THAM ĐỒ HIỂN QUYẾT VÀ THI TỤNG

CÁC THIỀN SƯ ĐỜI LÝ Giảng Giải

H.T THÍCH THANH TỪ

PHẦN II: THI TỤNG CÁC THIỀN SƯ ĐỜI LÝ

THÁI SƯ KHUÔNG VIỆT

Thái Sư Khuông Việt sinh năm 933 tịch năm 1011, đời thứ 4 dòng Vô Ngôn Thông. Tiểu sử của Ngài được in trong quyển Thiền Sư Việt Nam trang 45 cùng tác giả. Ở đây chúng tôi không lập lại phần tiểu sử, chỉ trích một vài bài kệ quan yếu để giảng. Sau đây là kệ thị tịch:

Âm :

                        Mộc trung nguyên hữu hỏa,

                        Hữu hỏa, hỏa hoàn sanh.

                        Nhược vị mộc vô hỏa,

                        Toản toại hà do manh.

Dịch :

                        Trong cây sẵn có lửa,

                        Có lửa, lửa lại sanh.

                        Nếu bảo cây không lửa,

                        Cọ xát làm gì sanh.

Giảng :

“Mộc trung nguyên hữu hỏa, hữu hỏa, hỏa hoàn sanh”. Lửa vốn có sẵn trong cây, nên khi cọ xát cây thì lửa phát cháy. Trong cây khô chúng ta dùng phương tiện kéo lửa, cọ xát vào thân cây một thời gian, thấy nóng dần rồi bốc khói và sau đó phát lửa. Do trong cây có sẵn lửa nên cọ xát mới phát lửa.

“Nhược vị mộc vô hỏa, toản toại hà do manh”.Nếu trong cây không có lửa, khi cọ xát làm sao phát ra lửa ? Dù cho chúng ta có cọ kéo nghiền nát cả cây cũng không có lửa. Trong cây sẵn có lửa dụ cho mọi người chúng ta ai ai cũng có sẵn tánh Phật. Cọ xát cây lửa phát sanh, dụ cho tu hành được giác ngộ thành Phật. Ý Ngài muốn nói nơi mỗi người chúng ta ai ai cũng sẵn có tánh Phật, nếu khéo ứng dụng lời Phật dạy để tu thì sẽ thành Phật. Và, nếu chúng ta không có sẵn tánh Phật dù cho có tu đến đâu cũng không giác ngộ được. Bài kệ này có hai phần quan trọng chúng ta cần phải biết để vững lòng tin trên đường tu tiến.

1. Đức Phật do tu mà được giác ngộ thành Phật. Nếu không có sẵn tánh Phật dù cho Ngài thiền định bao lâu tánh Phật của Ngài cũng không hiển lộ. Do có sẵn tánh Phật, Ngài thiền định tâm thanh tịnh tánh Phật hiện tiền gọi là thành Phật. Như vậy, Ngài là một con người có sẵn tánh Phật, khéo tu nên được giác ngộ thành Phật. Chúng ta cũng là một con người cũng có sẵn tánh Phật, nếu chúng ta khéo ứng dụng lời Ngài dạy để tu, thì cũng được giác ngộ thành phật như Ngài. Sở dĩ chúng ta ngày nay tu mà không thành Phật là vì chúng ta không khéo tu. Cũng giống như cây khô người ta cọ ra lửa, mình cũng theo phương pháp cọ của người ta, cọ cây khô của mình cho ra lửa để xài, nhưng vì cọ sơ sơ nên không có lửa. Biết rõ điều này chúng ta không mặc cảm chỉ có Phật mới tu tah2nh Phật, còn chúng ta không phải Phật dù có tu đến đâu cũng không thành. Phật có tánh Phật Ngài tu thành Phật, chúng ta có tánh Phật nếu tu như Ngài thì cũng thành Phật. Ngôi vị Phật không phải dành riêng cho đức Thích Ca Mâu Ni, mà ai ai cũng có quyền đạt đến quả Phật. Thành Phật hay không thành Phật là do biết biết ứng dụng đúng pháp Phật dạy hay không Nếu thực hành đúng pháp thì tánh Phật hiển lộ thành Phật, nếu không biết ứng dụng, hoặc ứng dụng sai pháp Phật dạy thì tánh Phật không hiển lộ, không thành Phật. Chớ mặc cảm chúng ta tu không thể thành Phật, vì trước khi thành Phật Ngài cũng là con người, từ con người do tu mà Ngài thành Phật. Cũng vậy, mọi người chúng ta nếu khéo tu thì cũng thành Phật như Ngài. Song chúng ta có cái bệnh mặc cảm nữa là, Phật tu nhiều đời nhiều kiếp, còn kiếp chót Ngài tu mới thành Phật, chúng ta tu chưa bao nhiêu làm sao thành Phật được ! Vì chúng ta quá yếu đuối nên mới có những mặc cảm như thế.

2. Đức Phật sinh hoạt y hệt chúng ta. Ngài sanh ra trong một gia đình có cha mẹ lớn lên có vợ con, Ngài cũng hưởng dục lạc như mọi người thế gian. Khi tận mắt nhìn thấy người già, người bệnh, người chết, ngang đây Ngài thức tỉnh đi tu. Ngài cũng là người phàm như chúng ta, nhưng khi thức tỉnh Ngài đi tìm phương pháp để tu hành. Do ứng dụng những phương pháp tu, lần lần Ngài đạt được đạo quả. Lúc chưa thức tỉnh Ngài cũng là phàm phu, khi thức tỉnh rồi, do tu Ngài mới thành Phật. Chúng ta ngày nay cũng là phàm phu, dám cạo bỏ râu tóc vào chùa, sống phạm hạnh theo quy củ của Thiền môn là đã có tỉnh rồi. Tuy có tỉnh, nhưng chưa khéo tu, tu chưa đúng mức, tu lai rai nên chưa thành Phật. Thái tử Sĩ-đạt-ta sau khi dứt khoát rời bỏ hoàng cung vào rừng tu, tâm không do dự luyến tiếc cảnh đời, chỉ một bản hoài là phải tu cho sáng đạo, nên khi tu Ngài quyết tâm vì đạo quên thân. Chúng ta ngày nay xuất gia vào chùa, thỉnh thoảng nghe ở nhà có chuyện vui buồn là xin phép về để dự, để sắp đặt... Đó là duyên ngoài chưa dứt khoát cắt đứt, còn duyên trong tức là hạ thủ công phu cũng chưa quyết liệt, chưa dám quên ăn quên ngủ, chưa dám xem thường thân mạng. Xưa Phật ngồi Thiền một mình suốt ngày đêm, đâu có ai giám Thiền. Ngày nay chúng ta ngồi Thiền có người giám Thiền giúp đỡ, thế mà vẫn ngủ gà ngủ gật, có khi xả Thiền sớm đi ra. Đó là chúng ta chưa đúng mức. Xưa đức Phật tu có một thời gian ngắn là thành đạo. Ngày nay chúng ta tu khá lâu, nhiều người tu hơn mười năm, hai mươi năm... vẫn chưa đạt được kết quả, và nếu có kết quả thì cũng giới hạn. Đó là tại công phu chua đúng mức, chớ không phải chúng ta không có khả năng thành Phật.

Tóm lại bài kệ này Ngài dạy người tu, xuất gia cũng như tại gia, ai cũng có tánh Phật và ai cũng có khả năng thành Phật như nhau, không ai kém ai. Nếu thực hành đúng như lời Phật dạy thì có kết quả như Ngài, nếu thực hành chưa đúng mức thì kết quả kém hơn. Đó là do công phu chưa viên mãn, không phải quả Phật chỉ dành cho Phật, còn phàm phu thì không có phần. Hiểu như vậy thì trên đường tu vững lòng tin, tự tin nơi mình có tánh Phật tu đúng pháp sẽ thành Phật không nghi.

 

]

 
 

THIỀN TÔNG VIỆT NAM