THAM ĐỒ HIỂN QUYẾT VÀ THI TỤNG

CÁC THIỀN SƯ ĐỜI LÝ Giảng Giải

H.T THÍCH THANH TỪ

PHẦN II: THI TỤNG CÁC THIỀN SƯ ĐỜI LÝ (tt)

THIỀN SƯ GIỚI KHÔNG

Thiền Sư Giới Không tên thật là Nguyễn Tuân, con một lương gia trong quận Mãn Đầu, không rõ năm sanh và năm tịch. Đời thứ 15 dòng Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Tiểu sử của ngài được in trong quyển Thiền Sư Việt Nam, cùng tác giả. Sau đây là bài kệ thị tịch của Ngài:

Âm:

            Ngã hữu nhất sự kỳ đặc,

            Phi thanh huỳnh xích bạch hắc.

            Thiên hạ tại gia xuất gia,

            Thân sanh ố tử vi tặc.

            Bất tri sanh tử dị lộ,

            Sanh tử chỉ thị thất đắc.

            Nhược ngôn sanh tử dị đồ,

            Trám trước Thích Ca Di Lặc.

            Nhược tri sanh tử, sanh tử,

            Phương hội lão tăng xứ nặc.

            Nhử đẳng hậu học môn nhân

            Mạc nhận bàn tinh quỹ tắc.

Dịch:

            Ta có một việc kỳ đặc,

            Chẳng sanh vàng đen đỏ trắng.

            Cả người tại gia xuất gia,

            Thích sanh chán tử là giặc.

            Chẳng rõ sanh tử khác đường,

            Sanh tử chỉ là được mất.

            Nếu cho sanh tử khác đường,

            Lừa cả Thích Ca Di Lăïc.

            Ví biết sanh tử, sanh tử,

            Mới hiểu lão tăng chỗ náu.

            Môn nhơn, hậu học, các người,

            Chớ nhận khuôn mẫu pháp tắc.

Giảng:

“Ngã hữu nhất sự kỳ đặc, phi thanh huỳnh xích bạch hắc”. Nghĩa là ta có một việc kỳ đặc, chẳng phải xanh vàng đỏ trắng đen. Kỳ đặc là lạ lùng đặc biệt. Sở dĩ nó đặc biệt là vì không phải màu xanh, không phải màu vàng, không phải màu đỏ… nó không có tất cả màu sắc. Vậy vật ấy là cái gì?

“Thiên hạ tại gia xuất gia, thân sanh ố tử vi tặc”. Mọi người tại gia xuất gia, thích sống ghét chết là giặc. Ý nói cho người trên cõi đời này từ tại gia đến xuật gia, nếu có tâm tham sanh ghét tử đều là giặc. Dưới mắt của Ngài thì tất cả chúng ta ở đây ai cũng là giặc hết. Vì ai cũng tham sống sợ chết, ai ai cũng thấy được sanh ra là tốt là hạnh phúc, thấy chết là mất mát là khổ đau. Thế nên người ta ăn mừng sinh nhật và để tang khi có thân nhân chết. Tại sao là giặc, đoạn sau sẽ giải rõ.

“Bất tri sanh tử dị lộ, sanh tử chỉ thị thất đắc”. Chẳng rõ sanh tử khác đường, sanh tử chỉ là được mất. Vì chúng ta không biết mới thấy sanh và tử là hai đường khác nhau, sanh là ở thế giới bên này, tử là ở thế giới bên kia. Song đối với Ngài thì sanh tử chỉ là sự được mất. Tại sao? Vì chúng ta đang đi trên con đường dài sanh tử, do nghiệp dắt dẫn nên chúng ta phải chịu sanh tử luân hồi. Sanh ra ví như hòn bọt tụ lại tan ra trên mặt biể, bọt tụ gọi là được, bọt tan gọi là mất. Nhưng hòn bọt tụ lại và tan đều ở trên mặt biển. Bọt tụ tan gọi là được mất, còn mặt biển có được mất bao giờ. Sanh tử như hòn bọt tụ tan, thể chân thật không sanh diệt dụ như mặt biển. Đối với giả tướng thì thấy có sanh có diệt, đối với thể tánh chân thật thì chẳng có gì được mất. Bọt tan về biển chớ có đi đâu! Bọt tụ tan, mặt biển đâu có thêm bớt. Cũng vậy nhìn vào giả tướng của thân thấy có sanh có tử, sanh thì thích, tử thì sợ nên nói “thân sanh ố tử”. Nhưng khi nhận ra nơi mình có thể chân thật tức là cái kỳ đặc mà Ngài nói ở trên thì sự sống chết của thân này giống như trò chơi không có gì quan trọng nên không sợ. Ai đến chỗ này rồi thì không bị Ngài không gọi là kẻ giặc nữa. Vậy chúng ta thích làm kẻ giặc hay thích làm người lương thiện?

“Nhược ngôn sanh tử dị đồ, trám khước Thích Ca Di Lặc”. Nếu nói sanh tử khác đường là lừa Phật Thích Ca và Phật Di Lặc. Tại sao lừa? Vì Phật Thích Ca và Phật Di Lặc thấy sanh tử không hai, chúng ta thấy hai là trái với các Ngài, là lừa dối các Ngài.  Nếu ai cũng biết mình có tâm thể muôn kiếp không sanh diệt và biết tướng sanh diệt của thân này như hòn bọt trên biển, thì chết hay sanh đều cười chứ không lo mừng. Việc sống chết đối với thiền sư giống như trò đùa, nên ngài Từ Minh nói “Sanh như đắp chăn đông, tử như cởi áo hạ”. Khoẻ làm sao! Hôm nào trời nóng nực chúng ta mặc nhiều áo mà được cởi bớt ra, thì mát mẻ khoẻ khoắn vô cùng! Đó là tử. Hôm nào trời lạnh lẽo mà ai cho cái chăn bông đắp vào thì ấm áp biết bao! Đó là sanh. Vậy đối với việc sanh tử có sợ không? Nếu không sợ thì có trái với lời Phật dạy là “sanh tử sự đại, vô thường tấn tốc” không? Vì khi chúng ta còn mê nên Phật phải nói như vậy để sách tấn tu hành và khi chúng ta đã giác ngộ thấy sanh tử như trò chơi đâu có gì là lớn. Thế nên các vị Bồ Tát sẵn sàng đi trong sanh tử để giáo hoá chúng sanh, còn người thế gian thì theo nghiệp dắt dẫn mà sanh ra trong cõi đời. Đa số người tu sợ cái khổ sanh tử luân hồi, nên muốn tu cho ngộ đạo rồi nhập Niết Bàn hoặc về Cực lạc. Tu như vậy thì ai độ cho những người mê muội ở cõi đời này? Mình tỉnh và hết khổ rồi thì ai khổ mặc ai sao? Do đó Bồ Tát không sợ sanh tử, đi vào sanh tử để cứu độ chúng sanh. Giống như người đứng trên bờ nhìn xuống mặt biển, thấy những chùm bọt tụ tan như trò chơi không quan trọng, không chướng ngại. mặc dù bọt tụ tan bao nhiêu lần cũng được, không có gì ngại. do thấy như thế nên các thiền sư ra đi tự tại không buồn không sợ. Người đời ra đi thì sợ đủthứ nên mới khổ. Người tu nếu thấu được đạo lý rồi thì thấy sanh tử như trò chơi nên không có gì lo sợ.

“Nhược tri sanh tử, sanh tử, phương hội lão tăng xứ nặc”. Nếu biết sanh tử chỉ là sanh tử, không có sanh khác tử khác là hai lối sai biệt thì mới biết chỗ ẩn của lão tăng. Chỗ ẩn của Ngài là chỗ nào? Là chỗ bọt tan về biển!

“Nhử đẳng hậu học môn nhân, mạc nhận bàn tinh quỹ tắc”. Các ông là kẻ hậu học trong nhà đạo chớ nhận những quy cũ phép tắc. Bàn tinh là trái cân bàn, người đời lấy nó làm chuẩn mực đo lường, chỉ cho những nguyên tắc cố định. Quy củ phép tắc ở thế gian không cố định, thấy sắc cho sắc là cố định, thấy không cho không là cố định, thấy sanh cho sanh là cố định, thấy tử cho tử là cố định. Do đó ngài khuyên chúng ta đừng nhìn sự vật với cái nhìn cố định, mà phải vận dụng trí tuệ để thấy rõ thế nào là mê, thế nào là giác, cái nào đáng sợ và cái nào không đáng sợ, thấy rõ các pháp ở thế gian này không riêng biệt không tách rời nhau, mà nó dung thông, nên không đặt cái gì thành nguyên tắc cố định cả.

 

]

 
 

THIỀN TÔNG VIỆT NAM