Quyển Qui Sơn Cảnh Sách là một
quyển luận của Thiền sư Linh Hựu. Do Ngài ở tại núi Qui, người đương thời
nể trọng đức hạnh không dám gọi tên, nên dùng tên núi để gọi Ngài ; vì vậy
Ngài có tên là Qui Sơn. Quyển luận này nhằm mục đích nhắc nhở người xuất
gia phải nổ lực tu hành, để được giải thoát nên được đề tựa là Cảnh Sách;
“Qui Sơn Cảnh Sách” là luận Cảnh Sách của Ngài Qui Sơn.
Đây là bộ luận mà trong thiền môn
nói riêng, giới xuất gia nói chung, coi như kinh của Phật. Thế nên ai xuất
gia vào chùa, trong thời gian đầu học làm Sa Di, đều phải học thuộc lòng
ba quyển gọi là Phật Tổ Tam Kinh; Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Kinh Di Giáo,
Qui Sơn Cảnh Sách.
Hai quyển đầu là lời Phật dạy được gọi là
kinh thì đúng. Quyển Cảnh Sách của Ngài Qui Sơn đáng lý phải gọi là luận,
tại sao lại gọi là kinh? Các vị thuở xưa thấy lời chỉ dạy sách tấn của
Ngài rất thiết yếu, vừa thích hợp với chân lý, vừa phù hợp với căn cơ mọi
người, nên các vị xem như lời Phật dạy, vì vậy mà gọi là kinh. Quyển Qui
Sơn Cảnh Sách đối với tất cả những người xuất gia còn trẻ, trong thời tập
sự đã phải học thuộc lòng rồi. Nhưng hôm nay tôi đem ra giảng, vì đây là
tác phẩm của một thiền sư (Tổ Qui Sơn) thuộc đời thứ tư sau Lục Tổ:
1.
Nam Nhạc Hoài
Nhượng
2.
Mã Tổ Đạo Nhất
3.
Bá Trượng Hoài Hải
4.
Qui Sơn Linh Hựu
Ngài sinh năm 771 tịch năm 853. Quyển
sách này ra đời vào khoảng cuối thế kỷ thứ tám hoặc đầu thế kỷ thứ chín.
Ngài giáo hóa trên núi Qui, nơi đây có hơn 1500 thiền sinh qui tụ tu tập,
nên Ngài có lời cảnh sách để răn nhắc chung toàn chúng. Lời Ngài chẳng
những có giá trị về đạo lý, mà còn có giá trị về văn chương, nên được
trong thiền môn dùng để sách tấn toàn thể Tăng Ni. Bởi có giá trị như thế
nên sau này có nhiều nhà giải thích:
1. Đời Tống, Ngài Thủ Toại chú đề
tựa là “Qui Sơn Cảnh Chú” (1 quyển)
2. Đời Minh, Ngài Đạo Bá giải đề tựa
là “Qui Sơn Cảnh Sách Chỉ Nam” Quyển này nằm trong bộ Phật Tổ Tam Kinh (1
quyển)
3. Đời Minh, Ngài Hoàng Tán chú,
Ngài Khai Quýnh ký, đề tựa là “Qui Sơn Cảnh Sách Cú Thích Ký” (2 quyển).
Tập sách này được các chùa đặc biệt dùng, vì cho lời giải của hai vị này
đầy đủ nhất.
4.
Đời Minh, Ngài Đại
Hương chú giải đề tựa là “Cảnh Sách Chú” (1 quyển).
Dịch từ Hán sang Việt , có các vị:
1.
Hòa Thượng Hành
Trụ dịch từ quyển “Qui Sơn Cảnh Sách Cú Thích Ký” của Ngài Hoàng Tán và
Khai Quýnh.
2.
Pháp sư Kiểu dịch
bản “Qui Sơn Cảnh Sách Chỉ Nam” của Ngài Đạo Bá.
3.
Hòa Thượng Trí
Quang dịch đề tựa là “Qui Sơn Cảnh Sách Văn” in trong tập luật Sa di và Sa
di ni.
4.
Thầy Hoàn Quan
dịch trong Phật Tổ Tam Kinh.
Chánh văn “Qui Sơn Cảnh Sách” vừa cô
đọng vừa có âm điệu, nên ở đây tôi giảng chánh văn để quí vị thấy giá trị
văn chương và ý nghĩa cô đọng trong lời Ngài dạy.Trước giải thích tên luận
.
Qui Sơn Cảnh Sách
“Qui Sơn” là ngọn
núi Qui, nơi Thiền Sư Linh Hựu giáo hóa bốn chúng.
“Cảnh Sách” . Cảnh là đánh thức những người đang mê chưa ngộ. Người tu
chúng ta tuy đã phát tâm xuất gia học đạo, song còn mê say trong dục lạc,
thường quên lãng việc tu hành. Nên Ngài dùng phương tiện đánh thức chúng
ta nhớ lại bổn phận và trách nhiệm của người xuất gia để nổ lực tiến tu,
đó là cảnh. Sách nghĩa là roi da. Thường người cỡi ngựa muốn cho ngựa chạy
nhanh, dùng roi da tróc tróc cho nó chạy. Cũng vậy, muốn sách tấn thúc đẩy
người ta cũng phải dùng lời để răn nhắc cho tiến. Tông chỉ của bộ luận
này, chủ yếu của Tổ là đánh thức người tu chúng ta nổ lực tiến tới chổ cứu
cánh của người xuất gia.
|