HÀNH TRẠNG THƯỢNG SĨ
(TRẦN TUNG: 1230 - 1291)
(tt)
Ngài nói tiếp: “Thái hậu không nghe cổ đức nói Văn-thù là Văn-thù, Giải
Thoát là Giải Thoát đó sao?” Nhiều người đọc câu này thấy rối bời, không
biết nói cái gì? Tôi kể câu chuyện để làm sáng ý này. Trong Thiền Sư Trung
Hoa tập II, có ghi Thiền sư Văn Hỷ sau khi tham vấn Thiền sư Tánh Không,
nghe đồn trên Ngũ Đài Sơn có Bồ-tát Văn-thù thị hiện, Ngài khao khát muốn
lên Ngũ Đài Sơn để yết kiến. Ngũ Đài Sơn là năm ngọn núi, hình dáng mỗi
ngọn núi dưới to lần lần lên nhỏ giống như cái đài. Tiếng đồn Bồ-tát
Văn-thù hay hiện ở Trung đài (đài giữa). Từ chân núi lên Trung đài phải đi
một ngàn tám mươi nấc, do một cư sĩ Đài Loan xây. Cứ đi một trăm nấc là
qua một cua quẹo để cho người đi đỡ ngán, không cho đi thẳng, vì đi thẳng
người leo núi sẽ ngán không đi. Chùa trên Trung đài thờ Bồ-tát Văn-thù.
Năm kia tôi đi Trung Quốc cũng khao khát muốn gặp Bồ-tát Văn-thù nên leo
lên Ngũ Đài Sơn. Hôm ấy trời mưa râm râm, tôi đi lên chừng hai trăm nấc
thì mồ hôi ra ướt áo. Đi đến bốn trăm, năm trăm nấc phải ngồi thở để lấy
sức, chớ đi không nổi nữa. Sau đó mới tiếp tục đi, tôi nhất định đi để gặp
Bồ-tát Văn-thù. Tới nơi, tôi vô lễ Ngài chỉ thấy tượng Bồ-tát ngồi trên
bệ. Như vậy, Trung đài là nơi ai cũng muốn lên, chính Thiền sư Văn Hỷ khi
xưa cũng đã lên. Sư đến chùa Hoa Nghiêm, sang lễ bái hang Kim Cang, gặp
một ông già dắt trâu đi, mời Sư vào chùa, ông gọi: Quân Đề! Có đồng tử:
dạ, ra đón. Ông già thả trâu, dẫn Sư vào trong. Sư nhìn thấy nhà cửa đều
hiện sắc vàng. Ông già ngồi trên giường, chỉ cái đôn bảo Sư ngồi. Ông già
hỏi:
-
Vừa ở đâu đến?
Sư
thưa:
-
Ở phương Nam đến.
-
Phương Nam Phật pháp trụ trì thế nào?
-
Đời mạt pháp Tỳ-kheo ít giữ giới luật.
-
Chúng nhiều ít.
-
Hoặc ba trăm, hoặc năm trăm.
Sư
hỏi lại:
-
Ở đây Phật pháp trụ trì thế nào?
-
Rắn rồng lẫn lộn, phàm thánh chung ở.
-
Chúng nhiều ít?
-
Trước ba ba, sau ba ba.
Đồng tử dâng trà và tô lạc, Sư dùng vào cảm thấy tâm ý sảng khoái.
Ông già đưa chung pha lê lên hỏi Sư:
-
Phương Nam lại có cái này chăng?
Sư
thưa:
-
Không.
-
Hằng ngày lấy cái gì uống trà?
Sư
không đáp được. Thấy bóng mặt trời xế chiều, Sư hỏi:
-
Tôi xin ở lại một đêm được chăng?
Ông già bảo:
-
Ông còn chấp tâm chẳng được nghỉ.
-
Tôi đâu có chấp tâm.
-
Ngươi đã thọ giới chưa?
-
Thọ giới đã lâu.
-
Ngươi nếu không chấp tâm đâu cần thọ giới.
Sư
từ tạ trở xuống. Ông già sai đồng tử tiễn chân. Sư hỏi đồng tử:
-
Trước ba ba, sau ba ba là nhiều ít?
Đồng tử gọi:
-
Đại đức!
Sư
ứng thanh:
-
Dạ!
Đồng tử bảo:
-
Ấy nhiều ít?
Sư
lại hỏi:
-
Đây là chỗ gì?
Đồng tử đáp:
-
Đây là chùa Bát-nhã trong hang Kim Cang.
Sư
buồn bã, biết ông già đó là Văn-thù mà không thể nào gặp lại được. Sư đảnh
lễ đồng tử xin một câu khi từ biệt. Đồng tử nói kệ:
Diện thượng vô sân cúng dường cụ
Khẩu lý vô sân thổ diệu hương
Tâm lý vô sân thị trân bảo
Vô cấu vô nhiễm thị chân thường.
Tạm dịch:
Trên mặt không sân đồ cúng dường
Trong miệng không sân xuất diệu hương
Trong tâm không sân là trân bảo
Không nhơ không nhiễm là chân thường.
Nói xong, Quân Đề và chùa đều ẩn, chỉ thấy trong mây năm sắc Văn-thù cởi
kim mao sư tử qua lại, chợt có cụm mây trắng từ phương đông bay qua che
lấp.
Niên hiệu Hàm Thông năm thứ ba (862) Sư đến Hồng Châu lại viện Quan Âm yết
kiến Ngưỡng Sơn. Qua câu nói Sư liền khế ngộ bản tâm. Ngưỡng Sơn cử Sư
sung chức Điển tọa.
Sư
nấu cháo, thường thấy Văn-thù hiện trên nồi cháo. Sư lấy cây dầm quậy cháo
đập, nói:
-
Văn-thù tự Văn-thù, Văn Hỷ tự Văn Hỷ.
Văn-thù nói kệ:
Khổ hồ liên căn khổ
Điềm qua triệt đới điềm
Tu hành tam đại kiếp
Khước bị Lão tăng hiềm.
Tạm dịch:
Dưa đắng gốc vẫn đắng
Dưa ngọt rễ cũng ngon
Tu hành ba đại kiếp
Lại bị Lão tăng đòn.
Niên hiệu Quang Khải thứ ba (887) Tiền Vương thỉnh Sư trụ Long Tuyền Giải
thự.
Giải thự là giải thoát thự, thự là chỗ ở, là dinh thự. Bắt đầu từ đó,
người ta gọi Ngài là Giải Thoát. Về sau Thượng Sĩ cũng gọi ngài Văn Hỷ là
Giải Thoát. Ở đây Thượng Sĩ dẫn câu: “Văn-thù là Văn-thù, Giải Thoát là
Giải Thoát”, ý muốn nói gì? - Khi còn mê, chúng ta cầu Phật, Bồ-tát độ.
Nhưng khi đã ngộ Phật nơi tâm mình rồi, lúc đó chúng ta có còn đi cầu Phật
bên ngoài không? Khi chúng ta đã tin chắc tâm mình là Phật (tức tâm tức
Phật) thì không còn cầu mong quả vị nào nữa cả. Như vậy, người tu Thiền
khi nhận tâm mình tức là Phật thì lúc đó không còn mong cầu gì cả, dù
Bồ-tát hiện cũng không quan tâm. Nếu Bồ-tát hiện thì Bồ-tát là Bồ-tát,
mình là mình, mình không để tâm chạy theo Bồ-tát. Ngày nay chúng ta ngồi
thiền, nếu thấy Phật, Bồ-tát, Thánh tăng hiện, mà tâm khởi niệm vui mừng
cho rằng mình chứng đắc là bệnh. Chúng ta tu cốt loại bỏ tình phàm là
những niệm thương ghét, buồn vui, thủ xả..., khi tình phàm hết thì Thánh
giải hiện. Cho nên Ngài dẫn câu chuyện này để cho người học Phật nắm vững
căn bản, khỏi rơi vào đường tà là cầu Phật ở bên ngoài.
Thái hậu qua đời, nhà vua làm lễ trai tăng ở cung cấm. Nhân lễ khai đường,
vua thỉnh những vị danh đức các nơi, theo thứ lớp mỗi vị thuật bài kệ ngắn
để trình kiến giải. Kết quả thảy đều quến sình ủng nước, chưa có chỗ tỏ
ngộ. Nhà vua lấy quyển tập đưa Thượng Sĩ. Thượng Sĩ viết một mạch bài tụng
tự thuật rằng:
Kiến giải trình kiến giải
Tợ ấn mắt làm quái
Ấn mắt làm quái rồi
Rõ ràng thường tự tại.
Vua Thánh Tông thỉnh chư danh đức viết kệ trình kiến giải. Vua thấy kiến
giải của chư danh đức còn dính mắc chưa giải thoát. Vua muốn biết kiến
giải của Thượng Sĩ nên đưa giấy cho Thượng Sĩ làm kệ. Thượng Sĩ viết một
mạch xong bài kệ bốn câu. Theo Thượng Sĩ thì trình kiến giải là đem kiến
giải này trình kiến giải kia, chẳng khác nào dụi mắt thấy hoa đốm lăng
xăng trong hư không. Lúc trời nắng, chúng ta lấy tay đè và dụi trên mắt
một hồi, khi giở tay ra mở mắt nhìn thấy hoa chớp chớp lăng xăng. Vậy thấy
hoa chớp chớp lăng xăng đó từ đâu mà có? - Từ dụi mắt mà phát ra cái thấy
hoa chớp chớp lăng xăng. Trước khi dụi mắt chúng ta có thấy hoa chớp chớp
lăng xăng đó không? Do dụi mắt mới thấy hoa chớp chớp lăng xăng, không dụi
mắt thì không thấy. Như vậy hoa chớp chớp lăng xăng đó không thật. Cũng
vậy, kiến giải là cái hiểu biết phân biệt đúng sai hay dở..., những cái đó
do huân tập mà có, nên nó không thật, đã không thật tại sao đem ra trình?
Vì đem cái không thật ra trình, nên Thượng Sĩ nói “kiến giải trình kiến
giải, tợ ấn mắt làm quái”.
Con mắt bình thường không bệnh nhìn thấy mọi vật rõ ràng, dụi làm chi cho
thấy hoa đốm chớp chớp lăng xăng mà không thấy mọi vật rõ ràng? Trình kiến
giải giống như dụi mắt làm quái vậy. Vì con mắt nguyên nó là trong sáng
thấy rõ các vật, bây giờ dụi nên thấy hoa đốm chớp chớp lăng xăng. Hoa đốm
chớp chớp lăng xăng đó không có thật, chẳng có nghĩa lý gì. Song, “ấn mắt
làm quái rồi, rõ ràng thường tự tại”. Lúc sau, hết những cái hoa chớp chớp
lăng xăng đó thì mắt trở lại bình thường, thấy mọi vật rõ ràng như trước.
Như vậy, mắt chúng ta thấy những hoa đốm chớp chớp lăng xăng là khi chúng
ta dụi. Những cái lăng xăng đó là những cái quái, chớ không phải là những
cái thật, cái thật là cái trước khi chưa dụi mắt và sau khi dụi mắt. Kiến
giải giống như hoa đốm lăng xăng khi dụi mắt thấy vậy. Nó giả có, không
thật. Trước khi chưa dụi và sau khi dụi trở lại bình thường mới là thật.
Chính vì thế trong nhà Thiền bảo Thiền sinh chỉ cho ra cái trước khi niệm
khởi và sau khi phát ra câu nói. Đầu câu nói là lúc con mắt đang sáng,
khởi ra câu nói là lúc mắt bị dụi. Thượng Sĩ thấy đem kiến giải này trình
kiến giải kia, chẳng khác nào dụi mắt thấy hoa đốm lăng xăng, việc làm này
không phải là chân lý. Nhưng hết lăng xăng trở lại bình thường.
Nhà vua đọc xong, liền phê tiếp theo sau:
Rõ ràng thường tự tại,
Cũng ấn mắt làm quái.
Thấy quái chẳng thấy quái,
Quái ấy ắt tự hoại.
Thượng Sĩ đọc, thầm nhận đó.
Vua Trần Thánh Tông viết được những câu kệ như thế chứng tỏ nhà vua rất
thông lý thiền. Vua viết “rõ ràng thường tự tại” hợp với câu chót của bài
kệ Thượng Sĩ viết. Khi mắt chưa bị dụi thì nó rõ ràng thường tự tại, khi
dụi mắt làm quái thấy hoa đốm lăng xăng. Song, thấy những hoa đốm lăng
xăng đó mà không chấp thì những hoa đốm lăng xăng đó tự hoại. Nhà vua tự
bênh vực chỗ đòi trình kiến giải của mình. Theo nhà vua thì: Tôi muốn quí
vị trình kiến giải là dụi mắt làm quái đó. Nhưng nếu thấy kiến giải chẳng
phải kiến giải thì kiến giải tự hết. Còn nếu trình kiến giải rồi bám vào
kiến giải, cho đó là sở đắc của mình thì kiến giải trở thành chướng ngại
là cái quái. Như vậy, nhà vua đâu phải là người thường, nên Thượng Sĩ thầm
nhận.
Sau vua kém vui, Thượng Sĩ viết thơ hỏi thăm bệnh. Vua đọc thơ, trả lời
bằng bài kệ:
Hơi nóng hừng hực toát mồ hôi,
Chiếc khố mẹ sanh chưa thấm ướt.
Vua Thánh Tông nhuốm bệnh, Thượng Sĩ viết thơ thăm. Được vua trả lời bằng
hai câu kệ trên. Ý Ngài muốn nói gì qua hai câu kệ này? - Người nóng bức,
mồ hôi toát ra đầy mình mà nói chưa từng ướt cái khố mẹ sanh. Tại sao vua
nói mâu thuẫn vậy? Khi mà mồ hôi toát ra ướt khắp mình thì quần áo đang
mặc có cái nào không ướt? Sao nói cái “khố mẹ sanh” không uớt? - Ngài nói
“khố mẹ sanh không ướt” là nói thân tứ đại này bị bệnh đau nhức, sắp rã
tan, nhưng cái chân thật sẵn có nơi mình không bệnh, không đau nhức, không
rã tan. Có chỗ ghi nhà vua trả lời thơ của Thượng Sĩ xong, sau đó là băng
hà. Vua sắp chết mà nói năng quá tỉnh táo khiến cho tu sĩ chúng ta lấy làm
hổ thẹn. Nếu chúng ta bị bệnh, có ai hỏi thăm thì than: “Tôi đau nhức lắm
chịu không nổi!” Chỉ nhớ thân đau nhức thôi, chớ không nhớ cái gì nữa! Đó
là cái khác nhau giữa người tỉnh và mê.
Thượng Sĩ đọc kệ than thở giây lâu. Đến khi Vua bệnh nặng, Thượng Sĩ khấp
khểnh về kinh thăm, nhưng đến nơi Vua đã qui tiên rồi.
Thượng Sĩ nhận được bài kệ của vua Thánh Tông, đọc xong thấy thương tiếc.
Sau đó đi về kinh đô để thăm vua, nhưng đến nơi vua đã băng hà.
Riêng tôi (Sơ tổ Trúc Lâm) nay cũng nhờ ơn Thượng Sĩ dạy dỗ. Lúc tôi chưa
xuất gia, gặp tuần tang của Đinh Nguyên Thánh mẫu hậu, nhân thỉnh Thượng
Sĩ. Thượng Sĩ trao cho tôi hai quyển lục Tuyết Đậu và Dã Hiên. Tôi thấy
lời nói thế tục quá sanh nghi ngờ, bèn khởi tâm trẻ con trộm hỏi rằng:
-
Chúng sanh do nghiệp uống rượu ăn thịt, làm sao thoát khỏi tội báo?
Thượng Sĩ bảo cho biết rõ ràng:
-
Giả sử có người đứng xây lưng lại, chợt có vua đi qua sau lưng, người kia
thình lình hoặc cầm vật gì ném trúng vua, người ấy có sợ không? Vua có
giận chăng? Như thế nên biết, hai việc này không liên hệ gì nhau.
Lúc vua Nhân Tông còn là Thái tử, nhân ngày lễ tuần tang của Hoàng hậu,
vâng lịnh vua cha đi mời Thượng Sĩ dự lễ. Thượng Sĩ trao cho hai quyển lục
Tuyết Đậu và Dã Hiên, Ngài đọc qua thấy từ ngữ trong ấy quá thô lậu phàm
tục nên nghi và xem thường, bèn khởi tâm trẻ con hỏi rằng:
-
Chúng sanh do nghiệp uống rượu ăn thịt, làm sao thoát khỏi tội báo?
Đọc qua hành trạng của các Thiền sư, thỉnh thoảng chúng ta thấy có vài vị
lâu lâu ăn thịt uống rượu. Nếu ăn thịt uống rượu làm sao thoát khỏi tội
báo?
Thượng Sĩ trả lời:
-
Giả sử có người xây lưng lại chợt có vua đi qua sau lưng người kia thình
lình cầm vật gì ném trúng vua, người ấy có sợ không? Vua có giận không?
Như thế nên biết, hai việc này không liên hệ gì nhau.
Thượng Sĩ nói, nếu ăn thịt uống rượu mà vô tình vô tâm, không khởi động
niệm thì không có tội. Còn nếu uống rượu ăn thịt với tâm khao khát thèm
thuồng thì có tội. Như vậy có tội hay không tội tùy theo tâm người; nếu
tâm đắm nhiễm thì có tội, tâm không đắm nhiễm, vì một trường hợp bất đắc
dĩ mà ăn hay vì vô tình vô tâm thì không tội.
Thượng Sĩ liền đọc hai bài kệ để dạy:
Vô thường các pháp hạnh,
Tâm nghi tội liền sanh.
Xưa nay không một vật,
Chẳng giống cũng chẳng mầm.
Các pháp hạnh là vô thường, nhưng nếu khởi tâm nghĩ ngợi thì tội từ đó
phát sanh. Còn thể thanh tịnh sáng suốt không hình không tướng, không phải
là một vật, cũng không phải là giống, cũng không phải là mầm, thì làm gì
có sanh diệt, vì vậy mà không có tội không có phước. Tội phước chỉ phát
sanh ở tâm niệm vọng động; việc làm phát khởi từ tâm niệm vọng động thành
tội thành phước, tâm không dấy động nói gì tội phước. Bây giờ Tăng Ni chưa
hết phiền não vọng tưởng mà bắt chước ăn thịt uống rượu thì có tội không?
Tại vì tâm sanh thì tội sanh. Chừng nào tâm niệm hết sanh khởi thì sao
cũng được. Vậy quí vị muốn bắt chước nên bắt chước tâm không dấy niệm ở
trước thì ăn thịt uống rượu như Thượng Sĩ cũng được. Nếu chưa được vô niệm
thì khoan bắt chước, có lỗi.
Ngày ngày khi đối cảnh
Cảnh cảnh từ tâm sanh.
Tâm cảnh xưa nay không
Chốn chốn ba-la-mật.
Thượng Sĩ nói: Ngày ngày mắt, tai, mũi, lưỡi... của chúng ta duyên với
trần cảnh, cảnh nào cũng đều dính mắc. Do tâm dính mắc với cảnh, cảnh tâm
không rời nhau, nên nói cảnh từ tâm sanh. Tâm cảnh dính mắc nhau rồi thì
tự nó là tội là phước. Khi biết rõ tâm (vọng) cảnh không có thật thể,
không phải là chân thì tâm không chạy theo cảnh nên không dính mắc lúc ấy
pháp nào cũng là ba-la-mật, pháp nào cũng là cứu kính, không có pháp nào
là tội là phước cả. Tại vì tâm dính với cảnh cho nên có tội có phước, nếu
tâm không dính mắc với cảnh, biết rõ nó không thật thì pháp nào cũng là
pháp cứu kính.
Tôi lãnh hội ý chỉ hai bài tụng, giây lâu hỏi: “Tuy nhiên như thế, vấn đề
tội phước đâu đã rõ ràng.”
Thượng Sĩ lại dùng kệ giải rõ:
Ăn rau cùng ăn thịt
Chúng sanh mỗi sở thuộc.
Xuân về trăm cỏ sanh
Chỗ nào thấy tội phước?
Điều Ngự Giác Hoàng nói việc tội phước Thượng Sĩ dạy như thế, Ngài vẫn còn
nghi ngờ chưa rõ. Vì vậy mà Thượng Sĩ dùng kệ để giảng; Thượng Sĩ nói thú
có mạng sống, cây cỏ cũng có mạng sống; thú vật là chúng sanh, cây cỏ cũng
là chúng sanh, ăn rau trái thì có tội với cây cỏ, ăn thịt thì có tội với
thú vật, vì nó có chủ. Con cá, con gà, con vịt... nó tự có chủ, chúng ta
đoạt mạng sống lấy thịt nó để ăn là có tội, cây cỏ cũng có chủ, chúng ta
đoạn mạng sống lấy thân lá trái nó để ăn là có tội. Chỉ khi tâm chúng ta
thản nhiên tự tại trước mọi việc đến đi của thế sự, cũng như thời tiết
xuân đến thì hoa nở cỏ sanh, thu đến thì lá úa hoa rụng là lẽ thường thì
đâu thấy có tội phước. Sở dĩ thấy có tội phước là do tâm chấp trước, khi
hết chấp trước không còn dính mắc thì tội phước đâu còn.
Sở
dĩ ngày nay tu sĩ không ăn cá thịt là vì thú vật bị giết nó giãy giụa kêu
la, chúng ta cảm thông được nỗi đau khổ của nó nên tránh không ăn. Còn rau
trái khi cắt, nó không kêu la chỉ héo xàu thôi, lòng chúng ta không xót xa
lắm nên chúng ta ăn. Nghĩa là cái gì chúng ta ăn mà thấy ít xót xa, ít tổn
thương lòng từ bi thì tạm dùng. Sống là phải ăn, không ăn thì làm sao
sống? Vì vậy mà lựa loài nào ít xúc cảm thì ăn, chỉ ăn những loài ít xúc
cảm ít làm tổn thương lòng từ bi. Vì loài nào cũng có quyền làm chủ, cần
sự sống; loài nào khi bị đoạn mạng sống cũng chảy máu chảy mủ, song mủ của
cây cỏ khác hơn máu của động vật. Người tu ăn, quan trọng ở chỗ có niệm
tham trước mong cầu hay không niệm tham trước mong cầu. Nếu đã dứt tâm
tham trước mong cầu mà ăn thì không tội không phước. Nếu còn tâm tham
trước mong cầu thì ăn gì cũng có lỗi, ở đâu cũng có lỗi.
Thượng Sĩ dạy
như thế mà Điều Ngự Giác Hoàng cũng chưa an lòng, nên hỏi tiếp.
Tôi thưa:
-
Chỉ như gìn giữ giới hạnh trong sạch, không chút xao lãng lại thế nào?
Thượng Sĩ cười không đáp. Tôi lại thỉnh cầu. Ngài lại nói hai bài kệ để ấn
định đó:
Giữ giới cùng nhẫn nhục
Chuốc tội chẳng chuốc phước.
Muốn biết không tội phước
Chẳng giữ giới nhẫn nhục.
Ai
đọc đến mấy câu kệ này cũng đều nghi. Kinh Phật dạy chúng ta tu là phải
trì giới, phải nhẫn nhục. Ai giữ giới trong sạch, ai nhẫn nhục giỏi thì
người đó là người đạo đức cao, là người có phước nhiều. Tại sao ở đây
Thượng Sĩ lại nói: “giữ giới cùng nhẫn nhục, chuốc tội chẳng chuốc phước”?
Nghe qua chúng ta giựt mình, không bao giờ chúng ta tưởng tượng được người
tu cao mà nói như vậy! Nhưng tại sao Thượng Sĩ nói? Ngài nói có trái đạo
lý không? Câu này tôi đã bị hỏi, bây giờ tôi hỏi quí vị, tại sao chúng ta
tu phải trì giới phải nhẫn nhục? Sở dĩ chúng ta tu phải nhẫn nhục là vì
sân hận quá nhiều, bây giờ muốn đàn áp hay ngăn chận nó thì phải tập nhẫn
nhục. Song khi tập nhẫn nhục thì sân giận hết chưa? Nếu hết sân thì khỏi
nhẫn nhục. Như vậy thì còn tập nhẫn nhục là còn sân, còn sân là còn tội,
nên nói “chuốc tội chẳng chuốc phước”. Chừng nào hết sân thì chừng đó
không còn tu nhẫn nhục nữa.
Đến trì giới. Tại sao chúng ta phải trì giới? - Tại vì chúng ta hay sát
sanh, trộm cắp, dâm dục... Sát sanh, trộm cắp, dâm dục tự gây khổ cho mình
mà còn làm khổ cho người nên Phật cấm. Nếu người thương chúng sanh không
giết hại nó, thấy của người không khởi lòng tham để lấy, thấy sắc đẹp
không đam mê... thì không phải trì giới. Tại vì chúng ta còn tham còn sân
nên phải trì giới để ngăn chận, nếu hết những tâm bệnh đó thì không cần
giữ giới. Bởi chúng ta còn bệnh tâm nên phải trì giới. Còn trì giới là còn
tội, nên phải kềm chế gìn giữ, lâu lâu sơ hở cũng tạo chút ít, bao giờ hết
bệnh tâm chừng đó hết giữ giới. Mới nghe, thấy như Thượng Sĩ nói ngược lại
lời dạy của Phật, nhưng kỳ thực rất hợp với lời Phật dạy. Tu đến chỗ không
cần giữ giới mà không phạm giới mới thật là thanh tịnh; tâm đã hoàn toàn
thanh tịnh thì ngang đó hết tội phước. Nếu còn giữ giới còn nhẫn nhục là
còn tội còn phước chớ chưa hết. Dễ hiểu hay khó hiểu?
Đây là bài kệ thứ hai:
Như khi người leo cây
Trong an tự cầu nguy.
Như người không leo cây
Trăng gió có làm gì?
Thượng Sĩ ví dụ người thấy tội phước như người đang đứng trên mặt đất bằng
bình yên vô sự, bỗng leo lên cây bị gió mạnh nên mới sợ té. Đó là người
đang ở trong an ổn mà tạo lấy sự nguy hại. Ngược lại, nếu đứng yên ở mặt
đất thì giông gió đâu có làm hại được. Cũng vậy, tâm thể vốn thanh tịnh,
không động niệm, tự khởi niệm tội phước nên cần phải giữ giới. Nếu không
tham sân si, không khởi niệm tội phước thì không cần giữ giới không cần
phải nhẫn nhục. Đó là lẽ thật không trái với lời Phật dạy.
Ngài lại dặn nhỏ tôi: “Chớ bảo cho người không ra gì biết.”
Tuy lời dạy của Thượng Sĩ là chân lý, là cứu kính, nhưng kẻ tầm thường thì
không nên biết. Vì họ biết qua lời này họ sẽ chấp và cho rằng Thượng Sĩ
nói trì giới nhẫn nhục là chuốc tội chớ không được phước, rồi thấy người
tu giữ giới nhẫn nhục nghĩ người đó chuốc tội, còn người tu buông lung làm
nhiều chuyện xằng bậy thì không tội được phước. Đó là phá kiến. Những
người tầm thường, họ không hiểu nổi ý nghĩa thâm sâu thì không nên nói cho
họ nghe, có hại. Những câu này chỉ nói cho người xuất cách, vượt khỏi tầm
thường nghe, hạng người này mới có đủ khả năng tiếp nhận.
Tôi biết môn phong của Thượng Sĩ cao vót. Một hôm tôi xin hỏi Ngài về “bổn
phận tông chỉ”. Thượng Sĩ đáp: “Soi sáng lại chính mình là phận sự gốc,
chẳng từ nơi khác mà được.” (Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha
đắc.) Nghe xong, tôi thông suốt được đường vào, bèn vén áo thờ làm thầy.
Điều Ngự Giác Hoàng kể lại khi Ngài lãnh hội được đạo lý. Ngài hỏi Thượng
Sĩ về bổn phận của người tu Thiền và tông chỉ của Thiền tông như thế nào,
thì Thượng Sĩ đáp: “Soi sáng lại chính mình là phận sự gốc, chẳng từ nơi
khác mà được.” Pháp này là trọng tâm của người tu Thiền, hay nói cách khác
là cốt tủy của Phật giáo. Bởi vì tất cả pháp tu của đạo Phật, đều bắt
chúng ta phải soi lại mình. Đó là phận sự chính phận sự gốc, chớ không từ
nơi khác mà cầu được. Quí vị kiểm lại coi những pháp tu của đạo Phật có
pháp nào không soi lại mình? Từ Phật giáo Nguyên thủy đến Phật giáo phát
triển, đa số đều ứng dụng pháp Tứ niệm xứ. Tứ niệm xứ là pháp quán thân
bất tịnh, quán thọ thị khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã. Quán
thân hay quán thọ quán tâm hay quán pháp đều soi lại mình.
Trong mỗi chúng ta ai cũng có thân. Song, thân này trong sạch thơm tho hay
ô uế hôi thúi? Chúng ta mang thân hôi thúi như cái bô đựng đồ bất tịnh mà
không biết rõ tự thân, cứ tưởng tượng khác sự thật. Thế nên Phật dạy chúng
ta phải nhìn lại thân mình cho đúng lẽ thật, nó như thế nào thấy đúng như
thế ấy. Thấy sai là mê là lầm, thấy đúng là tỉnh là giác. Vậy, chúng ta tu
đạo giác ngộ là phải thấy đúng như thật; thấy thân tâm mình đúng như thật
là việc trước hết. Vì tất cả mọi cái bên ngoài chúng ta có chấp giữ, có
tạo tác, có phiền não khổ đau đều từ nơi thân tâm này mà ra. Vì thế mà
chúng ta phải thấy đúng như thật về mình rồi nhìn ra ngoài mới đúng như
thật.
Cái thấy sai đầu tiên là chấp thân là ta, rồi thấy thân ta đẹp đẽ, thấy
thân người xấu xí, thấy thân ta cao sang quyền quí, thấy thân người nghèo
khó hèn hạ, sanh tâm kiêu mạn khinh khi. Nhưng nhìn kỹ lại thì bên trong
cái dáng vẻ đẹp đẽ, xấu xa, hay cao sang, nghèo khó, không có gì khác nhau
cũng chỉ là máu thịt... hôi tanh như cái bô đựng đồ bất tịnh đâu có gì
sạch quí. Chúng ta không chịu nhìn như vậy, mà cứ nhìn bên ngoài và tưởng
tượng khác đi.
Ví
dụ thợ gốm nắn những cái bô kiểu mẫu khác nhau, cái thì cao dong dong, cái
thì thấp thô thô, lúc vẽ bông thì vẽ cái cao màu vàng cái thấp màu xanh.
Khi nhìn, người ta khen cái bô này đẹp chê cái bô kia xấu. Song, công dụng
của nó thì không khác, bô xấu đựng đồ bất tịnh, bô đẹp cũng đựng đồ bất
tịnh, cái nào cũng như cái nấy. Như vậy, nếu nói đến bản chất của thân này
thì không khác, nó chỉ là khối nhơ bẩn phải nhờm gớm chán chê, thế mà
chúng ta lại quí trọng cưng chìu nó. Thấy như thế là sai. Phật dạy chúng
ta phải nhìn lại mình cho đúng, rồi hãy nhìn người khác. Nếu không thấy
đúng về mình mà cứ lo nhìn và phê phán người khác thì thật là khờ khạo.
Phải biết mình trước đã rồi hãy khen chê người! Bây giờ hỏi thân mình là
gì? Nếu chúng ta biết rõ thân mình là cái bô chứa đồ bất tịnh, dù có che
đậy dưới hình thức nào cũng chỉ là cái bô thôi thì không có tự hào ngã
mạn. Thấy như vậy là đã phản quan soi lại mình, mình đã tỉnh thì không còn
nhiễm nhơ nữa. Đó là quán thân bất tịnh.
Kế
đến quán thọ là khổ. Thọ là cảm giác vui buồn của mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân, ý khi tiếp xúc với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Người đời hầu
hết đều chìm đắm trong sáu cảm giác này. Mắt thì muốn thấy sắc đẹp, tai
thì muốn nghe tiếng hay, mũi thì muốn ngửi mùi thơm, lưỡi thì muốn nếm vị
ngon, thân thì muốn xúc chạm êm ấm. Ý thì tư tưởng những điều vừa ý. Tất
cả những xúc chạm đó đều là cảm thọ. Suốt ngày người ta lao nhọc làm việc
cho có tiền để chi tiêu cho cái gì? Do cảm thọ lạc mà cái lưỡi thích ăn
ngon, phải mua thức ăn ngon để thỏa mãn cái lưỡi. Mũi thích hương thơm
phải mua dầu hoa thơm để đáp ứng nó. Tai thích nghe âm thanh hay phải sắm
radio, cassette, đàn để nghe âm nhạc... Như vậy, tất cả chúng ta đều bị lệ
thuộc cảm giác, cảm giác làm cho con người quay cuồng trong cuộc sống điên
đảo này. Quí vị kiểm lại coi chúng ta có lệ thuộc cảm giác không? Nếu
những cảm giác đó mà chúng ta cho là thật thì cứ say mê chạy theo không
dừng. Bây giờ quí vị thử phản quán lại xem cảm giác có thật hay không? Cái
lưỡi ăn thức ăn ngon có cảm giác ngon, thích, thấy vui; thức ăn dở có cảm
giác dở, không thích, thấy buồn. Lỗ tai nghe tiếng êm dịu trầm bổng thì
thích vui, tai nghe tiếng cộc cằn chửi rủa thì ghét buồn... Cảm thọ có vui
và buồn, nhưng tại sao Phật chỉ nói thọ là khổ thôi? Vậy Phật phủ nhận lẽ
thật sao? Điều này nếu quí vị không hiểu kỹ, thì bị người bắt bẻ sẽ lúng
túng. Trong Kinh nói thọ có ba thứ là thọ lạc, thọ khổ, thọ không khổ
không lạc. Nhưng Phật dạy quán tất cả thọ đều là khổ. Vậy, quán là tưởng
tượng hay có lẽ thật?
Ở
trước chúng ta quán xét thấy thân chúng ta bất tịnh là một lẽ thật. Bây
giờ xét thấy thọ có vui có buồn mà nói thọ là khổ có đúng lẽ thật không?
Tại sao nói thọ khổ? - Phật dạy tất cả thọ là vô thường, đã là vô thường
thì nhất định phải khổ chớ không vui. Thọ nhận những pháp trái ý thì khổ
quí vị thấy rõ rồi. Còn thọ những pháp vừa ý thích là vui, nhưng Phật lại
nói khổ thì thật khó hiểu. Tất cả mọi người khi được cảm thọ vui ai cũng
muốn lưu giữ nó còn hoài không mất. Nhưng tất cả những cái vui của cảm thọ
qua rồi là mất, vì vậy mà con người không toại ý, muốn giữ lại, song giữ
không được nên tiếc nuối, lòng ray rứt không an nên khổ. Khổ vì nó vô
thường, chớ không phải khổ vì cảm giác đó mình không ưa. Tất cả cảm thọ
đều vô thường, bởi vô thường nên khổ. Quí vị phải hiểu căn do khổ đau là
như vậy, đừng hiểu theo nghĩa thường. Tóm lại mọi cảm thọ vừa ý hay không
vừa ý đều là vô thường; cái thọ khổ qua rồi thì mất, cái thọ vui qua rồi
cũng mất. Nếu ráng nhớ lại chỉ tiếc nuối thèm thuồng, khổ tâm thôi. Đó là
thọ ở nơi sáu căn khổ. Bây giờ đến cái thọ lớn nhất mà ai cũng thọ ai cũng
khổ là thọ thân. Con người không ai là không có thân tứ đại, đã có thân tứ
đại không ai là không bị sanh, già, bệnh, chết bức ngặt, nó luôn làm cho
con người đau khổ, nên nói thọ thân là khổ. Như vậy, tất cả pháp đều vô
thường, từ cái thân này cho đến sắc đẹp, âm thanh trầm bổng... có đó rồi
mất đó, biết rõ nó vô thường là khổ thì không dính mắc với nó đó là quán
thọ khổ.
Bây giờ quán tâm vô thường. Từ ngàn xưa ai cũng cho tâm ta là thật, cho
cái nghĩ suy của ta là đúng là hay, hết bắt người này làm theo cái nghĩ
suy của ta tới bắt người kia làm theo cái nghĩ suy của ta. Nếu họ không
làm theo thì ta không chịu, ta tức giận lên, gây khổ đau cho mình cho
người. Thế nên Phật chỉ cho chúng ta thấy rõ tâm ta vô thường. Ví dụ lúc
còn trẻ chúng ta thích đi du lịch thăm chỗ này viếng chỗ kia, khi đứng
tuổi thì không thích đi chơi nữa, lại thích đọc sách nghiên cứu. Hoặc tuần
này chúng ta thích ăn những món ăn xào chiên nhiều dầu mỡ, tuần sau không
thích ăn thức ăn có dầu mỡ nữa, lại thích ăn những trái cây chua. Tâm
thích ưa của chúng ta không cố định lâu dài, có đó rồi mất đó, không
trường tồn nên nói là vô thường. Lại nữa, nếu chúng ta nhìn kỹ tâm mình
hơn thì thấy khởi hết niệm thiện đến niệm ác, hết khởi niệm vui tới niệm
buồn, lao xao khởi diệt, rõ ràng vô thường sanh diệt. Chúng ta quán thấy
rõ tâm ta vô thường sanh diệt thì hết chấp tâm, hết chấp tâm thì hết phiền
não.
Vậy, quán thân bất tịnh, quán thọ là khổ, quán tâm vô thường giúp cho
chúng ta soi trở lại thấy rõ biết rõ mình là cái gì. Khi đã biết rõ lẽ
thật về mình rồi thì những cái chấp về thân về cảm thọ về tâm không còn
nữa. Nếu không còn chấp thân chấp cảm thọ chấp tâm thì không còn dính mắc
không còn phiền não. Đó là pháp tu diệt trừ phiền não bằng cách thấy đúng
như thật về con người mình, chớ không phải suy lý tưởng tượng. Gọi đó là
phản quán.
Pháp phản quán dạy chúng ta tu có hai cách. Cách thứ nhất là phản quán để
diệt trừ phiền não, khi phiền não hết thì chứng A-la-hán. Cách này y lời
Phật dạy ở nơi kinh mà thực hành. Cách thứ hai là nhìn lại tâm mình, thấy
vọng tưởng dấy khởi liền biết không theo, vọng tưởng tự lặng. Khi vọng
tưởng lặng yên, thì ngay nơi thân tâm sanh diệt, chúng ta nhận ra cái
không sanh diệt. Bấy giờ thấy rõ tất cả tướng sanh diệt của thân tâm của
cảnh vật đều là hư dối không thật, chỉ có Thể không sanh diệt mới là chân
thật. Đó là pháp quán của Thiền tông. Vậy, tất cả pháp quán như Tứ niệm
xứ, Tứ vô lượng tâm, Sổ tức... đều thuộc về pháp phản quán theo kinh Phật
dạy, có phương pháp để quán. Còn ở đây thì dùng trí chiếu soi lại mình mà
không mượn một phương pháp nào cả, dùng trí nhìn lại tâm mình, ngay nơi
con người sanh diệt nhận ra cái bất sanh bất diệt mà ở đoạn trước vua Trần
Thánh Tông nói: Cái khố mẹ sanh chưa bao giờ bị ướt. Đó là lối tu của
Thiền tông. Hiểu như vậy quí vị mới hiểu tại sao Bồ-đề- đạt-ma, Tổ sư
Thiền tông chủ trương “Giáo ngoại biệt truyền”. Tuy không nương vào kinh
điển mà vẫn phản quan, song phản quan bằng cách trực nhận ra Thể chân
thật, chớ không mượn một phương pháp để quán theo kinh Phật dạy.
Ở
Thiền viện, tôi hướng dẫn quí vị tu là nhìn lại từng vọng tưởng dấy khởi
của mình, biết rõ nó không thật nên không theo. Và, khi thấy cảnh, nghe
tiếng, nhớ lại mình có tánh thấy, tánh nghe hằng hữu không mất, đó là phản
quán theo Thiền tông. Hiểu như vậy mới thấy câu “phản quan tự kỷ bổn phận
sự, bất tùng tha đắc” là cốt tủy của Phật giáo từ Nguyên thủy đến Đại
thừa, kể cả Thiền tông. Nghĩa là tu phải nhìn lại mình là bổn phận chính
của mình, không từ bên ngoài mà được. Nếu tu mà trông cậy tin tưởng bên
ngoài là trái với lời Phật dạy. Quí vị hiểu rõ ý nghĩa này, mới thấy tầm
vóc quan trọng của sự tu hành và không còn nghi ngờ tại sao chỗ này quán
như thế này, chỗ khác quán như thế khác.
Điều Ngự Giác Hoàng thờ Thượng Sĩ làm thầy lúc chưa làm vua, chưa xuất
gia. Ngài thấy đường vào khi còn là Thái tử.
Ôi! Tinh thần sắc vận của Thượng Sĩ thật trang nghiêm, cử chỉ thẳng thắn
uy đức. Ngài bàn huyền nói diệu, trong lúc gió mát trăng thanh, những hàng
thạc đức đương thời đều bảo Thượng Sĩ tin sâu hiểu rõ, thuận hạnh nghịch
hạnh thật khó lường được.
Điều Ngự Giác Hoàng tán thán Thượng Sĩ là bậc đức hạnh cao dày, bàn luận
đạo lý với người, Ngài nói rất thâm sâu siêu thoát, thế nên ai cũng cho
Ngài là bậc tin sâu hiểu rộng. Đối cơ giáo hóa, không biết Ngài dùng thuận
hạnh hay nghịch hạnh. Tức là có những người tới học đạo, Ngài chỉ dùng lời
chân thật để an ủi dạy bảo (thuận hạnh). Lại có người tới hỏi đạo thì Ngài
đánh, Ngài nạt hoặc đáp bằng những lời thô nặng (nghịch hạnh), với mắt của
người thường thì khó lường được hạnh của Ngài. Ví dụ ở trong chúng, với
người hiền lành chất phác thì tôi giảng dạy đơn giản bình dị họ mới hiểu.
Với người ngông nghênh giảng nói hiền hiền không được, tôi phải rầy la, họ
mới tiến; tất cả những phương tiện đó nhằm để giáo hóa giúp cho họ tiến
đạo.
Sau Ngài bệnh ở Dưỡng Chân Trang, chẳng ở trong phòng thất. Kê một chiếc
giường gỗ ở giữa nhà trống, Ngài nằm theo thế kiết tường nhắm mắt mà tịch.
Các người hầu và thê thiếp trong nhà khóc rống lên. Thượng Sĩ mở mắt ngồi
dậy, đòi nước súc miệng rửa tay, rồi quở nhẹ rằng: “Sống chết là lẽ
thường, đâu nên buồn thảm luyến tiếc, làm nhiễu động chân tánh ta.” Nói
xong, Ngài an nhiên thị tịch, thọ sáu mươi hai tuổi. Bấy giờ là ngày mùng
một tháng tư năm Tân Mẹo, nhằm niên hiệu Trùng Hưng thứ bảy (1291) đời vua
Trần Nhân Tông.
Thượng Sĩ là một cư sĩ mà chết một cách tự tại an nhiên thật hiếm có.
Chúng ta là người xuất gia cắt đứt mọi ràng buộc thế gian, chỉ một bề tu
hành. Nếu không khéo tu ngày nhắm mắt ra đi, quờ quạng không biết lối đi
thật đáng tiếc lắm vậy.
Tới đây là xong phần lịch sử của Tuệ Trung Thượng Sĩ. Phần sau là những
lời tán thán của đệ tử.
* |