THAM ĐỒ HIỂN QUYẾT VÀ THI TỤNG

CÁC THIỀN SƯ ĐỜI LÝ Giảng Giải

H.T THÍCH THANH TỪ

PHẦN II: THI TỤNG CÁC THIỀN SƯ ĐỜI LÝ (tt)

THIỀN SƯ KHÁNH HỶ

Thiền sư Khánh Hỷ sinh năm 1066 mất năm 1142, đời thứ 14 dòng Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Tiểu sử của ngài in trong quyển Thiền sư Việt Nam cùng tác giả.

Sau đây là bài kệ thị tịch của ngài:

Âm:

            Lao sanh hưu vấn sắc kiêm không,

            Học đạo vô như phỏng Tổ tông.

            Thiên ngoại mích tông nan định thể,

            Nhân gian thực quế khởi thành tùng.

            Càn khôn tận thị mao đầu thượng,

            Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung.

            Đại dụng hiện tiền quyền tại thủ,

            Thuỳ tri phàm thánh dữ tây, đông?

Dịch:

            Uổng công thôi hỏi sắc cùng không,

            Học đạo gì hơn phỏng Tổ tông.

            Ngoài trời tìm tông thật khó thấy,

            Thế gian trồng quế đâu thành tòng.

            Đầu lông trùm cả càn khôn thảy,

            Hạt cải bao gồm nhật nguyệt trong.

            Đại dụng hiện tiền tay nắm vữøng,

            Ai phân phàm thánh với tây, đông?

Giảng:

“Lao sanh hưu vấn sắc kiêm không, học đạo vô như vấn Tổ tông”. Nghĩa là uổng công thôi hỏi sắc cùng không, học đạo gì hơn phỏng Tổ tông. Ý ngài dạy người học đạo giác ngộ chớ phí công nhọc sức tìm tòi bàn luận về nghĩa sắc không. Tại sao? vì trọng tâm của người học đạo là không gì bằng “phỏng Tổ tông”, tức là thưa hỏi Tổ tông. Tổ tông chỉ cho nguồn cội chân thật của mình. Học đạo và hỏi đạo là phải trở về nguồn cội của mình. Đùng mắc kẹt trên hình tướng đối đãi của sắc và không. Vì sắc và không là cái bên ngoài. Tìm kiếm sắc và không là phóng tâm chạy ra ngoài, quên mất bản tâm chân thật của chính mình. Ýù hai câu này ngài khuyên người học đạo không nên nhọc tâm gắng sức tìm hiểu lý sắc không ở ngoài, mà phải quay lại sống với bản tâm thanh tịnh của chính mình. Ngày nay đa số người học đạo đều mắc kẹt bên này hoặc bên kia, mà không quay về nguồn cội, nên ngài dạy như thế.

“Thiên ngoại mích tâm nan đinh thể, nhân gian thực quế khởi thành tùng”. Nghĩa là ngoài trời kiếm tâm nào dể thấy, thế gian trồng quế đâu thành tùng. Thiên ngoại là ngoài trời, chỉ cho sự vật bên ngoài. Nếu người tu mà cứ hướng ra bên ngoài lý giải đây là sắc kia là không, thì không bao giờ an định nhận ra bản tâm chân thật của mình. Giống như thế gian trồng quế mà muốn thành tùng là chuyện không bao giờ có. Ýù bốn câu trên Ngài dạy người tu đừng phí thời giờ tìm kiếm phân tích lý sắc không, mà phải quay về nội tâm nhận ra và sống với bản tâm chân thật của mình, hướng ra bên ngoài mà tìm tâm thì không bao giờ được.

“Càn khôn tận thị mao đầu thượng, nhật nguyệt bao hàm giới tử trung”. Nghĩa là cả trời đất nằm  trên đầu sợi lông, mặt trời mặt trăng nằm trong lòng hạt cải. Đầu sợi lông rất nhỏ thế mà cả trời đất nằm gọn trên đó. Việc này dễ tin không? Hạt cải nhỏ xíu mà chứa cả mặt trời mặt trăng thật khó tin. Hai câu này giải thích hai mặt, mặt sự tướng và mặt lý tánh. Đứng về sự tướng thì từ thân người cho đến vạn vật đều do đất nước gió lửa hợp thành. Tứ đại là một, mà tất cả thân tất cả vật là nhiều, tất cả cái nhiều ấy không cái nào ngoài đất nước gió lửa mà có. Do đó nên nói “một là tất cả tất cả là một”, hay nói tất cả cùng chung một thể không khác. Đất nước gió lửa của mình và đất nước gió lửa bên ngoài đâu có khác. Chúng ta vì còn nhiều tình chấp nên phân biệt mình khác với người, mình khác với cây cỏ, mình khác với thiên nhiên…. Nhưng nếu chúng ta dùng tri để quán sát thì thấy không khác và nơi cái này có đủ yếu tố của những cái kia. Ví dụ một hôm, chúng ta đi xa về trễ bữa nên đói bụng, cơn đói cồn cào làm cho chúng ta mệt lã khó chịu. Khi đó có người cho vài củ khoai, chúng ta ăn và uống một ly nước mát. Aên uống xong chúng ta cảm thấy khoẻ khoắn dễ chịu. Vậy khoai lang và nước có phải là mình không? Nếu không phải mình sao khi ăn uống vô mình thấy khoẻ? Nếu nó là mình sao khi chưa đem vô bao tử mình không khỏe? Do chúng ta nhìn sự vật bằng con mắt của phàm phu, nên thấy cái này khác với cái kia, nhưng nếu nhìn bằng mắt trí tuệ thì thấy vạn vật và con người đều do bốn đại hợp không rời nhau. Củ khoai lang do bốn đại hợp, nên nó hoà nhập với nhau. Như vậy thì, nhỏ như đầu mảy lông cũng gồm có đất nước gió lửa, lớn như càng khôn đại địa cũng gồm có đất nước gió lửa. Và nhỏ như hạt cải lớn như mặt trời mặt trăng, không vật nào ngoài đất nước gió lửa. Đó là đứng trên phương diện sự tướng mà giải thích. Còn đứng về mặt lý tánh thì vạn vật có hình tướng nhỏ như mảy lông hạt cải, lớn như mặt trời mặt trăng quả địa cầu đều do duyên hợp, không có thực thể cố định, gọi là tánh không. Tánh không của quả đất, của mặt trời, của mặt trăng, của mảy lông, của hạt cải không khác nhau, nên nói đầu sợi lông trùm cả quả đất và mặt trời mặt trăng ở trong hạt cải. Người đạt đạo thấy tự tánh các pháp là không, nên thấy tất cả sự vật đều dung hội nhau. Trên phương diện tánh không, không có tướng lớn nhỏ do đó người đạt đạo thấu suốt lý tánh không, thấy chẳng có gì ngăn ngại. Kinh Duy Ma Cật tả cái thất của ngài Duy Ma Cật nhỏ xíu, mà chứa cả hàng ngàn tòa sư tử, hàng ngàn vị A La Hán và Bồ Tát mà vẫn không có gì ngăn ngại. Bởi sự tánh của các pháp vốn không, nên chẳng có cái lớn nhỏ riêng biệt. Vì tất cả đều là tánh không như nhau nên không có gì chướng ngại nhau.

“Đại dụng hiện tiền quyền tại thủ, thùy tri phàm tánh dữ tây, đông?”. “Quyền tại thủ” dịch theo vận là tay nắm vững. Dịch sát nghĩa là nắm sẵn trong tay. Nghĩa là đại dụng hiện tiền tay nắm vững, ai phân phàm thánh với tây đông. Ýù nói người đạt đạo rồi thì diệu dụng không thể nghĩ bàn, không còn bị chướng ngại bởi lớn nhỏ, xa gần, trước sau…. Tức là không còn bị chướng ngại bởi không gian và thời gian. Người được đại dụng hiện tiền thì không còn ý niệm phân chia đây là phàm kia là thánh, không còn thấy đây là đông kia là tây, không còn thấy đối đãi hai bên, mà thấy tất cả sự vật đều dung thông, đều hòa nhập với nhau.

Tóm lại bài kệ trên thiền sư khánh hỷ dạy người học đạo muốn giác ngộ thì không nên chạy bên ngoài tìm cầu mà phải quay lại nội tâm của mình, khi đã giác ngộ hằng sống với bản thể thanh tịnh sẵn có nơi mình thì diệu dụng hiện tiền không thể lường được.

 

]

 
 

THIỀN TÔNG VIỆT NAM