PHẦN V: TRÍCH GIẢNG THIỀN SỬ(tt)
9. Buông xuống đi!
Nghiêm Vương Tôn Giả hiệu Thiện Tín là đệ tử của Triệu Châu. Một hôm Sư
hỏi Triệu Châu:
-Một vật chẳng đem đến thì thế nào?
Triệu Châu bảo:
-Buông xuống đi!
Sư thưa:
-Đã là một vật chẳng đem đến buông cái gì?
Triệu Châu bảo:
-Buông chẳng được thì nên gánh đi.
Qua chuyện này, Ngài Huệ
Nam
có làm bài tụng:
Nhất vật bất tương lai
Kiên đầu đảm bất khởi
Ngôn hạ hốt tri phi
Tâm trung vô hạn hỷ
Độc ác ký vong hoài
Xà hổ vi tri kỷ
Quang âm cư bách niên
Thanh phong du vị dĩ.
Dịch:
Một vật chẳng đem đến
Trên vai gánh chẳng kham
Qua lời chợt biết lối
Trong tâm vui vô vàn
Lòng quên các độc ác
Cọp rắn làm bạn mình
Thời gian trăm năm lẻ
Gió mát vẫn còn nguyên.
Bình:
Ngài Huệ
Nam
tuy là người sau, cách nhiều đời mà vẫn tương thông người trước. Ngài đã
biết rõ chỗ vì người của Triệu Châu. Kẻ đến hỏi đã mang gông mà còn quảy
môi lưỡi. Tiếc thay đương sự chẳng nhận ra. Ngài Huệ Nam qua lời chợt biết
lỗi. Lỗi tại chỗ nào?
-Buông!
Lòng Ngài
Huệ
Nam thư thái nhẹ nhàng. Ngài đã quên các loài độc ác, cùng cọp rắn làm bạn
mình. Sao kỳ vậy?
Người đã
thôi rồi đa mang nghiệp chướng ẩn chốn cùng cốc sơn lâm mà làm bạn với thú
rừng. Ngày qua tháng lại thong thả huân tu.
Dù thời gian
trên thế kỷ, giữa mình và người xưa, Ngài vẫn thấy lời kia là làn gió mát.
Lời ấy vẫn còn nguyên. Vẫn rõ ràng giữa hoa ngàn cỏ dại.
Lời gì?-
Buông!
10. Đạo tại hành động
Cư Sĩ Quách Đạo Nhơn chuyên làm nghề thợ rèn. Một hôm ông đến chùa Cảnh
Đức tham cứu với Thiền Sư Trung. Trung bảo:
-Ông bỏ hết những cái nặng đi rồi xoay lại ông mà tham cứu thì việc gì
cũng xong.
Sau đó một thời gian, ông trở lại gặp Thiền Sư Trung. Trung bảo:
-Thiện ác như mây nổi, sanh diệt không chỗ nơi.
Ông nghe xong liền đại ngộ. Sau đó ông hay nói những lời lạ. Trước khi
chết ông đi giã từ bà con, bè bạn xong về nhà làm một bài kệ để lại rồi
ngồi kiết già mà tịch.
Lục thập tam niên đả thiết
Nhật dạ phiến bành bất kiệt
Kim triêu phóng hạ thiết trùy
Hồng lô biến thành bạch tuyết.
Dịch:
Sáu mươi ba năm đập sắt
Ngày đêm quạt lửa chẳng thôi
Hôm nay chùy sắt buông rồi
Lò hồng biến thành tuyết trắng.
Bình:
Người Cư sĩ
hành nghề thợ rèn, vậy mà nghiệp chướng nhẹ. Một phen hỏi đạo liền chợt
tỉnh, quẳng hết sắt chùy ống bể. Một phen tắt ngún lò hồng, ngay đó trở
thành tuyết trắng.
Thật một kẻ
phi thường. Việc kiến đạo giải thoát đâu phải chỉ dành cho kẻ trí thức đạo
gia. Một tay thợ rèn, khi quăng búa tắt lò thì liền đó bể lửa hóa thanh
lương, rảnh tay dạo khúc vô sanh.
11. Tỉnh giác là đạo
Thiền Sư Tư Nghiệp trước khi xuất gia làm nghề đồ tể. Một hôm đang thọc
huyết heo bổng chợt tỉnh liền đi xuất gia.
Ngài có làm bài kệ:
Tạc nhật Dạ Xoa tâm
Kim triêu Bồ Tát diện
Bồ Tát dữ Dạ Xoa
Bất cách nhất điều tuyến.
Dịch:
Hôm qua tâm Dạ Xoa
Sáng nay mặt Bồ Tát
Bồ Tát cùng Dạ Xoa
Chẳng cách một sợi tóc.
Bình:
Một con
người bị miệt thị là kẻ đồ tể. Thế mà ngay khi xuống tay thọc huyết heo,
thì liền chợt tỉnh. Người đồ tể hôm nay khác nào người đồ tể thuở trước:
Đồ tể Quảng Ngạch. Phóng hạ đồ đao lập địa thành Phật (Quăng dao mổ heo,
ngay đó thành Phật).
Xưa nay chỉ
một tâm. Xưa nay chỉ một hành động. Kẻ xưa và người nay không khác. Người
bên cạnh Phật một thuở, người cách Phật nghìn năm vẫn không khác. Tâm và
hạnh giống nhau, người nay vẫn đồng xưa. Chánh pháp, mạt pháp nào có quan
hệ.
Chánh mạt
chỉ ở tâm này.
Làm sao dựng
lập thời gian trên một tâm mê hay tâm giác? Giác mê, mê giác bao nhiêu
mặt, cách một thời gian nào? Mặt mũi Dạ Xoa và Bồ Tát, chỗ khác nhau được
xác định bởi ranh vức nào?
Ai biết
rằng, chính đây, ngay đây.
12. Nghịch hạnh
Thượng Tọa Pháp Minh là cháu trong tông Vân Môn. Sau khi ngộ đạo, Ngài về
quê và chuyên đi tụng đám, gặp ai mời uống rượu ăn thịt thì xáp vô nhậu
đến say mèm, còn ai mời ăn chay thì nhất định từ chối.
Như thế trải qua mười mấy năm. Một hôm Ngài bảo trong chúng:
-Mai ta tịch đây!
Chúng không ai tin cả.
Sáng hôm sau Ngài la to:
-Ta đi đây, hãy đến nghe ta nói kệ:
Bình sanh túy lúy điên quyết
Túy lúy khước hữu phân biệt
Kim triêu tửu tỉnh hà xứ
Dương liễu ngạn, hiểu phong tàn nguyệt.
Dịch:
Bình sanh trong say té ngã
Trong say lại có phân biệt
Sáng nay tỉnh rượu đi đâu
Bờ dương liễu, trăng tàn gió sớm.
Ngài nói kệ xong liền tịch.
Bình:
Một con
người say khướt đã bao nhiêu năm, công hạnh theo thông thường không có.
Một người tu như vậy thật lạ. Vậy mà trước phút ra đi vĩnh viễn khỏi cuộc
đời lại hẹn được ngày giờ, lại nói lên điều uẩn áo. Tâm hạnh Thiền Sư thật
khó lường.
Phải nói sao
cho phải? Rằng say phải hay tỉnh phải? Thế nào là phải?
Nhìn trên
hiện tượng quyết đoán bản chất, đâu là chân lý?
Người như
vậy còn say còn tỉnh nữa sao?
Phải nói với
Ngài thế nào cho phải?
Chỗ về của
Ngài là đâu?
-Bờ dương
liễu, trăng tàn gió sớm.
13. Hạnh kỳ đặc
Thiền Sư Tu Diễn ở đời Minh, sau khi ngộ đạo ở Thạch Môn, Ngài về trụ tại
chùa Đông Sơn, chuyên tu hạnh đầu đà. Đêm nào Sư cũng cởi trần để bố thí
cho muỗi, có người thấy thế đem quần áo cúng cho Sư, Sư lại đem cho người
khác. Như thế trải qua hơn bốn mươi năm, Sư không hề tắm rửa.
Khi tịch Sư ngồi kiết già, làm kệ xong rồi an nhiên thị tịch, đệ tử đem
nhập tháp. Một thời gian sau mở cửa tháp ra thấy Sư vẫn ngồi yên như
trước.
Tứ thập niên lai thường tiễn túc
Bất thể đầu hề bất tháo dục
Quận quan vị ngã hoán y sam
Chỉ khủng bình sanh nguyện bất túc.
Dịch:
Bốn chục năm liền thường cởi trống
Đầu chẳng gội chừ thân chẳng tắm
Quận quan vì ngã đổi chiếc y
Chỉ ngại bình sanh nguyện chẳng đủ.
Bình:
Hạnh đầu đà
cần khổ nhọc xác thân. Người tu cởi áo phơi mình hiến muỗi xơi. Suốt mấy
mươi năm liền như vậy, quả là một con người phi thường. Một việc làm không
mấy ai làm được.
Do định lực,
do trí lực, do nguyện lực, do gì mà Ngài được như vậy? Việc làm của Ngài
thật khó nói. Ngài đâu không tham lý sự? Ngài là kẻ ngộ đạo kia mà. Thì
việc làm của Ngài đâu phải là mù quáng. Ngài làm như vậy có mục đích gì,
và đã được lợi ích như thế nào? Việc này thật là bí mật. Không thể nói có
làm như vậy mới gọi là tu (mục đích), và làm như vậy mới được an nhiên thị
tịch (lợi ích), không thể y cứ như vậy. Vì với các vị khác thì sao?
Và dù sao đi
nữa, thì một sự thật vẫn hiển nhiên, vẫn sờ sờ ra đó. Cho đến sau khi tịch
một thời gian, Sư vẫn ngồi đó.
Trí thì
không khác, hạnh thật khó lường. Trí hạnh không hai, diệu dụng bất tư
nghì.
14. Ông là Huệ Siêu
một thiền khách tên Huệ Siêu, hỏi thiền sư pháp nhãn:
-Thế nào là Phật?
Pháp Nhãn đáp:
-Ông là Huệ Siêu.
Huệ Siêu nghe xong liền ngộ đạo.
Bình:
Một lời chỉ
thẳng đúng đích danh.
Lột mặt nạ
chơn nhơn rồi.
15. Ba Cân Gai
Một Thiền
khách hỏi Ngài Động Sơn Thủ Sơ:
-Thế nào là
Phật?
Động Sơn nói:
-Ba cân gai.
Bình:
Chơn nhơn hiện
tiền.
16. Thế nào là Phật
Hòa Thượng Đã Địa bình sinh ai đến hỏi đạo, Ngài cũng lấy gậy đập xuống
đất. Một hôm có vị Thiền khách lén dấu gậy rồi hỏi Ngài:
-Thế nào là Phật?
Ngài quơ tay tìm gậy nhưng không có, liền há họng to.
Bình:
Muốn thấy mặt
hồ phẳng, trước khi cá ăn móng.
17. Chỗ nào không phải là
Phật?
Nam Tuyền, Qui Tông và Ma Cốc đi tham vấn Quốc Sư Huệ Trung. Giữa đường,
Nam Tuyền vẽ một vòng tròn nói:
-Nói được thì đi, không nói được thì về.
Qui Tông liền vào trong vòng tròn ngồi kiết già, Ma Cốc giả làm người nữ
quỳ xuống đảnh lễ. Nam Tuyền nói:
-Thôi!
Xong cả ba đi về.
Bình:
Đêm rằm lễ
sám hối
Trăng rằm sáng vằng vặc
Phật ngự trên tòa sen
Phật tử lễ sám hối
Công đức được vẹn toàn.
18. Khuôn thước người xưa
Ngũ Tổ Pháp
Diễn dạy Ngài Phật Nhãn khi đi trụ trì:
-Có phước không nên hưởng hết, hưởng hết thì họa sẽ đến.
-Có thế lực không nên dùng hết, dùng hết thì sẽ bị khinh lờn.
-Ngôn ngữ không nên nói hết, nói hết thì cơ chẳng mật.
-Quy củ không nên hành hết, hành hết thì chúng không ở được. (Phải khéo
linh động không nên quá chấp theo quy luật).
Bình:
Người đi trụ
trì nên nhớ lời dặn này.
19. Đồng hay khác
Một Thiền khách hỏi Thiền Sư Ba Lăng:
-Tổ ý, giáo ý đồng hay biệt?
Ba Lăng đáp:
-Gà lạnh lên cây, vịt lạnh xuống nước.
Về sau Ngài Bạch Vân Nghĩa Đoan phê bình lời đáp này, nói rằng Ba Lăng chỉ
nói được năm phần, theo Ngài sẽ đáp:
Cúc thủy nguyệt tại thủ
Lộng hoa hương mãn y.
Dịch:
Vốc nước trăng trong tay
Đùa hoa hương đầy áo.
Sau Ngài Trung Nguyên lại nói:
-Nghĩa Đoan cũng chỉ nói được tám phần. Theo Ngài thì sẽ đáp:
-Nhơn ngã vô minh xâu một chùm.
Bình:
Tổ ý, giáo ý
đồng hay biệt? Ýï Tổ, ý Kinh đồng hay khác?
-Gà lạnh lên
cây, vịt lạnh xuống nước. Vịt và gà khác loài. Vịt không là gà, gà không
là vịt. Mỗi thứ giữ phận mình. Gà lạnh lên cây, vịt lạnh xuống nước. Cái
phận ấy nhằm ổn việc mình.
Người Việt
Nam
đói ăn cơm. Người Tây đói ăn bánh mì.
Ngài Ba Lăng
đã nói gà nói vịt như vậy không lầm. Ngài Nghĩa Đoan lại muốn làm khéo, đè
người xưa, giành phần mình, nói:
Vốc nước
trăng trong tay
Đùa hoa
hương đầy áo.
Lời này bóng
bẩy thi vị thay! Nước trăng trong tay, nắm mà không dính. Hương hoa đầy
áo, vương mà không nhiễm. Cũng là những muốn làm thơm làm đẹp.
Và rồi, cũng
bị nghiệp quả. Ngài Nghĩa Đoan bị Ngài Trung Nguyên đè xuống, nói:
-Nhơn ngã vô
minh xâu một chùm.
Loay hoay,
đây cũng chỉ là việc nói trăng nói cuội. Cuội và cây đa vậy thôi.
20. Quý ở chỗ thực hành
Thi hào Bạch
Cư Dị đến hỏi đạo Thiền Sư Ô Sào:
-Thế nào là căn bản Phật pháp?
Ô Sào đáp:
-Chư
ác mạc tác, chúng thiện phụng hành.
Bạch Cư Dị thưa:
-Câu này con nít ba tuổi cũng thuộc.
Ô Sào bảo:
-Con nít ba tuổi cũng thuộc, nhưng ông già tám mươi tuổi làm cũng không
xong.
Bình:
“Chư
ác mạc tác, chúng thiện phụng hành”. Các ác chớ làm, điều lành vâng làm.
Làm lành lánh dữ. Lời này quả trẻ con ba tuổi cũng thuộc. Nhưng mà lời này
ông già tám mươi không làm nổi. Bảy mươi chín năm tạo ác, đến năm tám mươi
mới làm thiện, liệu có trừ bảy mươi chín năm tạo ác kia được không?
Việc tu quý
ở chỗ thực hành, hành được ít cũng hơn nói nhiều mà không làm, nên cổ đức
nói: “Nói một trượng không bằng làm một thước, nói một thước không bằng
làm một tấc”.
21. Nêu gương bất khuất
Quốc Sư Nhật Quang Viên Minh Thường Chiếu (Nhật Hoàng phong tặng). Sư gốc
Trung Hoa, sau khi ngộ đạo nơi Thiền Sư Vô Chuẩn, Sư đi du phương đến mỗi
nơi đều có phát minh. Sau trong nước có loạn, Sư đến tị nạn tại chùa Ôn
Nhân núi Nhạn Đảng Ôn Châu. Khi giặc Minh kéo đến, Tăng chúng chạy hết duy
chỉ có Sư ở lại. Giặc thấy Sư ngồi kiết già bèn lấy đao khứa cổ. Sư ngữa
cổ ra và nói kệ:
Càn khôn vô địa trác công cung
Thả hỉ nhơn không pháp diệc không
Trân trọng đại minh tam xích kiếm
Điện quang ảnh lý trảm xuân phong.
Dịch:
Trọn không chút đất cắm cây cung
Mừng thấy nhơn không pháp cũng không
Trân trọng mời ông hươi kiếm bén
Lướt nhanh trong bóng chém xuân phong.
Sư đọc kệ xong, thần sắc vẫn không thay đổi, khiến giặc hoảng hốt lạy tạ
lỗi rồi rút lui. Sau Nhật Bổn nghe danh thỉnh Sư sang giáo hóa và phong
làm Quốc Sư.
Bình:
Ví gặp gươm đao thường thản thản
Phỏng nhằm thuốc độc vẫn nhàn nhàn.
Con người
bình an đến như thế là cùng. Gươm đưa vào cổ vẫn còn ngâm nga kệ xướng.
Trước môn quan vẫn điềm nhiên xem như không có. Việc sanh tử thật chẳng
bận lòng. Ngài thật xứng với tôn vị Quốc Sư.
Kẻ đã không
màng sống chết, thì việc danh lợi có sá gì. Quốc Sư hay kẻ bần Tăng cũng
vậy thôi. Lá cờ rũ hay lá cờ phất cũng chỉ là lá cờ. Việc khác nhau đó chỉ
là duyên. Phải duyên ngẩng đầu cứa cổ thì ngẩng đầu. Phải duyên ngất
ngưởng tòa cao thì ngất ngưởng. Thế nào cũng chỉ là dung nghi một vị chân
Tăng thôi.
Với cái kẻ
“càn khôn vô địa, nhơn không pháp diệc không” thì còn gì để nói. Có kiếm
cũng nên quăng, có lời cũng nên ném, dập đầu mà đảnh lễ tôn vinh cúng
dường.
22. Các khổ không thể đến
Một thiền khách đến hỏi một vị cổ
đức:
-Khi lạnh nóng đến làm sao tránh né?
-Trong chảo dầu lò lửa mà tránh né.
-Trong chảo dầu lò lửa làm sao tránh né?
-Các khổ không thể đến.
Sau Ngài Phật Quang Viên Mãn Quốc Sư có làm bài bình:
Lão khứ tha hương ngộ cố tri
Điều điều huề thủ khước đồng qui
Dạ thâm khả tận tôn tiền tửu
Mạc thuyết thiên nhai cước thống thì.
Dịch:
Lão đến tha hương ngộ cố tri
Xa xôi tay nắm dắt nhau về
Đêm khuya đã cạn chén rượu trước
Chớ nói trên đường gót chân đau.
Bình:
Một việc
tránh né nóng lạnh thật tuyệt diệu. Hãy ngay trong “chảo dầu, lò lửa” mà
tránh né. Hay biết mấy! Vì nơi ấy các khổ không thể đến (đến bị cháy sao).
Thật lý thú biết bao!
Việc sanh tử
hãy như vậy mà tránh né.
Quốc Sư Phật
Quang Viên Mãn có lời bình thật hay. Ngài đã chỉ rõ chỗ tránh né.
Người khách
qua lại trên nẻo đường sinh tử, gặp bạn cố tri. Gặp lại rồi người bạn cố
tri ngay trên đường sanh tử, thì hãy “đề huề” lưng túi gió trăng nhâm nhi
mỹ tửu, thưởng thức hương nồng, bàn chi hành trình nhọc mỏi. Chuyện nhọc
nhằn chỉ là chuyện trên đường. Nơi thảo lư chỉ có ta và ta, ly rượu vơi
đầy, nốc cạn quần say mặc tình đất trời nghiêng đổ, chuyện nhọc nhằn có
không.
] |