THI CA (tt)
Dịch: BÀI
VĂN TRỮ TỪ TỰ RĂN
Ngày tháng nước chảy
Giàu sang mây trôi.
Gió lửa tan rồi
Trẻ già thành bụi.
Hồn phách lìa, sắc thân như mộng
Cuộc mưu sinh, con rối kéo lôi,
Hằng ngày đùa, đưa tay bắt bóng.
Hạc cửu cao đầu đỏ có thừa
Cá vũ môn đuôi hồng chẳng đổi.
Chẳng quay đầu, hồi quang phản chiếu
Hợp tâm yếu, thức tánh thông minh.
Cầu giải thoát, chánh giác viên thành
Nơi trần tục, tâm thanh diệu dụng.
Trong mộng tạo tác
Thức rồi đều không.
Trong mộng tạo, sanh thô sanh tế
Tỉnh giấc rồi, không mảy tóc kẽ tơ.
Tâm thanh tịnh chẳng nhơ chẳng bợn
Thân kiên cố không trước không sau.
Sắc xuân hoa đóa đóa tươi hồng
Trăng thu bóng tròn tròn viên diệu.
Buộc niệm phàm thánh
Chỉ hiềm là trái hẳn tướng chân.
Lòng quên tử sanh
Liền liễu ngộ xưa nay tánh thật.
Còn mảy tình tam đồ báo ứng
Tơ hào niệm lục đạo tiếp nhân.
Tùy bảy thức có chán có ưa
Phá ba độc không chân không vọng.
Tướng nhân ngã khó thâu khó nhiếp
Kiếp hà sa luân hồi tứ sanh.
Tham sân si cùng đấu cùng tranh
Số tăng-kỳ lang thang chín loại.
Nhận hướng theo khuôn phép vô minh
Luống uổng mất sắc thân tứ đại.
Khéo chuyển đổi các căn hữu lậu,
Liền chứng vào chánh định chân như.
Điên đảo nhị kiến
Là đem lưới bủa cá đầu non.
Tịch diệt nhất như
Cỡi ngược lừa tiến lên bờ giác.
Trong lòng nếu không thiên không đảng
Tai mặc nghe người mắng người chê,
Cầm lửa đốt trời luống tự nhọc
Mắt được thấy là xót là thương.
Cầu chân như mà đoạn vọng niệm
Dường la to để át tiếng vang.
Bỏ phiền não mà giữ Niết-bàn
Tợ sợ bóng chạy vào nắng trốn.
Chợt vậy theo tâm viên ý mã
Khó tránh khỏi lợi buộc danh ràng.
Không quay về Tổ vức đạo tràng
Đâu tránh khỏi Diêm vương ngục tốt.
Đem bốn chữ “vô thường nhanh chóng”
Không thối chuyển, sáu giặc dẹp yên.
Nhóm lửa hồng chánh định đốt tiêu,
Chứng vào được Vô dư Niết-bàn.
Giăng lưới lớn bủa bắt phượng hoàng
Chớ buông chí theo loài chim sẻ.
Nay muốn câu cá ngạc cá kình
Đừng bận bịu ễnh ương ếch nhái.
Chấp tay trân trọng
Bè bạn anh em!
Hoặc mỗi người có thánh có linh
Nên ghé mắt nhìn xem tiến tới.
Chao!
Giảng:
“Trữ từ tự răn” là bài văn Thượng Sĩ làm ra để tự răn nhắc mình. Trữ là
tuôn chảy tất cả những gì chứa ở trong đều tuôn ra hết. Từ là lời nói hay
câu văn. “Trữ từ tự răn” là lời nói, được tuôn ra hết không chứa chấp
trong lòng, để tự răn nhắc mình.
“Ngày tháng nước chảy, giàu sang mây trôi.” Đây là hai câu mở đầu, Thượng
Sĩ tự nhắc mình cũng như nhắc mọi người: ngày, tháng là thời gian trôi qua
mau như nước chảy không dừng. Nhưng, giàu có sang trọng giống như mây nổi
trôi trên hư không, có đó rồi mất đó, hư ảo không bền chắc.
“Gió lửa tan rồi, trẻ già thành bụi.” Khi phong đại và hỏa đại nơi thân tứ
đại này không tụ hội nữa, nó tan ra thì người già cũng như người trẻ trở
thành cát bụi. Con người khi thở ra không hít vào thì tim ngừng đập, máu
ngừng chảy, thân bất động nằm trơ ra đó. Thân thể từ đầu tới chân lạnh
dần, rồi sình chướng to lên, da thịt nứt nẻ, nước vàng chảy ra, thịt da
rữa nát, gân xương lìa từng khúc, mục nát thành cát bụi. Thượng Sĩ tự nhắc
mình cũng như nhắc chúng ta nhớ cuộc đời từ thân tứ đại này cho đến sự
giàu sang phú quí, nó phù du giả tạm, không bền, không chắc, không thật.
“Hồn phách lìa, sắc thân như mộng, cuộc mưu sinh con rối kéo lôi, hằng
ngày đùa, đưa tay bắt bóng.” Hồn phách xa lìa thân xác này rồi thì thân
xác này tan rã, mấy mươi năm sống ở cõi đời giống như giấc mộng, có gì
đâu! Hiện tại tất cả chúng ta thân xác tuy chưa tan nát, nhưng gẫm lại
chúng ta sống mấy mươi năm qua thấy như giấc mộng. Và, cuộc mưu sinh, lúc
làm dân khi làm quan, nay làm nghề này mai làm nghề kia lăng xăng, rốt
cuộc rồi nhìn lại thấy như con rối múa may, không có nghĩa gì. Chính chỗ
này Ngũ tổ Pháp Diễn một hôm ra giữa chúng nói:
-
Hôm qua Sơn tăng vào thành thấy một hàng rào trong là người gỗ, liền lại
gần xem, hoặc thấy đẹp đẽ kỳ lạ, hoặc thấy xấu xa vô kể, chuyển động, đi,
ngồi, xanh, vàng, đỏ, trắng mỗi mỗi thấy rõ, khi xem kỹ vốn là miếng vải
xanh bọc lại ở trong có người. Lão tăng không thể chịu nổi, bèn đến hỏi
ông tên gì?
Người kia nói:
-
Hòa thượng già xem là xong, hỏi tên làm gì?
Người đi qua đi lại đẹp xấu đó là gì? - Là con rối, nó đi qua đi lại, thấy
khi đẹp khi xấu. Sở dĩ nó hoạt động được như thế là do người ở phía sau
giựt dây, hoặc gắn máy điện, nên nó mới múa may đi lại được. Như vậy, con
rối hoạt động múa may mà chúng ta thấy đó nó không thật. Cũng thế, cuộc
đời chúng ta khi thăng khi trầm, lúc thì phú quí, lúc thì bần cùng, lúc
được người tán thưởng, lúc bị miệt khinh... giống như con rối quay cuồng
không thật, thấy thì thấy đừng có hỏi. Đó chỉ là chuyện đùa đưa tay bắt
bóng hằng ngày mà thôi. Trong cuộc sống chúng ta đuổi theo cái này, chụp
bắt cái kia, giống như những đứa trẻ nhà quê xem phim, thấy dọn cơm thịnh
soạn chạy tới bưng ăn, nó chỉ tốn công mà không được no dạ. Để thấy chúng
ta say mê đắm đuối người cảnh chẳng khác gì người đưa tay bắt bóng, vừa
nắm là mất chẳng được gì. Thượng Sĩ tự cảnh tỉnh Ngài, mà cũng cảnh tỉnh
chúng ta nhìn cuộc đời là như vậy.
“Hạc cửu cao đầu đỏ có thừa, cá vũ môn đuôi hồng chẳng đổi.” Hạc cửu cao
được dẫn từ sách Thanh Dị Lục của Đào Cốc, trong câu chuyện Vũ Tống khi
làm Vĩnh vương, trong vườn ngự, ông nuôi nhiều chim, mỗi loài ông đặt cho
một cái tên. Vịt trắng ông đặt tên là Sách Tiên Sinh, gà ông đặt là Trường
Minh Đô Úy, rùa ông đặt là Linh Thọ Tử, hạc ông đặt tên Cửu Cao Xử Sĩ. Xử
Sĩ là nhà văn có tài. Hạc cửu cao đầu đỏ ngầm ý nói con người có khả năng
thuộc hạng tài giỏi. Cá vũ môn chỉ cho cá chày đuôi đỏ. Ở Vũ Môn bên Trung
Hoa tới mùa hoa đào nở thì cá chày đua nhau nhảy, con nào nhảy qua ba cấp
liền hóa thành rồng. Con hạc có tài, con cá chày hóa thành rồng, không đổi
thay bản chất của nó. Vẫn là hình thức đó, cá chày vượt qua được ba cấp,
nó biến thành rồng. Con hạc ở vườn ngự được đặt tên là Cửu Cao Xử Sĩ, nó
cũng chỉ là con hạc thôi.
“Chẳng quay đầu, hồi quang phản chiếu, hợp tâm yếu thức tánh thông minh.”
Tại sao chúng ta không quay đầu lại, để hồi quang phản chiếu cho hợp với
tâm yếu của mình, để thấy thức tánh được sáng suốt? “Cầu giải thoát, chánh
giác viên thành, nơi trần tục tâm thanh diệu dụng.” Khi thức tánh sáng
suốt rồi, nếu cầu giải thoát sẽ được thành tựu chánh giác một cách viên
mãn. Tóm lại, khi biết quay đầu hồi quang phản chiếu và hợp với tâm yếu
rồi thì thức tánh được sáng suốt. Lúc bấy giờ muốn được giải thoát liền
được thành tựu chánh giác viên mãn. Và, nếu chúng ta ở trong trần tục
không cầu giải thoát thì tâm vẫn thanh tịnh đầy đủ diệu dụng không thiếu.
Ở trước, Thượng Sĩ nêu lên những hình ảnh cảnh tượng buồn giả dối tạm bợ,
sau nhắc cho mọi người: nếu có ý chí quyết vượt qua cảnh trần lao sanh tử
thì sẽ được thành Phật. Và nếu không thành Phật ở thế gian, tâm cũng được
thanh tịnh có đủ diệu dụng.
“Trong mộng tạo tác, thức rồi đều không.” Trong mộng chúng ta thấy khi làm
cái này khi làm cái kia, có lúc làm quan, có lúc làm giặc... Nhưng khi
thức giấc rồi thì tất cả những cái đó không còn. “Trong mộng tạo sanh thô
sanh tế, tỉnh giấc rồi không mảy tóc kẽ tơ.” Trong mộng chúng ta tạo tác
việc thô (xấu) việc tế (tốt) tức là thấy cảnh dữ cảnh lành, khi tỉnh giấc
rồi chẳng còn mảy may nào cả. Cuộc sống của con người giống như giấc mộng.
Thế mà chúng ta đâu có thấy như giấc mộng, cứ theo đuổi nắm bắt hoài, nên
không nhận ra cái Thể chân thật ở nơi mình. Thể chân thật vốn không sanh
không diệt, giống như mặt biển lúc nào cũng phẳng lặng, hễ có gió thổi thì
sóng dậy ầm ầm, lát trồi lên lát lặn xuống. Những lượn sóng trồi lên lặn
xuống, đối với mặt biển chỉ là cái tạm bợ chợt có chợt không, không thật.
Cũng vậy, kiếp người nay còn mai mất đối với tâm thể bất sanh bất diệt,
giống như những lượn sóng chợt có chợt không đối với mặt biển phẳng lặng
vậy. Những lượn sóng có trong thời gian rất ngắn, cuộc sống của kiếp người
cũng ngắn ngủi chừng vài mươi năm hoặc năm bảy mươi năm. Nhìn lại thấy như
giấc mộng. Trong mộng cũng có cuộc sống, cũng ăn cũng nói, cũng tranh
giành danh lợi, cũng hơn cũng thua... đủ thứ. Khi tỉnh giấc thì mọi sanh
hoạt trong mộng không còn. Cũng vậy, những cái hơn thua được mất của kiếp
người, khi nhắm mắt vẫn là tay không, chỉ có cái Thể chân thật mới vĩnh
cửu không mất, còn những cái chúng ta có trong đời chỉ là tạm bợ không
chân thật, nên nói không còn mảy tóc kẽ tơ.
“Tâm thanh tịnh chẳng nhơ chẳng bợn, thân kiên cố không trước không sau.”
Tâm thể chân thật có sẵn nơi mỗi người vốn thanh tịnh không bợn không nhơ,
đó chính là Pháp thân kiên cố, không hình không tướng, nên không có trước
có sau. Nếu sống được với tâm thể thanh tịnh không nhơ không sạch, hay
Pháp thân kiên cố thì thấy mọi cái trên đời này đều tươi đẹp trong sáng.
“Sắc xuân hoa đóa đóa tươi hồng, trăng thu bóng tròn tròn viên diệu.” Mùa
xuân từng đóa hoa từng đóa hoa nở sắc hồng tươi thắm, mặt trăng mùa thu
tròn sáng thật mầu nhiệm. Người tu khi nhận ra tâm thể thanh tịnh không
chút bợn nhơ, đó là thể nhập được Pháp thân, không còn bị thời gian ngoại
cảnh chi phối. Lúc ấy nhìn thấy muôn vật trước mắt đẹp tươi sáng sủa không
còn u tối nữa.
“Buộc niệm phàm Thánh, chỉ hiềm là trái hẳn tướng chân.” Người còn buộc
niệm phân chia hai bên đây là phàm kia là thánh thì trái với tướng chân
thật, vì tướng chân thật không phàm không Thánh. Nếu còn thấy hai bên, còn
phân biệt thì tướng chân thật bị khuất lấp.
“Lòng quên tử sanh, liền liễu ngộ xưa nay tánh thật.” Trong lòng không còn
chấp, không còn thấy sanh tử hai thứ đối đãi nhau, ngay khi ấy liền liễu
ngộ được tánh chân thật của chính mình. “Còn mảy tình tam đồ báo ứng, tơ
hào niệm lục đạo tiếp nhân.” Nếu còn một mảy tình cảm dấy khởi là bị báo
ứng trong ba đường ác là địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh; chỉ một niệm nhỏ
nhiệm như sợi tơ cũng là còn cái nhân tiếp nối trong lục đạo.
Tóm lại, nếu chúng ta còn chấp còn khởi vọng niệm là còn tiếp tục đi trong
tam đồ lục đạo.
“Tùy bảy thức có chán có ưa, phá ba độc không chân không vọng.” Nếu sống
chạy theo bảy thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỹ thức, thiệt thức, thân thức, ý
thức, mạt- na thức) thì có chán có ưa, có khen có chê, có thương có ghét…
đủ thứ. Vì bảy thức này là bảy thức tạo nghiệp, chỉ có thức thứ tám là
A-lại-da thức không tạo nghiệp, song nó chứa tất cả chủng tử nhiễm tịnh.
Nếu chạy theo bảy thức là tạo tác các nghiệp sanh tử. Nếu phá được ba độc
tham, sân, si thì không còn thấy có chân có vọng nữa.
“Tướng nhân ngã khó thâu khó nhiếp, kiếp hà sa luân hồi tứ sanh.” Tướng
nhân ngã khó nhiếp phục được, vì lúc nào cũng thấy mình thật người thật,
nên thương mình, quí trọng mình, lo cho mình; ai làm vừa ý mình thì mình
yêu, ai làm trái ý mình là mình ghét... do đó mà tạo bao nhiêu thứ nghiệp.
Nếu còn thấy có mình có người thì không bao giờ ra khỏi vòng luân hồi sanh
tử, hoặc sanh ra trong loài sanh bằng thai, hoặc sanh ra trong loài sanh
bằng trứng, hoặc sanh ra trong loài ở nơi ẩm thấp, hoặc sanh ra trong loài
do biến hóa mà có thân.
“Tham sân si cùng đấu cùng tranh, số tăng- kỳ lang thang chín loại.” Nếu
còn thấy ta thấy người thì còn tham, còn sân, còn si, còn nuôi dưỡng nó
thì còn tranh giành hơn thua với người, sẽ đi trong luân hồi sanh tử...
Còn nhân ngã thì lang thang trong tứ sanh, còn tham sân si thì còn lang
thang trong chín loài lâu vô số kiếp.
“Nhận hướng theo khuôn phép vô minh, luống uổng mất sắc thân tứ đại.” Nếu
cứ thấy biết nói làm theo chiều hướng vô minh thì, luống uổng cái thân tứ
đại này sanh ra đời không làm lợi ích cho ai hết.
“Khéo chuyển đổi các căn hữu lậu, liền chứng vào chánh định chân như.” Nếu
khéo chuyển sáu căn, không để sáu căn chạy theo sáu trần, không dính với
sáu trần thì sẽ hợp với tâm thể chân như. Ở trước, Thượng Sĩ chỉ cho con
đường đưa tới tứ sanh cửu loại. Tứ sanh cửu loại là những chúng sanh sanh
bằng thai, sanh bằng trứng, sanh ở chỗ ẩm ướt, sanh bằng cách biến hóa,
chúng sanh có sắc, chúng sanh vô sắc, chúng sanh có tưởng, chúng sanh vô
tưởng, chúng sanh phi hữu tưởng phi vô phi tưởng. Sau đó Thượng Sĩ nhắc
chúng ta khéo chuyển sáu căn hữu lậu, không để cho nó dính mắc với sáu
trần mới thể nhập được chánh định chân như.
“Điên đảo nhị kiến, là đem lưới bủa cá đầu non.” Nếu còn điên đảo thấy hai
bên: có không, phải quấy, hơn thua... mà cầu chân như là đem lưới bủa trên
ngọn núi để bắt cá. Đâu hôm nào quí vị thử đem lưới lên ngọn núi Phụng
Hoàng bủa giăng để bắt cá, coi có bắt được con nào không? Muốn bắt cá mà
đem lưới giăng bủa trên núi để bắt là việc làm của người điên. Cá ở dưới
hồ dưới sông... giăng lưới ở hồ sông... mới bắt được cá, chớ đem lưới
giăng bủa trên non làm sao có cá? Không điên là gì? Người tu mong cầu giải
thoát mà chấp hai bên giống như bủa lưới trên núi để bắt cá vậy. Tôi xin
hỏi quí vị hiện có mặt ở đây, có ai không chấp hai bên không? Muốn được
giải thoát mà chấp hai bên, giống như ai? Hôm nào có một Phật tử lên đây
hỏi: “Quí thầy quí cô có còn thấy mình thấy người không? Còn thấy phải
thấy quấy không?” Quí vị gật đầu nói còn. Phật tử ấy không nói gì hết, đem
lưới lên giăng ngay trên rừng thông. Quí vị hỏi: “Đạo hữu làm gì đó?” Phật
tử ấy trả lời: “Tôi bủa lưới để bắt cá.” Chừng đó quí vị mới giựt mình
thức tỉnh. Nhiều người tu mong cầu giải thoát, mà kiến chấp hai bên không
chừa thì làm sao giải thoát được? Nếu buông hết kiến chấp hai bên, không
còn kẹt không còn dính pháp nào mới được giải thoát.
“Tịch diệt nhất như, cỡi ngược lừa tiến lên bờ giác.” Con lừa nếu cỡi
ngược thì bốn cẳng chổng lên trời. Cỡi nó chạy lên đầu núi tức là lên tới
bờ giác ngộ. Người tu không còn kiến chấp, tâm lặng lẽ nhất như sẽ có diệu
dụng như lừa cỡi ngược mà lên được đầu núi vậy. Thượng Sĩ chỉ cho thấy khi
tâm còn điên đảo thì thường làm việc vô ý nghĩa, khi tâm được tịch diệt
nhất như rồi, thì từ cái vô ý nghĩa biến thành có ý nghĩa, được công dụng
lợi ích không thể nghĩ lường giống như lừa cỡi ngược mà vẫn tiến lên bờ
giác.
“Trong lòng nếu không thiên không đảng, tai mặc nghe người mắng người
chê.” Nếu lòng không còn thiên lệch tư vị bè phái, thì tai nghe người chê
mắng, thấy cũng như không, chẳng có gì phiền muộn, lòng an nhiên tự tại.
Sở dĩ nghe chê mắng lòng buồn phiền giận tức, tại vì tâm có thiên lệch tư
vị bè phái. “Cầm lửa đốt trời luống tự nhọc, mắt được thấy là xót là
thương.” Đối với người tâm không còn thiên vị bè phái mà chưởi mắng họ,
giống như người cầm đuốc đốt trời, trời không cháy, làm như thế chỉ tự
nhọc mà vô ích. Cũng vậy, nếu lòng mình không có thiên vị phe đảng thì
trước lời chê cười mắng chưởi vẫn thản nhiên vô ngại, tâm rỗng rang như hư
không, không một chút vướng bận, giống như châm lửa đốt trời trời không
cháy vậy. Ngược lại, thấy họ mắng chửi tạo nghiệp bất thiện sẽ thọ quả báo
khổ, lại càng thương xót. Giả sử có người cầm đuốc ra đứng giữa sân đưa
cây đuốc lên hư không, nói: “Tôi đốt trời, tôi đốt trời!” Quí vị có thấy
thương họ không? Thật ngu si làm việc vô nghĩa không có kết quả tốt, chỉ
nhọc sức, thật đáng thương! Người tu, tâm không còn vướng bận trước mọi
khen chê, thấy người mê mặt mày đỏ gay tới mắng chưởi đến sôi bọt mồm, mệt
lả, lòng thương vô hạn, vì thấy họ mê mờ tạo nghiệp bất thiện thọ quả khổ.
Nhưng, bây giờ đụng tới thì quí vị nổi giận là tại vì lòng còn thiên vị bè
đảng, động tới thấy xốn xang khó chịu.
“Cầu Chân như mà đoạn vọng niệm, dường la to để át tiếng vang.” Nếu còn
thấy Chân như ngoài vọng niệm, vọng niệm ngoài Chân như, hai cái khác
nhau, nên muốn cầu Chân như dứt vọng niệm. Nhưng kỳ thật thì vọng niệm
không rời Chân như. Giống như sóng dấy lên từ mặt biển, bây giờ muốn thấy
mặt biển phẳng lặng đùa sóng qua chỗ khác. Làm như vậy có thấy được mặt
biển phẳng lặng không? Chừng nào thấy? Muốn thấy được mặt biển phẳng lặng
phải chờ cho gió dừng thì sóng lặng, sóng lặng thì mặt biển lặng yên. Khỏi
phải ra công đùa sóng làm gì cho nhọc sức. Mặt biển phẳng lặng là nước,
sóng cũng là nước, vì gió thổi nên nước dấy lên thành động, dù cho triệu
triệu lượn sóng cũng ở trên mặt biển thôi. Khi gió dừng thì sóng lặng mặt
biển yên. Cũng vậy, tôi dạy quí vị tu là thấy vọng tưởng khởi, buông,
không theo; chỉ nhìn thấy nó khởi, buông là nó lặng, không cần xua đuổi đi
đâu cả, vì vọng tưởng khởi động từ tâm thể lặng yên. Đó là chủ yếu của sự
tu hành. Chúng ta khéo tu thì công phu ít, kết quả nhiều. Ngược lại, vụng
tu thì công phu nhiều kết quả chẳng bao nhiêu. Có nhiều người nghe nói
vọng tưởng là cái nhân tạo nghiệp nên sợ, muốn xua đuổi nó đi cho hết
nghiệp được giải thoát. Nhưng làm sao đuổi? - Thấy nó, biết nó là vọng,
không theo, nó tự lặng. Không cần phải làm gì khác nữa. Quí vị nắm vững
then chốt tu hành thì dụng tâm tu không khó. Biết rõ vọng tưởng là động cơ
tạo nghiệp dẫn đi trong luân hồi sanh tử. Nhưng vọng tưởng không phải là
thứ thật, nên đừng có quan trọng quá, khiến cho việc tu hành trở thành khó
khăn. Đó là cầu Chân như mà đoạn vọng niệm và la to để át tiếng vang. La
to để át tiếng vang có được không? Tiếng vang dội lại từ tiếng la, bây giờ
la to lên để át tiếng vang, đó là việc làm vô nghĩa của người mê muội.
“Bỏ phiền não mà giữ Niết-bàn, tợ sợ bóng chạy vào nắng trốn.” Thấy phiền
não là xấu xa hèn hạ, cần phải bỏ, Niết-bàn là tốt đẹp quí báu, mong cầu
để được. Bỏ cái này để được cái kia, giống như đi ngoài nắng, thấy bóng đi
theo, muốn không có bóng theo nữa mà cứ đi mãi ngoài nắng, càng đi bóng
càng đuổi theo, không bao giờ hết. Muốn hết bóng là phải đi vào trong mát.
Chúng ta đừng quan niệm phiền não là thật, lo bỏ để đạt được Niết-bàn.
Nhưng, không bỏ phiền não thì tu cái gì? Tôi xin hỏi quí vị phiền não là
gì? Nghe người ta nói trái tai nổi giận là phiền não. Thấy sắc đẹp, thấy
tiền tài khởi lòng tham muốn là phiền não. Vậy, tu đối với những thứ này
phải làm sao? - Khi nổi nóng chỉ cần nhìn tường tận thấy rõ cơn nóng giận
không thật, không khởi thêm một niệm nào khác nữa thì cơn giận từ từ lặng
mất, ngay đó là Niết-bàn. Chớ không phải bỏ cái này cầu cái kia. Cái gì cụ
thể mới bỏ, chẳng hạn hòn sỏi đang nằm trong túi vất nó đi là bỏ. Nếu
trong túi không có sỏi không có cát thì bỏ cái gì? Tuy nhiên, cơn sân giận
dấy lên thì hùng hổ lắm, có khi la quát inh ỏi. Chợt tỉnh nhìn lại thấy rõ
bản chất nó không thật, chỉ là hơi nóng từ dưới xông lên, hà ra một hồi
thì hết. Có gì thật đâu? Tham cũng vậy, khi đối cảnh thấy cảnh đẹp khởi
lòng ưa muốn, khi cảnh mất rồi thì tham cái gì? Không có đối tượng thì
lòng tham tự mất. Tham sân nó không có chỗ nơi, gặp duyên thì khởi, hết
duyên thì dừng vì bản chất nó không thật. Chỉ cần dùng trí Bát-nhã nhìn
thẳng nó, thấy rõ nó không thật thì tự nó tan. Từ lâu chúng ta cho rằng
phiền não là thật, nên cố bỏ nó, đâu có ngờ phiền não là những ý niệm, là
những từ ngữ không thật. Chỉ cần thấy rõ nó không thật thì không bị nó chi
phối. Nếu thấy nó thật thì bị nó làm não loạn thân tâm. Tu hành mà có quan
niệm bỏ phiền não giữ Niết- bàn, chẳng khác nào trốn bóng mà chạy ra nắng
vậy.
“Chợt vậy theo tâm viên ý mã, khó tránh khỏi lợi buộc danh ràng.” Tâm viên
ý mã là vọng tưởng dấy khởi chạy chỗ này chạy chỗ kia, nhanh như khỉ như
ngựa. Người tu mà để tâm chạy rong, thấy cảnh đẹp thì ưa, thấy của quí thì
thích, nghe lời khen thì mừng, nghe lời chê thì giận. Người như thế nhất
định sẽ bị danh lợi ràng buộc không thể nào thoát được. “Không quay về Tổ
vức đạo tràng, đâu tránh khỏi Diêm vương ngục tốt.” Tổ vức đạo tràng là
nơi tu hành đạt quả vị Phật Tổ. Nếu không quay về chỗ tu hành, để tu cho
thành Phật Tổ thì không tránh khỏi Diêm Vương ngục tốt khảo tra, vì chạy
theo tâm viên ý mã tranh danh đoạt lợi tạo tội ác.
“Đem bốn chữ vô thường nhanh chóng, không thối chuyển sáu giặc dẹp yên.”
Người tu luôn luôn phải nhớ bốn chữ “Vô thường nhanh chóng” không được
quên, để nỗ lực tu, không thối chuyển, lo điều phục sáu thằng giặc ở mắt,
ở tai, ở mũi, ở lưỡi, ở thân, ở ý. Mắt thấy sắc không chạy theo sắc, tai
nghe tiếng không chạy theo tiếng, mũi ngửi mùi không chạy theo mùi, lưỡi
nếm vị không chạy theo vị, thân xúc chạm không đắm nhiễm, ý duyên pháp
trần liền biết dừng ngay. Vì lúc nào cũng thấy cuộc đời là vô thường, tham
làm gì? Sân làm gì? Ngang đó dừng, không đắm nhiễm không chạy theo sáu
trần là đã dẹp được sáu thằng giặc yên rồi.
“Nhóm lửa hồng chánh định đốt tiêu, chứng vào được Vô dư Niết-bàn.” Người
tu Thiền, khi tâm được an định thì trí tuệ phát sáng, những thứ lậu hoặc
như tham lam, sân giận, si mê... tự tan vỡ không còn nữa, nên nói nhóm lửa
chánh định đốt tiêu. Và, khi vô minh lậu hoặc đã sạch hết rồi, tâm bất
động trước mọi duyên cảnh thuận nghịch, không nhập Vô dư Niết-bàn là gì?
“Giăng lưới lớn bủa bắt phượng hoàng, chớ buông chí theo loài chim sẻ.”
Muốn bắt chim phượng hoàng là loài chim lớn, phải giăng lưới cho thật rộng
và thật cao, đừng để ý đến loài chim sẻ nhỏ đang bay luợn ở dưới. Cũng
vậy, người tu nếu vì việc giải thoát sanh tử là việc lớn là việc cao
thượng, thì việc nhỏ mọn như hơn thua, phải quấy, tốt xấu không đáng phải
lưu tâm để ý. Vậy mà có nhiều người lưu tâm để ý. Ý chí thì lớn, tu muốn
thành Tổ thành Phật, ai nói hơn một chút là không nhịn được. Như vậy,
chẳng khác nào bủa lưới thì lưới phượng hoàng mà lại rình bắt chim sẻ,
thật là khờ khạo.
“Nay muốn câu cá ngạc cá kình, đừng bận bịu ễnh ương ếch nhái.” Muốn câu
những con cá lớn là cá ngạc cá kình, thì đối với loài nhỏ như ễnh ương ếch
nhái đừng có bận tâm. Người tu, ý chí xuất gia là ý chí siêu quần bạt
chúng, chớ đâu phải thường, thế mà vô chùa nghe một vài câu nói nhẹ nhẹ mà
nhịn cũng không được, buồn, thối chí bỏ đi. Hoặc gặp cảnh không vui thì
muốn ra đời. Thật là muốn làm chuyện to bằng trời, mà chỉ vì một vài
chuyện nhỏ bằng sợi tơ sợi tóc, để hỏng cả đời tu. Bốn câu này Thượng Sĩ
cảnh tỉnh người có chí muốn làm việc lớn thì đừng có màng đến việc nhỏ. Ai
mà bám vào việc nhỏ thì không bao giờ thực hiện được việc lớn. Bốn câu này
Tăng chúng phải thuộc lòng không được quên. Từ nay về sau có việc gì xảy
ra không được thưa gởi mà phải tự xử. Nếu thưa kiện thì tôi hỏi: “Muốn
giăng lưới lớn bắt phượng hoàng hay buông chí theo loài chim sẻ?” Hoặc
hỏi: “Muốn câu cá ngạc cá kình hay bận bịu với ễnh ương ếch nhái?” Hỏi như
vậy quí vị mới xấu hổ. Đem ý chí thực hiện việc trên trời trên mây mà tay
chân thì cứ bắt trùng bắt dế, thật là trái ngược!
“Chấp tay trân trọng, bè bạn anh em! Hoặc mỗi người có thánh có linh, nên
ghé mắt nhìn xem tiến tới. Chao!” Thượng Sĩ trân trọng chấp tay chào tất
cả anh em bạn bè, nhắc rằng ai cũng có thánh có linh nơi mình, nên để mắt
nhìn xem mà tiến tới, đừng để kẹt dính mà thối lui. Chao! Nghĩa là than
ôi!
Thượng Sĩ làm bài kệ này tự răn mình, mà cũng là răn nhắc tất cả chúng ta
nên nỗ lực tiến tu. Cứ mỗi đoạn Ngài nêu lên những cái sai lầm, rồi nhắc
tới nhắc lui bảo chúng ta nên khéo tu. Cuối cùng Ngài dạy chúng ta, hễ có
chí lớn muốn vươn lên thì phải thực hiện cho kỳ được, đừng quan tâm đến
những cái nhỏ nhặt không ra gì làm hỏng mất chí lớn.
Dịch:
THỜI TIẾT AN ĐỊNH
Sanh tử do đâu chớ hỏi han
Nhân duyên thời tiết tự nhiên thành.
Mây núi nào không thế mây núi
Nước khe đâu có tiếng đổ ghềnh.
Năm tháng hoa tùy xuân nở nụ
Đêm đêm gà gáy lúc canh năm.
Ai hay nhận được gương mặt mẹ
Mới hiểu trời người thảy giả danh.
Giảng:
Mọi sanh hoạt trong cõi đời này đều do nhân duyên thời tiết quyết định,
chớ không phải bỗng dưng mà có. Chính nhân duyên khiến cho mọi sự mọi vật
đổi dời có hợp có tan.
“Sanh tử do đâu chớ hỏi han, nhân duyên thời tiết tự nhiên thành.” Người
đời thường thắc mắc tại sao có sanh tử? Nhưng đối với Thượng Sĩ thì Ngài
bảo chúng ta đừng để ý thắc mắc điều đó. Tại sao? Vì sanh tử là do nhân
duyên thời tiết mà có, không ai bảo chúng ta sanh ra đây và cũng không ai
bắt chúng ta phải chết. Sanh ra hay chết đi, chẳng qua tùy theo nhân
duyên, tùy theo thời tiết biến chuyển kết hợp mà có thành có hoại, chớ
không do bàn tay nào tạo nên hay phá đi. Đủ duyên sanh ra đó là duyên tụ
hợp, trải qua thời gian năm bảy mươi năm, duyên ly tán thì thân hoại diệt
là tử. Không có một đấng nào tạo lập, hay phá hoại mà có sanh có tử. Đó là
lý do mà Thượng Sĩ bảo chúng ta chớ thắc mắc về sanh tử.
“Mây núi nào không thế mây núi.” Hằng ngày chúng ta thấy có những vầng mây
bay ấp trên những ngọn núi. Vì sao có mây ấp núi vậy? Nước gặp sức nóng
của mặt trời, bốc hơi tụ lại thành mây, quyện lấy nhau thành từng cụm từng
cụm, bay cao bao phủ những ngọn núi, chúng ta gọi là mây phủ núi. Cái thế
của mây núi theo duyên mà có. “Nước khe đâu có tiếng đổ ghềnh.” Nước khe
chảy không to tiếng như tiếng thác đổ. Sở dĩ tiếng thác đổ nghe to hơn
nước khe chảy là vì nước từ trên cao đổ xuống thấp kêu ầm ầm. Người đời
gọi tiếng này là tiếng đổ ghềnh. Tóm lại hai câu này chỉ cho sự thế của
núi của mây, của khe, của thác. Tất cả đều tùy duyên mà có hình tướng này
hình tướng nọ, hoặc có những biến động như tiếng thác đổ hay tiếng suối
reo.
“Năm tháng hoa tùy xuân nở nụ, đêm đêm gà gáy lúc canh năm.” Mỗi năm vào
mùa xuân hoa kết nụ nở bông. Hoa kết nụ nở bông là do tới thời đúng tiết
nó mới nở. Thông thường người đời hay có quan niệm hoa nở tươi và đẹp là
để cho người ta ngắm. Nhưng sự thật có phải để cho người ngắm không? Hoa
nở là do đúng thời tiết nó tự nở. Nếu hoa nở để cho người ngắm, thì trong
rừng sâu không có người sao hoa vẫn nở? Vậy, hoa nở là tùy thời tiết chớ
không nở vì ai. Và, gà đến năm canh là nó gáy, chớ không phải nó gáy kêu
mình thức dậy. Thế mà có nhiều người cứ nghĩ gà gáy là để đánh thức mình
dậy, sợ mình ngủ quên. Con người có cái tật là lúc nào cũng qui mọi sự vật
chung quanh trở về bản ngã mình, cái gì cũng cho mình cả. Hoa nở vì mình,
gà gáy cũng vì mình, chó sủa cũng vì mình nữa. Chó có đặc tính thấy người
lạ là sủa, nên người ta nuôi chó để giữ nhà. Có những trường hợp, ban đêm
chủ nhà ngủ say, ăn trộm vô nhà lấy đồ hết, sáng ra họ giận đánh mấy con
chó, nói: “Tại sao ăn trộm vô nhà mầy không sủa?” Nếu chó biết nói sẽ hỏi
lại: “Ông là chủ nhà tại sao không thức để giữ của, ông cứ ngủ, để mất đồ
rồi đánh tôi?” Thật lạ, của mình mà mình không chịu giữ, để mất, rồi đánh
chó, không chịu đánh mình. Cái ngã của con người quá lớn, muốn mọi vật
chung quanh đều vì mình, đều bảo vệ mình, đều nuôi dưỡng mình, nên cái gì
có ra là vì mình. Con cá sanh ra đâu có nói: “Tui sanh ra để cho người ăn
thịt.” Cá sanh là cứ sanh, tại loài người có sức mạnh và khôn hơn, nên bủa
lưới giăng câu bắt nó để ăn, rồi nói cá sanh ra để cho con người ăn và cho
đó là việc làm hợp lý. Sự thật đó là việc làm của kẻ mạnh hiếp kẻ yếu,
chẳng có gì hợp lý cả. Thế nên ở đây Thượng Sĩ nói, từ núi sông mây nước
cho tới cây cối thú vật đều tùy duyên mà có thành có hoại, chớ không vì ai
hết, đừng nói vì mình.
“Ai hay nhận được gương mặt mẹ, mới hiểu trời người thảy giả danh.” Gương
mặt mẹ là chỉ cho Thể chân thật có sẵn nơi mỗi người. Người tu ai nhận
được Thể chân thật có sẵn nơi mình rồi, mới thấy cõi trời cõi người đều là
giả tạm không thật. Vì mê, từ Thể chân thật khởi tạo nghiệp đi trong sanh
tử. Ở đây Thượng Sĩ gọi là “gương mặt mẹ”, Trần Thánh Tông gọi là “cái khố
mẹ sanh”, kinh Kim Cang gọi là “mẹ ba đời của chư Phật”. Vì nó là cái có
sẵn muôn đời, coi như là cha là mẹ. Đây Thượng Sĩ nhắn gởi chúng ta: Trọng
tâm của người tu là phải làm sao nhận cho được Thể chân thật, mới thấy rõ
mọi sự vật chung quanh đều giả có, không thật.
* |