THAM ĐỒ HIỂN QUYẾT VÀ THI TỤNG CÁC THIỀN SƯ ĐỜI LÝ Giảng Giải

H.T THÍCH THANH TỪ

PHẦN I: THAM  ĐỒ  HIỂN  QUYẾT CỦA THIỀN SƯ VIÊN CHIẾU

(tt)

Dịch: BÀY RÕ BÍ QUYẾT CHO NGƯỜI THAM VẤN

Có vị tăng hỏi : “Phật Và Thánh khác nhau thế nào ?”

Sư đáp :Trùng dương cúc nở dưới rào,

            Trên cành oanh hót thanh tao diụ dàng.

Tăng thưa : “Cảm tạ thầy chỉ dạy, học nhân chẳng hội, xin lại nêu bày ra”.

Sư đáp :Ngày thì vần nhật chiếu,

            Đêm đến ánh trăng soi.

Tăng lại hỏi : “ Đã được chân chỉ của thầy, còn huyền cơ thì thế nào ?”

Sư đáp :Bưng thau nước đầy không chú ý,

            Một lúc sẩy chân hối ích gì ?

Tăng thưa : Đa tạ !

Sư bảo :Chớ rửa sông to sóng,

            Chính mình đến chết chìm.

Tăng hỏi : Thiếu Thất, Ma Kiệt rất huyền diệu, từ xưa đến nay ai kế thừa làm chủ ?

Sư đáp :Trời tối sáng soi nhờ thật nguyệt

            Đất hiểm, phân ranh có núi sông.

Tăng hỏi :Thế nào là đại đạo,

            Cội nguồng một lối đi ?

Sư đáp :Gió mạnh bờ cao biết cỏ cứng,

            Nước nhà lận đận thấy tôi trung.

Hỏi :   Tất cả chúng sanh từ đâu tới.

            Sau khi trăm tuổi sẽ về đâu ?

Đáp :   Rùa mù dùi vách đá,

            Trạnh què trèo núi cao.

Hỏi : “Trúc biết xanh Xanh trọn là chânnhư”, thế nào là “dụng” của chân như ?

Đáp :   Tặng anh đi ngàn dặm,

            Cười trao một ấm trà.

Hỏi : Thế nào là uổng công đến mà vô ích ?

Đáp :   Ai biết được người chủ (Đông A),

            Trên đường lại bạc đầu.

Hỏi :   Cửa kín nhà quê vắng,

            Ai biết gõ dễ dàng.

Đáp :   Kim cốc tiêu điều hoa cỏ loạn,

            Mà nay sớm tối mặc ngựa dê.

Hỏi : Tại sao như thế ?

Đáp :   Giàu sang vẫn kiêu sa,

            Khiến thành lầu chợ hoại.

Hỏi :   Long nữ dâng châu thành Phật quả,

            Đàn na bố thí phước thế nào ?

Đáp :   Quế trong trăng muôn thuở,

            Héo tươi tại một vầng.

Hỏi : Thế nào nhọc mà không công ?

Đáp :   Trên trời như treo gương,

            Nhân gian nơi nơi tỏ.

Hỏi :   Qua sông cần dùng bè,

            Đến bờ thuyền bỏ lại.

            Khi không qua thì thế nào ?

Đáp :   Hồ khô cá mắc cạn,

            Sống được muôn năm xuân.

Hỏi : Thế nào theo dòng mới được diệu lý ?

Đáp :   Thấy nói bạn Kinh Kha,

            Một đi không trở lại.

Hỏi :   Quặng, vàng lẫn lộn nguyên một loại,

            Thỉnh Thầy phương tiện luyện cho tinh.

Đáp :   Chẳng phải khách vua Tề,

            Đâu biết cá to biển.

Hỏi :   Ông Quách chẳng chiụ nhận,

Can gián làm cũng làm gì ?

Đáp :   Nếu muốn trước uống rượu,

            Khéo vẽ rắn làm gì ?

Hỏi : Rắn chết trên đường xin thầy cứu sống ?

Sư bảo : Ông là người phương nào ?

Tăng thưa : Vốn là người ở núi.

Sư bảo :Núi xưa về ẩn gấp,

            Chớ thấy Hứa Chân Quân.

Hỏi :   Biển cả mênh mông trọn chẳng hỏi,

            Tào Khê giọt giọt là thế nào ?

Đáp :   Trước gió thông reo tiếng buồn bã,

            Mưa tạnh trên đường ít bùn lầy.

Hỏi : Thế nào là chẳng khác thời nay ?

Đáp :   Trùng dương cúc ở dưới rào,

            Trên cành oanh hót thanh tao nhẹ dàng.

Hỏi :   Rõ ràng trong khoảng tâm mắt,

            Sáng chói ở trong sắc thân.

Thế nào lý không thể phân, tướng không thể thấy, tại sao không thấy ?

Đáp :   Trong vườn hao khoe sắc,

            Lấy gì để khoe xinh.

Đáp :   Mừng ông đã thấu suốt,

            Cũng chẳng vui hay sao.

Tăng nói :       Hân hạnh nghe Thầy giải,

                        Từ đây khỏi chợt không.

Sư đáp :          Chìm cạn vừa ra khỏi,

                        Quay đầu muôn trượng đầm.

Hỏi : “Trong thành Niết bàn vẫn còn nguy”. Thế nào là chổ chẳng nguy ?

Dáp :   Xây tổ trên rèm cháy,

            Râu tóc làm hoa lau.

Hỏi :   Nếu gặp khi bức bách,

            Gió trăng mặc tiêu dao.

Hỏi :   Tất cả chúng sanh đều nói là Phật,

            Lý này chưa rõ xin Thầy chỉ dạy.

Đáp :   Khuyên ông hảy gắng việc nông tang,

            chớ học theo người đợi thỏ nhọc.

Tăng nói :       Được nhờ Thầy chỉ rõ,

                        Trọn chẳng đến ai cầu.

Sư nói :           Đáng thương người mắc nghẹn,

                        Ngồi đói lại quên ăn.

Tăng nói :       Nhiều năm cất giấu báu trong đãy,

                        Ngày nay trước mắt thấy rõ ràng.

Sư nói :           Chỉ đợi trăng thu sáng,

                        Đâu ngờ mây mưa che.

Tăng nói :       Tuy nghe Thầy thuyết giảng,

                        Lý này vẫn chưa rành.

Sư đáp :          Cười kẻ luống ôm cột,

                        Chết đuối nằm giưã dòng.

Hỏi : Thế nào là một pháp ?

Đáp :   Chẳng thấy xuân sanh cùng hạ trưởng,

            Lại gặp thu chín và đông thâu.

Hỏi : Thế nào là nhyều người thành Phật ?

Đáp :   Tổ long chợt tự dừng,

            Từ Phúc xa luống nhọc.

Hỏi : Kiến tánh thành Phật, nghiã ấy thế nào ?

Đáp :   Cây khô gặp xuân hoa đua nở,

            Gió thổi hương thần thơm rất xa.

Tăng nói : Đệ tử chưa hiểu, xin Thầy chỉ lại.

Sư đáp :Muôn năm cây cà ấy,

            Xanh tươi thấu từng mây.

Hỏi :   Ma Ni cùng các sắc,

            Chẳng hợp cũng chẳng lià ?

Đáp :   Hoa xuân cùng bươm bướm,

            Lúc mến lúc chia lià.

Hỏi : Thế nào theo kia hỗn tạp ?      

Đáp :   Chẳng phải mắt tăng Ấn,

            Luống nhọc trình biện châu.

Hỏi : Thế nào là chạm mắt Bồ đề ?

Đáp :   Chim từng sợ cây cong,

            Thổi mãi người lạnh buốt.

Hỏi : Đệ tử chẳng hiểu, xin Thầy cho dụ khác.

Đáp :   Kẻ điếc nghe đàn sáo,

            Người mù ngắm trăng lên.

Hỏi :   Vốn tự có hình cùng có bóng,

            Có khi bóng cũng lià hình chăng ?

Đáp :   Các sông về Đông chừ muôn dòng tranh chảy,

            Chúng sao chầu Bắc chừ ngàn xưa về tâm.

Hỏi : Thế nào là một câu sáng tỏ siêu trăm ức ?

Đáp :   Xa ném Thái Sơn qua biển Bắc,

            Ngước tung cây gậy đến cung trăng.

Hỏi : Chỉ một việc này là thựcCòn hai ắt chẳng chân, thế nào là chân ?

Đáp :   Đầu gậy gió dễ động,

            Trên đường mưa thành lầy.

Hỏi :   “Chẳng hướng Như lai cầu diệu tạng,

            Không mong đuốc Tổ nối đèn chi”.

            Ý chỉ câu này thế nào ?

Đáp :   Trời thu hoàng oanh hót,

            Trong tuyết mẫu đơn xinh.

Hỏi : Thế nào là câu tuyệt diệu ?

Đáp :   Một người xây vách đứng,

            Cả nhà uống chẳng vui.

Hỏi :   Cổ kim việc lớn thôi không hỏi,

            Chỉ chuyện Tây lai ý thế nào ?

Đáp :   Người nói khéo mặt lành,

            Kẻ dùi rùa đập ngói.

Hỏi : “Tâm pháp cả hai đều quên, tánh tức chân”,thế nào là chân ?

Đáp :   Hoa núi mưa sa Thần nữ khóc,

            Tre sân gió thổi, Bá Nha đờn.

Hỏi : Thế nào là câu tuyệt diệu ?

Đáp :   Trong cổ do còn nghẹn,

            Thường ở chổ bất an.

Hỏi :   Còn tu còn chứng sanh bốn bệnh,

            Xuất đầu đâu thể thoát lồng trần ?

Đáp :   Núi cao lại lớn dung chứa bụi,

            Bể cả càng sâu nhận các dòng.

Hỏi : “Chỉ Phật  với Phật mới biết việc này”, thế nào là việc này ?

Đáp :   Đường hẹp trúc um tùm,

            Gió thổi thành khúc nhạc.

Hỏi : Chẳng dùng bình thường, chẳng dùng thiên nhiên, chẳng dùng tác dụng, thì nay phải làm thế sao  ?

Đáp :   Cỏ bồng chim én đậu,

            Biển cả náu cá kình.

Hỏi :   Tứ đại đeo mang đã nhiều kiếp,

            Thỉnh Thầy phương tiện thoát luân hồi ?

Đáp :   Tất cả chúng sanh tê giác qúi,

            Ăn toàn gai góc, nghỉ trong bùn.

Hỏi : Các thứ thủ xả đều là luân hồi, khi không có thủ xả thì sao ?

Đáp :   Xưa nay sam tiá sắc thường khác,

            Cành lá sum sê chẳng có hoa.

Hỏi : Đường ngôn ngữ dứt là ý thế nào ?

Đáp :   Gió thổi tiếng còi xuyên trúc đến,

            Đầu non mang nguyệt vượt tường sang.

Hỏi : Chư Phật thuyết pháp đều nhằm giáo hoá mọi người, mến mộ bản ý gọi là xuất thế, sao gọi là bản ý ?

Đáp :   Xuân dệt hoa như gấm,

            Thu sang lá tự vàng.

Hỏi : Thế nào là một đường thẳng đứt ?

Đáp :   Đông Tây xe ngựa chạy,

            Sớm tối bụi mù bay.

Hỏi :   Có pháp, có tâm mở vọng thức,

            Làm sao tâm pháp thảy tiêu vong ?

Đáp :   Vượt được tùng cao che rợp rợp,

            Đâu lo sương tuyết rớt bời bời.

Hỏi : Ý Tổ, cùng ý Kinh thế nào ?

Đáp :   Hứng lên xách gậy chơi rừng núi,

            Nhọc sức xổ rèm nằm chõng tre.

Hỏi : Tổ Tổ truyền nhau là truyền việc gì ?

Đáp :   Đói đến cần ăn,

            Lạnh về phải mặc áo.

Hỏi :   Người đời đều thuê nhà,

            Nhà dột ở chổ nào ?

Đáp :   Qụa vàng cùng thỏ bạc,

            Đầy vơi chớ bận lòng.

Hỏi : Thế nào là một con đường Tào Khê ?

Đáp :   Đáng thương kẻ mắc thuyền.

            Đến chốn ý lăng xăng.

 

]

 
 

THIỀN TÔNG VIỆT NAM