghĩa là giữ tâm an tịnh chứ không phải gỗ đá.
Có ái là thương yêu, thích thú, là có lòng tham (thọ lạc). Nếu điều gì có
lòng ghét thì khởi lòng sân (thọ khổ). Làm sao đừng tham, đừng sân. Ái
tương ưng với tham, trái lại ghét tương ưng với sân. Còn vô minh chính là
tương ưng với si. Tham sân si là gốc của tam độc.
Si, là thủ phạm gây ra tội lỗi, là tên khác của vô minh. Vì si mê lầm lạc
mà chúng ta không phân biệt được điều hay lẽ dở. Không biết đâu là thật,
đâu là giả, đường thẳng không đi, lại đâm quàng vào bụi rậm. Phải diệt si
thì tham sân sẽ hết. Nếu không tìm ra si để diệt thì không bao giờ diệt
được tham sân.
Như đã nói ở trên, người đời được khen thì vui thích, bị chê mắng thì chán
ghét. Vậy nếu không thấy thì làm sao dứt được? Đó là then chốt của sự tu
hành. Đừng thấy khen chê là thật, thì sẽ dứt được vô minh. Các Tổ dạy phải
“quán thọ thị khổ”, thọ lạc cũng không thích, thọ khổ cũng không giận, thọ
không lạc không khổ cũng không ưa. Phải bình đẳng đối với tam thọ mới
được.
Những cái gì lãnh thọ, nhận chịu đều là khổ. Những cảnh khổ đau, những lời
chê bai, những vị cay đắng ở đời là khổ đã đành, nhưng còn cảnh sung
sướng, những lời khen ngợi, những vị ngon ngọt thì có phải là khổ không?
Theo giáo lý nhà Phật thì vui, buồn, khen, chê, ngọt, đắng... đều là khổ,
là giả, là vô thường. Muốn giải thoát người tu hành phải giữ tâm bình
thản, không còn thương ghét, như người gỗ ngắm chim vẻ, được vậy thì ở đâu
cũng tu được, chẳng cần phải lên núi, vào cốc nhập thất làm chi. Nhưng
phải biết việc đó rất khó.
Theo Kinh A Hàm thì tiếng khen là vô thường hoại diệt vậy là khổ, tiếng
chê cũng là vô thường hoại diệt cũng là khổ. Biết là khổ thì còn dại gì
sinh lòng yêu ghét. Nếu không sinh lòng yêu ghét thì đã diệt được tham và
sân rồi. Chúng ta bị khổ vì chấp tiếng khen cho là thật có, chấp lời chê
cho là thật có, chấp hình ảnh đẹp cho là thật có rồi yêu thích, chấp hình
ảnh xấu cho là thật có rồi sinh lòng chán ghét. Nếu biết tất cả là vô
thường, là khổ, thì đừng ghét, đừng yêu. Tham sân hết, thì si cũng không
còn, biết là vô thường thì không ham, vậy dứt được ái. Dứt si, dứt ái là
phá được vòng luân hồi, được giải thoát.
Bây giờ chúng ta thử căn cứ vào kinh Bát Nhã xem sao? Quí vị tụng bất cứ
kinh gì, cũng kết thúc bằng Bát Nhã Tâm Kinh. Bát Nhã là trí tuệ. Phương
pháp tu nào cũng phải nhờ Bát Nhã. Ngưòi nào có trí tuệ sáng suốt thì phá
trừ được vô minh. Ví như thắp đèn sáng lên thì bóng tối tự tiêu tan. Bát
Nhã chủ trương ngũ uẩn giai không, biết tất cả là không, thì thoát tất cả
mọi khổ ách. Mọi vật đều tự thể là không, do nhân duyên hòa hợp mà thành,
đó chỉ là huyễn có, là giả hợp. Nếu biết tất cả là giả, thì còn tham đắm,
say mê, thương ghét, giận hờn làm gì? Tất cả đã là không, thì không có
người, không có ta, không có vô minh, tội chướng, mà cũng không có nghiệp
quả khổ đau. Nhưng tâm trạng này chỉ đến với những người đã chứng đến pháp
“nhất thiết không”, trí người đó đã sáng, tâm người đó đã bình, chứ còn
chúng sinh thì vẫn thấy có luân hồi, có giải thoát, có sinh tử, có niết
bàn, có tội, có báo, có nhân, có quả.
Người có trí tuệ thì hiểu tiếng khen, lời chê, sắc đẹp, dáng xấu, miếng
ngọt, vị cay... đều là nhân duyên hợp lại mà thành, là huyễn hóa, là giả,
thì không còn ưa ghét, nhờ vậy mà dứt được ái, hết tham và sân. Giác ngộ
thân, tâm, cảnh là giả, dùng trí tuệ chiếu soi tất cả thì mới là giải
thoát, dứt được vô minh, trừ được si.
Chúng ta sống ở đời quen coi ta, người và cảnh đều có thật. Nay nhờ trí
Bát Nhã chiếu soi, chúng ta hiểu tất cả là giả có, in tuồng là có mà thôi.
Ngay trong lúc thấy có, phải biết nó là không, tất cả các pháp tự tánh là
không, đương thể tức không. Cái bàn trước mắt ta đây, bây giờ thấy có,
nhưng nó hoại lần lần, rồi sẽ biến dịch thành không. Chỗ này rất dễ hiểu
trước có sau không, theo luật vô thường. Đó là theo Kinh A Hàm. Nhưng nói
theo Kinh Bát Nhã thì cái bàn tự tánh là không, do nhân duyên hòa hợp,
đương thể tức không. Cái bàn còn y nguyên chưa hoại mà đã biết nó là
không, đó mới thật là chân không. Mà cũng chính cái không này lại phát
sinh ra cái có, đó là “Sắc tức thị không, không tức thị sắc”.
Đừng thấy tất cả là giả, là không rồi chẳng chịu làm gì, ngồi im một chỗ,
hoặc lên núi, lên non ẩn mình. Thật ra, thấy ngũ uẩn giai không rồi, là đã
tỉnh giác, nhưng chỉ giác được một chút rồi lại mê. Phải làm sao cái giác
thật lâu, mãi mãi tự giác rồi còn giác tha. Các vị Bồ Tát sau khi chứng
được chữ Không đều phát lòng đại bi, lăn vào trong đời ác ô trược để cứu
chúng sinh. Đứng về thể tánh thì không chấp một pháp nào, nhưng đứng về
mặt thực hành thì không bỏ một việc thiện nào mà không làm.
Chúng ta đã học hiểu rồi phải thực hành, tự thắp đuốc lên mà đi, ngọn đuốc
tâm ta sáng thì được giác ngộ và giải thoát.
Tóm lại, then chốt của luân hồi và giải thoát, theo Kinh A Hàm thì phải
hiểu rõ Tứ Đế như thật, mọi vật là vô thường, là hoại diệt, vậy là không.
Còn theo Kinh Bát Nhã thì phải phát huy trí tuệ, phải giác ngộ biết vạn
vật do nhân duyên hòa hợp, nguyên thể là không. Việc tu hành không có gì
lạ, điểm trọng yếu làm sao có trí tuệ sáng suốt để được giác ngộ, mà hễ
được giác ngộ là được giải thoát.
] |