TÙY DUYÊN BẤT BIẾN
      
      
      
      TẤT NIÊN NĂM QUÍ HỢI 1984 
      
                  
      Sáng mai là ngày Tết Nguyên Đán, chúng ta bắt đầu vào ngày mùng một của 
      năm Giáp Tý, đêm nay chúng ta chờ đón Giao thừa. Đầu tiên tôi đọc và giải 
      thích cho quí vị nghe hai bài kệ của Thiền sư Thiện Chiêu ở Phần Dương 
      (đời thứ năm dòng Lâm Tế) vì hai bài kệ này có liên hệ đến năm Giáp Tý. 
      Nhưng trước khi đọc hai bài kệ, tôi muốn thuật lại vài điểm đặc sắc của 
      ngài Thiện Chiêu. 
      
                  
      Thuở ấy Ngài là một vị đặc sắc nên người đời gọi Ngài là sư tử Phần Dương 
      và cũng vì thế nên hành động của Ngài có những điểm mà thiên hạ không chấp 
      nhận nổi. Dưới hội Ngài cả thảy là năm trăm chúng, đến ngày giỗ mẹ, Ngài 
      sai đệ tử đi mua một ít thịt cá và một chai rượu về cúng giỗ. Cúng xong, 
      Ngài mời chúng: “Thôi các huynh đệ cùng tôi lên ăn.” Toàn chúng đều ngẩn 
      ngơ, họ nghe Ngài là một vị đức hạnh nổi tiếng, nay Ngài lại mời ăn thịt, 
      uống rượu nên không ai dám lên, chỉ có một mình Ngài lên ngồi ăn uống 
      đường hoàng. Sau bữa giỗ thịt rượu đó, năm trăm chúng đi gần hết, chỉ còn 
      lại có tám người, trong đó có ngài Từ Minh. Khi chúng đi hết, Ngài bảo: 
      “Ta chỉ tốn có một bữa rượu thịt mà tống hết mấy trăm người!” Sau này nối 
      pháp ngài Từ Minh có hai vị lỗi lạc, là ngài Dương Kỳ và ngài Hoàng Long 
      Huệ Nam và tông Lâm Tế chia làm hai nhánh Hoàng Long và Dương Kỳ tức là 
      Lâm Tế chánh tông và Lâm Tế gia phổ. Như vậy chúng ta thấy Ngài là một 
      nhân vật kỳ đặc, Ngài biết chúng nghe danh Ngài mà đến, chớ không hiểu 
      Ngài, nên Ngài thí nghiệm một lần thử xem, vừa thí nghiệm là chúng bỏ đi 
      hết, chỉ có Từ Minh biết ở lại và những người biết như vậy sau mới kế thừa 
      được. 
      
                  
      Triều Tống có một vị thuộc hàng Vương tước mời Ngài về kinh đô trụ trì, 
      Ngài từ chối không đi, Sứ nói rằng: “Ngài không đi thì con ở đây luôn vì 
      con về sẽ bị tội.” Ngài bảo: “Chi mà khổ vậy! Thôi về trước ta có đường đi 
      sau.” 
      
                  Sứ 
      vừa đi, Ngài họp chúng lại bảo: “Nay ta phải đi, trong chúng có ai theo ta 
      được không?” Có một vị tăng đứng ra thưa: “Con theo Hòa thượng được.”
       
      
                  
      Ngài hỏi: Con đi một ngày mấy dặm? 
      
                  
      Thưa: Con đi một ngày năm mươi dặm. 
      
                  
      Ngài nói: Chưa theo ta được. 
      
                  
      Người thứ hai đứng ra thưa: Con xin theo Hòa thượng. 
      
                  
      Hỏi: Ngươi đi ngày mấy dặm? 
      
                  
      Thưa: Con đi ngày bảy mươi dặm. 
      
                  
      Ngài bảo: Ngươi cũng chưa đủ sức theo ta. 
      
                  
      Cuối cùng thị giả đứng ra thưa: Con xin theo Hòa thượng. 
      
                  
      Hỏi: Ngươi đi ngày được mấy dặm? 
      
                  
      Thị giả thưa: Hòa thượng đến đâu con đến đó. 
      
                  
      Ngài ngồi kiết già trước chúng nói: “Ta đi đây nghe”, rồi Ngài tịch, thị 
      giả đứng khoanh tay tịch theo. 
      
                  
      Đấy là tôi nói vài chuyện đặc biệt của ngài Phần Dương. Hôm nay tôi đọc 
      lại hai bài kệ của Ngài làm trong ngày Tết Nguyên Đán năm Giáp Tý. 
      
                  
      Bài thứ nhất 
      
      
                              Như kim châu Giáp Tý, 
      
      
                              Thục khả tri sanh tử, 
      
      
                              Tứ đại mộng trung âu, 
      
      
                              Nhất thân diệp thượng thủy, 
      
      
                              Phù vân bất cửu đình, 
      
      
                              Cam giá khởi trường mỹ, 
      
      
                              Duy hữu nhất linh quang, 
      
      
                              Khoáng kiếp hà tằng trụy. 
      
                  
      Bài thứ hai 
      
      
                              Như kim lục thập nhất, 
      
      
                              Bạch phát tương thôi xuất, 
      
      
                              Huyễn chất tỉ phù vân, 
      
      
                              Không tâm đồng Tổ Phật, 
      
      
                              Xuân lai bất tiện hoa, 
      
      
                              Thu khứ khởi hiềm vật, 
      
      
                              Cánh dữ tam thập niên, 
      
      
                              Miết nhiên như điện phất. 
      
                  
      Tôi giải thích từng câu, từng đoạn cho quí vị thấy. Như kim châu Giáp Tý 
      là tôi nay giáp một vòng Giáp Tý. Giáp một vòng Giáp Tý là bao nhiêu năm? 
      Sáu mươi năm. Thục khả tri sanh tử: Ai có thể biết được sanh tử. 
      
                  Tứ 
      đại mộng trung âu: Thân tứ đại này chẳng khác bọt nước trong giấc mơ. Mơ 
      đã là dối rồi, bọt nước trong giấc mơ còn dối tới bực nào! Quí vị nghĩ như 
      chúng ta đang thức, thấy bọt nước, chạm tới nó vỡ ngay phải không? Thế mà 
      Ngài nói thân tứ đại này như là bọt nước trong giấc mơ thì nó như thế nào? 
      Vậy mà chúng ta chấp nó, xem nó như là tối thượng! 
      
                  
      Nhất thân diệp thượng thủy: Một thân này như chiếc lá trôi trên dòng nước. 
      Quí vị đi qua những dòng sông, hoặc suối nước chảy, có chiếc lá vàng theo 
      gió đưa rơi trên mặt nước, chiếc lá trên mặt nước như thế nào? Nó trôi 
      gịat tấp vào nơi này, nơi kia rồi rã ngoài cồn, ngoài bãi, không có nghĩa 
      lý gì cả. Thân này như chiếc lá trôi trên mặt nước chẳng ra gì. 
      
                  
      Phù vân bất cửu đình: Thân này chẳng khác nào đám mây nổi, không có dừng 
      lâu, nó chỉ tạm bợ lúc hợp, lúc tan. 
      
                  
      Cam giá khởi trường mỹ: Cam giá nghĩa là mía nhưng cũng có nghĩa là đường. 
      Đường đâu có ngon hay ngọt mãi, tỉ dụ như quí vị ngậm một viên kẹo hay 
      nhai một miếng mứt, nó ngọt trong vòng năm ba phút thôi, nó không còn mãi. 
      
                  
      Duy hữu nhất linh quang, khoáng kiếp hà tằng trụy: Linh là linh tri, quang 
      là sáng suốt, khoáng kiếp là muôn kiếp. Chỉ có một linh tri sáng suốt 
      nhiều kiếp đâu từng bị rơi mất. 
      
                  
      Nhìn qua bài kệ, quí vị thấy gì? Đầu tiên Ngài tả thân của Ngài hiện được 
      giáp vòng Giáp Tý tức là được sáu mươi hay sáu mươi mốt tuổi, như vậy mà 
      ai biết được rõ ràng lẽ sanh tử. Thân tứ đại này thật như hòn bọt trong 
      giấc mơ, như chiếc lá trôi giữa dòng sông không có nghĩa lý gì, như một 
      đám mây nổi trong hư không, như một miếng đường nhai nuốt rồi mất chớ 
      không có gì bền lâu. Để thấy cuộc sanh tử là vô thường, là tạm bợ như mây 
      nổi, như bọt nước, như chiếc lá rơi trên dòng sông không có gì lâu bền, 
      không có gì quí báu, nhưng chúng ta lại thấy nó quí, thấy nó bền nên sân 
      si chấp ngã đủ thứ ... Vậy cái quí báu lâu bền là cái gì? Đây Ngài dạy: 
      Chỉ có một linh tri sáng suốt, tức là cái biết rất thanh tịnh sáng suốt, 
      muôn kiếp chưa bao giờ bị mất, bị tan hoại. Như vậy trong hai cái chúng ta 
      chọn cái nào? Một cái như hòn bọt trong giấc mơ hay như chiếc lá rơi trên 
      mặt nước và một cái sáng suốt muôn đời, muôn kiếp chưa từng hoại, chưa 
      từng mất, chúng ta chọn cái nào? Nếu ôm giữ một hòn bọt trong giấc mơ thì 
      thật là khôn hay thật là không khôn? Thế chúng ta cần thấy rõ việc sanh tử 
      như Ngài dạy. Việc sanh tử tạm bợ như hòn bọt trong giấc mơ, như chiếc lá 
      rơi trên mặt nước, như đám mây trên bầu trời, như một miếng ngon nuốt qua 
      rồi mất không có bền, không có lâu; cái không bền lâu mà bám vào đó để sân 
      si, để tạo nghiệp, thật không biết phải nói sao? Trong khi ấy chúng ta lại 
      có một cái linh tri hằng sáng suốt muôn đời không bao giờ hao mất, tại sao 
      không sống với cái đó mà lại bám vào cái kia? Xét kỹ nếu khôn chúng ta sẽ 
      chọn cái nào? Thế nên giữ gìn thân tứ đại cho là quí báu, Phật gọi đó là 
      vô minh. Biết rõ thân tứ đại như bọt nước, như chiếc lá rơi v.v... đó là 
      tỉnh, là giác và sống được với cái không bao giờ bị suy hao, không bao giờ 
      bị tan rã, đó mới là người được thoát khỏi sanh tử. Vậy mục đích chúng ta 
      tu là để làm gì? Có người nào nói: Tôi vào chùa tu để có cơm ăn, áo mặc, 
      ấm no khỏi cực, có như thế không? Chúng ta tu là cốt để giác ngộ, để thoát 
      ly sanh tử. Nhưng giác ngộ điều gì? Tức là phải thấy rõ thân này như hòn 
      bọt, như chiếc lá rơi, như áng mây nổi không bền, không trường cửu và phải 
      thấy rõ nơi mình có một cái trường cửu bất sanh bất diệt, sống với cái đó, 
      đừng chấp lấy cái kia. Trái lại nếu quên cái đó mà chấp lấy thân bọt nước 
      này đó thật là chưa thoát khỏi vô minh! Tóm lại bài kệ này chúng ta thấy 
      rõ Ngài dạy chúng ta phải tỉnh giác biết cái nào tạm bợ, cái nào lâu dài 
      để chọn lấy mà sống. Biết chọn như thế, sống như thế là chúng ta tu. Việc 
      tu không có gì lạ, nó rất đơn giản. Xưa nay chúng ta cứ nghĩ tu là tụng 
      kinh nhiều, bái sám lắm, niệm Phật phải đủ mấy trăm chuỗi v.v... nhưng sự 
      thật tu là có trí tuệ thấy rõ cái giả đừng lầm, biết cái thật để sống, đó 
      là tu. Cái thật không hoại, không hoại tức là không sanh tử; trái lại cái 
      giả thì nát, giờ này nát rồi tụ lại giờ sau, giờ kia nát tụ lại giờ khác, 
      cứ như thế mà tụ tán ... bám vào cái tụ tán đó thì luân hồi muôn kiếp 
      không cùng. Thế nên bài kệ này là một lời nhắc nhở quí giá của Ngài vào 
      đầu năm. 
      
                  
      Đến bài thứ hai, “Như kim lục thập nhất” là nay tôi sáu mươi mốt, sáu mươi 
      mốt là tính theo âm lịch. “Bạch phát tương thôi xuất” là tóc bạc đẩy nhau 
      trồi ra. Chúng ta thấy Ngài dùng chữ cũng hay, chữ thôi là đẩy, xuất là 
      trồi ra. Ngày hôm qua chúng ta cạo tóc sạch rồi, hôm nay chúng đẩy nhau 
      trồi ra nữa, cũng bạc trắng! 
      
                  
      “Huyễn chất tỷ phù vân, không tâm đồng Tổ Phật”, thân huyễn chất này giống 
      như mây nổi, không có gì thật cả, nếu được không tâm thì đồng với Tổ Phật. 
      Ngài luôn luôn nêu cho chúng ta thấy cái giả rồi đưa đến cái thật. Nếu 
      chúng ta bám vào thân huyễn chất thì thân huyễn chất như mây nổi không có 
      gì là lâu bền. Không tâm tức là không tất cả những tâm thị phi, thiện ác, 
      hay dở, tốt xấu v.v..., được như thế thì đồng với Tổ Phật. 
      
                  
      “Xuân lai bất tiện hoa, thu khứ khởi hiềm vật”. Nếu được không tâm rồi thì 
      mùa xuân đến chúng ta không chê hoa này đẹp, hoa kia xấu, mùa thu về cũng 
      không khởi niệm trách cây này lá vàng, cây kia khô héo... 
      
                  
      “Cánh dữ tam thập niên, miết nhiên như điện phất”, lại so sánh với năm ba 
      mươi tuổi, nhớ lại bỗng dưng như điện chớp. Sáu mươi mốt tuổi nhớ lại thuở 
      ba mươi tuổi như là điện chớp, không có gì lâu dài. Quí vị thấy Ngài nhắc 
      cho chúng ta thấy hiện tượng già của Ngài, khi Ngài sáu mươi mốt tuổi, bao 
      nhiêu tóc bạc ở trong đẩy ra từ từ. Tóc bạc đã trồi ra tức nhiên biết thân 
      này không bền nên nói thân chất huyễn như mây nổi. Nay phải làm sao? Phải 
      không tâm mới đồng với Phật Tổ. Không tâm là bao nhiêu vọng tưởng đều 
      buông sạch, khi ấy chúng ta đồng với Phật Tổ, chớ không có gì khác. Nếu 
      không tâm rồi thì không còn thích vật này, ghét vật kia nữa, nếu còn ưa 
      ghét thì chưa phải là không tâm. Chợt nhớ lại thuở nào ba mươi tuổi và 
      hiện nay sáu mươi môát tuổi, thật ra như một luồng điện chớp. Quí vị thử 
      ôn lại xem, nếu người năm mươi tuổi thì nhớ lại thuở hai mươi lăm tuổi đến 
      nay, lâu hay là mau? Trên quãng đường sống thì thấy dài, nhưng qua rồi nhớ 
      lại thì rất ngắn, thế nên biết nó không lâu bền. Tôi tạm dịch hai bài 
      tụng: 
      
                  
      Bài thứ nhất: Sáng Tết 
      
      
                              Nay tôi vòng Giáp Tý, 
      
      
                              Ai biết được sanh tử, 
      
      
                              Bốn đại bọt trong mơ, 
      
      
                              Một thân lá trên nước, 
      
      
                              Mây nổi chẳng dừng lâu, 
      
      
                              Cây mía nào ngọt mãi, 
      
      
                              Chỉ có một linh quang, 
      
      
                              Nhiều kiếp đâu từng mất. 
      
                  
      Bài thứ hai: 
      
      
                              Nay tôi sáu mươi mốt, 
      
      
                              Tóc bạc đuổi nhau điểm, 
      
      
                              Chất huyễn dường mây trôi, 
      
      
                              Tâm không đồng Tổ Phật, 
      
      
                              Xuân đến chẳng chê hoa, 
      
      
                              Thu về nào ghét vật, 
      
      
                              Lại cùng năm ba mươi, 
      
      
                              Bỗng nhiên như điện chớp. 
      
                  
      Tóm lại hai bài kệ của ngài Phần Dương nhắc cho chúng ta ý nghĩa của năm 
      Giáp Tý và cho chúng ta thấy rõ mục đích của người học đạo là thoát khỏi 
      sanh tử luân hồi. Mỗi khi năm cũ qua, năm mới đến thiên hạ vui mừng chào 
      xuân, còn chúng ta vui mừng chào cái gì? Chào cái sắp chết phải không? Mỗi 
      một năm đến là cái chết đến gần, cái chết đến gần thì vui mừng chào ta sắp 
      chết! Vậy thì vui mừng chào sắp chết chúng ta phải làm gì cho có ý nghĩa 
      thâm trầm hơn? Nếu chúng ta biết rõ thời gian trôi mau, năm cũ qua năm mới 
      đến cứ thế mà chồng chất đến một ngày chúng ta phải ra đi, thân tứ đại 
      phải tan nát thì đối với người tu chân chánh không phải là mừng xuân mà 
      phải mừng điều gì? Nếu là người thấy đạo thì mừng mình được thấy đạo, nếu 
      người chưa thấy đạo thì tủi rằng một năm trôi qua suông mà cái chết gần 
      kề. Người xưa một ngày qua chưa thấy đạo còn khóc thay, huống nữa là chúng 
      ta một năm qua chưa thấy đạo lại mừng cái gì? Thế nên nhìn trên phương 
      diện đạo lý, một năm qua nhưng công phu tu hành của mình chưa ra gì thì 
      thật là một điều đáng hổ thẹn buồn tủi. Song không lẽ vì thế vào cuối năm 
      chúng ta lại khóc phải không? Chúng ta cũng gượng vui, vui với một niềm 
      hứa hẹn: Thôi năm qua đã lỡ, có hối cũng không làm gì được, hãy chuẩn bị 
      cho năm tới, phải hứa hẹn rằng trong năm tới mọi việc sẽ đẹp hơn, sáng sủa 
      hơn. Chúng ta đặt mục đích: Thứ nhất là chúng ta sẽ tiến hơn năm cũ về đạo 
      đức, thứ hai là chúng ta phải nỗ lực hơn năm cũ, thứ ba là có thể chúng ta 
      sẽ sáng được đạo. Đó là nguồn vui, là hy vọng của năm mới; đừng nghĩ rằng 
      năm tới cũng như năm nay vì như thế thì thật là đáng buồn. Nếu cứ nghĩ năm 
      tới cũng như năm nay và năm tới nữa cũng như thế thì cuộc đời là một con 
      số không, thật là uổng một kiếp! Thế nên chúng tôi thấy quí vị cũng như 
      chúng tôi, lý đáng chúng ta phải buồn vì chúng ta đã mất một năm rồi mà 
      công phu chưa đến đâu, song chúng ta hy vọng để tự an ủi, hy vọng năm tới 
      chúng ta sẽ tiến bộ hơn, nỗ lực hơn và thành công hơn trên đường tu. Đó là 
      ý nghĩa thâm trầm của cuộc tiễn năm cũ và chào đón năm mới. Nếu không như 
      thế thì tiễn năm cũ trở thành vô nghĩa, chào đón năm mới cũng không lợi 
      ích gì. Đấy là tôi nhắc để quí vị cùng chúng tôi đồng tu đồng tiến. 
      
      * 
      
                  
      Đến phần thứ hai là phần tôi đã từng nói chuyện với một số ít Tăng Ni và 
      cư sĩ trong những ngày trước, hôm nay tôi nói rộng cho tất cả nghe để 
      chúng ta có một lối đi, hay một con đường tu hành, khiến năm tới chúng ta 
      được nhiều an vui. Đề mục chúng tôi sẽ nói với quí vị là y cứ vào hai câu 
      thơ của ngài Lâm Tế: 
      
      
                              “Tùy duyên tiêu cựu nghiệp, 
      
      
                              Nhậm vận trước y xiêm.” 
      
                  
      Khi Ngài thấy đạo rồi, trên đường tu Ngài không tu lăng xăng như chúng ta, 
      Ngài chỉ nói rằng: “Tùy duyên tiêu cựu nghiệp”, tức là tùy duyên để những 
      nghiệp cũ hết; “Nhậm vận trước y xiêm”, tôi tạm dịch là hồn nhiên mặc áo 
      xiêm, nghĩa là trong khi ăn cơm, mặc áo tâm vẫn rỗng rang hồn nhiên, không 
      có một niệm lự lăng xăng. Như vậy suốt đời Ngài chỉ tu chừng ấy. Tôi nhắc 
      thêm: Một hôm Vương Thường Thị tức như quận trưởng ở địa phương Ngài, cũng 
      là một Phật tử thấm nhuần giáo lý của Ngài, đến thăm Thiền viện. Thấy Tăng 
      chúng đông quá, Vương Thường Thị mới hỏi: “Bạch Hòa thượng, Tăng chúng 
      đông như vậy có tọa thiền không?” 
      
                  
      Ngài đáp: Không. 
      
                  
      Hỏi: Có xem kinh không? 
      
                  
      Đáp: Không. 
      
                  
      Vương Thường Thị hỏi: Không xem kinh, không tọa thiền, vậy làm gì? 
      
                  
      Ngài đáp: Làm Phật, làm Tổ! 
      
                  
      Như thế quí vị mới thấy chủ yếu của Ngài là “tùy duyên tiêu cựu nghiệp, 
      hồn nhiên mặc áo xiêm” tức là sống tùy duyên và hồn nhiên. Hai điểm đó là 
      then chốt. Tại sao tùy duyên? Tại sao hồn nhiên? Giáo lý đại thừa luôn 
      nhắc nhở chúng ta “tùy duyên mà bất biến”. Lý tùy duyên bất biến nằm trong 
      hai câu của Tổ Lâm Tế. “Tùy duyên” thì Ngài nói thêm “tùy duyên tiêu cựu 
      nghiệp”. “Bất biến” thì Ngài nói là “nhậm vận trước y xiêm”. Nay tôi nói 
      trước về lý tùy duyên. Đó là một thuật sống và cũng là lẽ thật của con 
      người và vũ trụ. Trong cuộc sống tất cả chúng ta nhìn đời, nhìn sự vật với 
      đôi mắt tùy duyên hay chấp nê? Tỉ dụ có một tách nước lã để trên bàn, tôi 
      đặt câu hỏi tách nước này sẽ thế nào thì quí vị đáp làm sao? Nếu có người 
      nói tách nước này sẽ thành hơi hay có người nói tách nước này sẽ thành 
      thuốc v.v... thì những câu nói đó đúng chưa? Vậy câu nói khôn ngoan nhất 
      phải như thế nào? - Tách nước này tùy duyên. Tùy duyên là nếu tách nước 
      này để trong thau, nồi nấu thì nó bốc thành hơi, nếu để trong tủ lạnh thì 
      nó thành khối, nếu vắt một miếng chanh, để chút đường vào thì nó thành 
      nước chanh, hoặc hòa tan vào đó một ít thuốc thì nó thành thuốc v.v... Như 
      vậy cùng một tách nước tùy duyên sử dụng, không cố định. Nếu chúng ta nói 
      trước nó thành cái gì cũng đều sai cả, phải không? “Tùy duyên” là một lẽ 
      thật, còn nói cố định là cái gì, đều sai. Cuộc sống của chúng ta liên hệ 
      đến lẽ “tùy duyên” đó phải không? Vì tùy duyên nên tất cả sự vật chuyển 
      biến theo duyên, nghĩa là duyên tụ tán hoặc nóng lạnh v.v... sự vật cũng 
      chuyển biến theo duyên chớ không dừng trụ một chỗ nào. Từ cổ chí kim  
      không một sự vật nào an ở mãi một chỗ mà luôn luôn chuyển theo duyên, vì 
      chuyển theo duyên nên sự vật là một dòng linh động chuyển biến, thế mà 
      chúng ta nhìn sự vật bằng đôi mắt chấp nê thì đúng hay sai? Thế nên muốn 
      nhìn đúng lẽ thật thì phải thấy tất cả sự vật là một dòng biến chuyển tùy 
      duyên; trong dòng biến chuyển tùy duyên đó, chúng ta phải sống cách nào 
      cho phù hợp, đó là điều cần phải biết. Đã nói tùy duyên thì sự vật là tùy 
      duyên, tất cả pháp là tùy duyên, đó là một lẽ thật; nếu nhìn với con mắt 
      khoa học thì thấy lý tùy duyên hợp với khoa học, vì sự vật là một dòng 
      biến chuyển đổi thay. Tuy nhiên với nhà Phật trong tùy duyên có bất biến, 
      chính bất biến mới quan trọng. Tôi dùng ví dụ nước để quí vị thấy đâu là 
      tùy duyên, đâu là bất biến. Như từ nước lã có thể biến thành hơi, thành 
      khối v.v..., đó là lý tùy duyên. Nhưng dù biến thành hơi, thành khối, 
      thành chi đi nữa, nước cũng vẫn là nước. Nước đá cũng ướt, hơi nước cũng 
      ướt, nước gì cũng ướt ... thành ra hình dáng đổi thay nhưng tánh ướt không 
      đổi, đó là “bất biến”. Tánh ướt không đổi nhưng trên hình tướng, tùy theo 
      cách sử dụng mà hình tướng nước có đổi thay, đó là tùy duyên. Tùy duyên mà 
      bất biến. Tất cả sự vật đều luôn luôn về hình tướng là tùy duyên, về bản 
      tánh là bất biến. Hiểu như thế chúng ta mới thấy lý tùy duyên của đạo 
      Phật, nghĩa là không phải tùy duyên rồi như ngọn cỏ, gió thổi phía nào ngả 
      phía ấy, không có chủ đích, hay như những cánh bèo trôi sông, gió thổi tấp 
      bên này, tấp bên kia... Tùy duyên của đạo Phật khác hơn, vì có cái bất 
      biến ở trong. Tùy duyên giống như cây tre, gió thổi nó ngả nghiêng, gió 
      dừng nó đứng lại như cũ, chớ không ngả nghiêng mãi. Cũng như thế, người 
      biết tu trong lý tùy duyên phải ứng dụng cả bất biến, chớ chỉ nói tùy 
      duyên là thiếu sót. Phần bất biến tôi sẽ giải thích sau, nay nói “tùy 
      duyên” để quí vị thấy trong cuộc sống nếu ứng dụng lý tùy duyên thì chúng 
      ta có gì định trước! Chúng ta có nói sang năm tôi sẽ thế này, tôi sẽ thế 
      kia v.v... không? Nếu định trước thì không tùy duyên rồi, tùy duyên thì 
      không định trước. Như thế cuộc sống của chúng ta ra sao? Chúng ta không cố 
      chấp cuộc sống của chúng ta phải thế này, phải thế kia, tuy nhiên bước 
      tiến của chúng ta phải có một lối, chớ không phải không ngơ. Đứng về mặt 
      tùy duyên chúng ta nhìn sự vật, nhìn cuộc sống tùy duyên linh động, nay 
      thế này, mai thế kia, theo duyên để thấy sự vật không bị chấp chặt vào một 
      nơi, một việc. Quí vị thấy chúng ta có nhiều bệnh, bệnh chấp theo phong 
      tục tập quán, bệnh chấp những ý kiến riêng tư, bệnh chấp của mình, của 
      người  v.v... đủ thứ chấp phải không? Vì bệnh chấp mà chúng ta khổ mãi. Về 
      tập quán, ông bà chúng ta làm thế nào, chúng ta quen sống như thế ấy, nay 
      ai làm khác đi, chúng ta không chấp nhận, nhưng sự vật luôn chuyển biến, 
      mỗi thời mỗi khác, do đó chúng ta khổ. Tôi dẫn vài việc cho quí vị thấy. 
      Ví dụ như sự trang sức, quí vị nhìn xem người thế gian giữ mãi một kiểu 
      hay luôn luôn đổi kiểu? Năm trước kiểu này, năm sau đổi kiểu khác, luôn 
      luôn thay đổi, người thợ phải học những kiểu mới lạ, mới theo kịp thời 
      đại. Chữ thời trang là chỉ cho mỗi thời có mỗi trang sức khác nhau. Trang 
      sức thời ông bà chúng ta khác, trang sức thời cha mẹ chúng ta khác, trang 
      sức của chúng ta hiện nay cũng khác, đến trang sức của con cháu chúng ta 
      sau này lại sẽ khác nữa, phải không? Nếu chúng ta giữ theo nếp cũ, ông bà 
      chúng ta làm thế nào, chúng ta làm thế ấy thì cuộc sống sẽ ra sao? Chúng 
      ta làm thế nào thì bắt con cháu làm thế ấy, cuộc sống của chúng nó sẽ ra 
      sao? Nếu chúng ta sống như ông bà của chúng ta, thì người đồng thời chúng 
      ta sẽ cho chúng ta là lạc hậu. Nếu chúng ta lại bắt con cháu mình sống như 
      mình thì chúng nó sẽ bị bạn bè chê lạc hậu! Như vậy chúng ta phải nhìn 
      theo đúng thời trang, tức là chúng ta tùy duyên. Thời chúng ta như thế 
      nào, chúng ta phải sống như thế ấy, thời con cháu chúng ta đổi khác thì nó 
      phải sống khác, tại sao mình bắt nó sống như mình? Nếu ông bà chúng ta bắt 
      chúng ta sống như ông bà, chúng ta chấp nhận không? Vậy tại sao chúng ta 
      lại bắt con cháu mình sống như mình? Như vậy quí vị thấy lý tùy duyên là 
      để cho chúng ta cởi mở những cố chấp về phong tục, về tập quán, về những 
      tư kiến v.v... Không còn những cố chấp đó nữa, chúng ta còn khổ hay không? 
      Sở dĩ chúng ta buồn con không giống mình, vì mình làm thế này mà nó làm 
      thế khác, đến con mình sẽ buồn, vì con nó không giống nó. Cái buồn của 
      chúng ta là tại chúng ta cố chấp, muốn những gì mình đang làm người khác 
      cũng làm theo mình, khi người ta không giống mình thì buồn giận. 
      
                  
      Tóm lại sự đau khổ do cố chấp mà ra. Nếu cố chấp là không hiểu lý tùy 
      duyên, nếu biết tùy duyên thì không cố chấp, không cố chấp thì còn gì phải 
      khổ? Như thế lý tùy duyên giúp chúng ta có một cuộc sống vui tươi, thích 
      ứng với mọi hoàn cảnh. Trái lại nếu chúng ta cố chấp, điều gì cũng giữ 
      nguyên tình trạng cũ là chúng ta đau khổ mãi không bao giờ dứt. Nếu không 
      hết khổ, chúng ta tu không tiến gì cả; tu trong phiền não, buồn giận làm 
      sao tiến? Lý tùy duyên là tinh thần Bát-nhã cho chúng ta thấy rằng sự vật 
      luôn luôn là một dòng chuyển biến, đừng bám chặt vào một cái gì, bám chặt 
      là khổ đau vì đó là trái sự thật. Thí dụ như chúng ta ngồi trên chiếc xe 
      đang chạy, xe chạy ngang cây số bảy mươi, chúng ta nói đây là cây số bảy 
      mươi, khi ấy người khác nhìn theo tay mình thì thấy xe đã qua khỏi mấy 
      trăm thước rồi. Nếu chúng ta cho mình chỉ đúng cây số bảy mươi là sai, vì 
      xe đang chạy nên chúng ta không thể chỉ đúng chỗ. Nó không dừng thì chúng 
      ta phải nhìn theo sự không dừng. Thế nên cuộc sống tùy duyên là cuộc sống 
      nhìn đến trước, chớ không nhìn lại phía sau. Nhìn đến trước để hoàn cảnh 
      thế nào chúng ta tùy theo đó mà sống, còn nhìn lui lại chúng ta sẽ thở dài 
      hối tiếc vì thấy cái này mất, cái kia mất... Như xe đang chạy ngang thành 
      phố, người người xe cộ đông đảo vui vẻ, xe chạy đến ngọn đồi, ngọn đồi cao 
      đẹp, xe xuống dốc v.v... lúc nào chúng ta cũng có những niềm vui mới, đó 
      là nguồn vui của mình phải không? Nhìn lui lại là những việc buồn, ví dụ 
      như nhìn trở lại ngày xưa, ông nội, bà nội mình đã mất, rồi nhớ buồn. Ba 
      má mình cũng đã mất rồi buồn, anh em mình cũng rất buồn... nhìn lui là 
      buồn, là khổ. Như vậy lý tùy duyên đem lại một nguồn vui và một cuộc sống 
      linh động, vì chúng ta phải chuẩn bị cho việc sắp tới luôn luôn, chúng ta 
      không có gì phải luyến tiếc. Biết sự vật là như vậy, nó đâu có dừng một 
      chỗ mà luyến tiếc. Hiểu được điều đó thì cuộc sống của chúng ta là linh 
      động, là vui tươi trong bất cứ hoàn cảnh nào, vẻ đẹp của thành phố khác vẻ 
      đẹp của đồng quê, xe ra khỏi thành phố đến đồng quê, chúng ta ngắm đồng 
      quê, đến đồi núi, lúc nào chúng ta cũng thấy đẹp cả. Như vậy cuộc sống của 
      chúng ta là linh động, là vui tươi chớ không có sầu não, bi quan. Trái lại 
      người nhìn lui là người bi quan, sầu não. Ở một chỗ, nhìn một cảnh mãi 
      cũng chán tức nhiên buồn, vì thế phải có sự đổi thay. Mỗi lần đổi không 
      khí là mỗi lần vui, dù chỗ mới không được vui đi nữa, phải không? Quí vị 
      thấy người ở thành phố thích ra đồng quê chơi, vậy là ở thành phố chán nên 
      thích trở về đồng quê; người ở đồng quê lại thích trở về thành phố. Thế 
      nên đổi thay là một nguồn vui chớ không phải buồn. Giả sử không công việc 
      đi nữa, lâu lâu quí vị cũng xách túi đi nơi này, nơi kia, tôi cứ rầy mãi, 
      tôi nói đi mất thì giờ tu học, nhưng quí vị đâu có bằng lòng ở một chỗ. 
      
                  
      Tôi nhắc lại, chúng ta phải cởi mở hết những cố chấp, những ràng buộc với 
      những gì cổ hủ, vì những cái cũ là lỗi thời. Những gì mới đều tươi đẹp dù 
      chúng không giống những cái tươi đẹp xưa, nhưng mới cũng là tươi hơn cũ. 
      Hiểu được lẽ đó rồi, chúng ta chuẩn bị những niềm vui mới. Chúng ta cứ nhớ 
      rõ cuộc sống là tùy duyên, đã là tùy duyên thì cái gì đến đều là mới, là 
      đẹp, là tươi. Đó là chuẩn bị nhìn những cái mới với niềm vui tươi, chớ 
      không có gì là buồn khổ. Đừng nhìn lại quá khứ, vì chúng ta luôn luôn đổi 
      mới từ con người trẻ đến người già, luôn luôn mới, ngày hôm qua đến ngày 
      hôm nay cũng mới, chúng ta giữ cái cũ làm sao được. Tất cả đều mới thì 
      cuộc sống phải mới. Vậy tất cả chúng ta phải hiểu được lý tùy duyên để 
      cuộc sống của chúng ta lúc nào cũng vui tươi. Thế nên đạo lý đem lại nguồn 
      vui là ở điểm đó. 
      
                  
      Tuy nhiên có người nói rằng: nếu tùy duyên như thế mãi thì mất mình làm 
      sao, nên trong đoạn này tôi nói đến “bất biến”. Như tôi vừa nói: tuy nước 
      đổi ra thiên hình vạn trạng, nhưng tánh ướt của nước không mất; cũng thế 
      chúng ta tùy duyên khi ở trên núi, khi xuống đồng bằng, khi vào thành phố 
      v.v..., cảnh đổi thay nhưng việc tu hành thì ở núi cũng tu, xuống đồng 
      bằng cũng tu, vào thành thị cũng tu... lúc nào cũng vẫn tu. Như vậy tu là 
      bất biến, nhưng chỗ ở là tùy duyên. Đó là tùy duyên nhưng bất biến. Vậy dù 
      ở cảnh nào cũng an vui để tu hành. Biết lý tùy duyên quí vị mới an vui, có 
      an vui thì việc tu mới tiến. Trái lại quí vị không biết lý tùy duyên, khi 
      ở nơi này thì nhớ chỗ kia, đến chỗ kia lại mong nơi khác, làm sao an vui? 
      Không an vui thì phiền não, phiền não thì tu sao được? Thế nên phải hiểu 
      được lý tùy duyên, tùy duyên nhưng bất biến, nghĩa là trường hợp nào, hoàn 
      cảnh nào cũng là trường hợp, hoàn cảnh để tu, chớ không vì lẽ ở nơi này 
      mới tu được, ở nơi khác không tu được, đó là sai, là không hiểu nghĩa bất 
      biến. Tùy duyên nhưng bất biến thì chúng ta thấy cuộc sống hiện tại lợi 
      ích vô cùng. Vì tùy duyên nên chúng ta linh động chúng ta không chết khô, 
      không cằn cỗi. Khô khan, cằn cỗi là bám vào một cái sắp chết. Nếu quí vị 
      biết lý tùy duyên thì vui mãi, dù thế nào cũng vui cười, có vui tươi thì 
      tu mới được. Như vậy quí vị thấy chính lý tùy duyên mới giữ được sự bất 
      biến, nếu không biết tùy duyên thì không tiến, không tiến thì tu đâu có 
      được. Thế nên người học đạo biết tu lúc nào cũng thấy rõ lý tùy duyên, 
      nhưng bất biến để sử dụng trong cuộc sống của mình. Biết lý tùy duyên là 
      tinh thần Bát-nhã còn giữ được bất biến là đạo lý mình sống hằng ngày. Như 
      trong đoạn trước tôi nói: “không tâm đồng Tổ Phật” thì hoàn cảnh nào mình 
      cũng vẫn “hồn nhiên mặc áo xiêm”, có gì là khổ phải không? “Hồn nhiên mặc 
      áo xiêm” là chỉ cho không tâm; còn tùy duyên là biết linh động, trong hoàn 
      cảnh nào cũng an ổn, cũng đặt mình trong thế an vui tự tại. Thí dụ nếu bữa 
      cơm nào cũng mâm cao cỗ đầy toàn là xào chiên, quí vị có ngán không? Thỉnh 
      thoảng đổi một bữa rau luộc, muối tiêu, muối ớt quí vị có thấy ngon miệng 
      không? Như vậy sự đổi thay làm cho mình cho mùi vị mới, ngon, phải không? 
      Vậy lý tùy duyên có một nguồn vui làm cho chúng ta thấy thích thú, chớ ở 
      một vị trí mãi thì không có gì vui. Quí vị nhớ thuở xưa cuộc sống của đức 
      Phật là một dòng nước trôi, nay khất thực xóm này, mai dời đến làng kia, 
      chớ đâu có ở một chỗ, như một dòng suối chảy nhưng đi nơi nào Phật cũng 
      vẫn là Phật, chớ không phải đi nơi này Ngài là Phật, nơi kia Ngài không 
      phải là Phật. Khi đến cung vua thọ trai, khi đi trong xóm làng khất thực, 
      khi được các trưởng giả dâng cúng, khi lại ăn lúa mạch v.v... nhưng Ngài 
      vẫn không đổi thay, Phật vẫn là Phật. Phật như vậy thì chúng ta hiện nay 
      cũng như vậy, có gì mà buồn. Chúng ta cũng là một dòng sông trôi chảy, 
      chúng ta không bằng được Phật nhưng cũng phải tương tợ một chút. Cuộc sống 
      của chúng ta là một dòng linh động để mình thấy lòng vui tươi, có như thế 
      việc tu mới tiến. Cảnh nào cũng là cảnh vui, nghĩa là trong cảnh sung túc 
      thì vui với cảnh sung túc, trong cảnh chật vật thì vui với cảnh chật vật, 
      hôm nay mâm cao cỗ đầy thì vui với mâm cao cỗ đầy, ngày mai muối tiêu muối 
      ớt thì vui với muối tiêu muối ớt, cảnh nào cũng vui, không thấy có gì là 
      đau khổ, như thế chúng ta mới tiến được, tu được. Trái lại, nếu không biết 
      tùy duyên, ngồi ăn muối tiêu, muối ớt lại nhớ mâm cao cỗ đầy nên nuốt 
      không trôi, khi ăn mâm cao cỗ đầy lại nhớ những ngày ăn muối tiêu, muối ớt 
      rồi cảm thấy buồn tủi cho những ngày đã qua nên ăn cũng không ngon. Tôi 
      nói rằng: Chúng ta phải nói theo thế gian là “hưởng cho hết những ngày 
      trời”. Những ngày trời là những ngày gì? Là ngày nào đến với chúng ta, 
      chúng ta hưởng hết ngày ấy không có phí mất, phút giây nào cũng là phút 
      giây an vui của chúng ta. Chuyện sang năm chưa biết ra sao mà nay cứ ngồi 
      lo chuyện sang năm; chuyện năm qua trôi đâu mất, nay ngồi nhớ lại mặt ủ 
      mày châu. Việc đã qua để nó qua, việc sắp đến tự nó đến, hiện tại cứ vui 
      với hiện tại, như thế cuộc sống của chúng ta không phí mất thì giờ vô ích. 
      Quí vị nhớ như vậy thì cuộc sống của chúng ta là một cuộc sống an vui tự 
      tại; tuy chưa làm Phật nhưng cũng được an nhàn, được bớt khổ rồi. Còn 
      những người cứ mơ ước vị lại, hối tiếc quá khứ thì họ đau khổ mãi, không 
      bao giờ an ổn được. Chúng ta phải hiểu rõ như vậy, tất cả là tùy duyên, 
      duyên đến thì chúng ta chấp nhận để tùy đó mà tiến tu. Thế nên Tổ Lâm Tế 
      dạy: “Tùy duyên tiêu cựu nghiệp.” Đố quí vị tiêu bằng cách nào? Nếu không 
      biết tùy duyên thì oán hờn, buồn trách nên tạo thêm nghiệp mới. Lại nữa, 
      người không biết tùy duyên gặp cảnh vui thì cho ta là người hơn thiên hạ, 
      sanh kiêu căng, do đó những cái thói cũ thuở xưa sống dậy, vì thế nghiệp 
      cũ chưa dứt lại tạo thêm nghiệp mới. Trái lại biết tùy duyên thì cảnh đến 
      an nhiên với cảnh đến, cảnh đi cũng an nhiên với cảnh đi, duyên đến vui 
      hay buồn cũng vẫn an ổn, không thấy vui mà tự hào, không thấy buồn mà sầu 
      thảm, không tự hào tức không có bản ngã, không sầu thảm tức không oán hờn, 
      tức nhiên lòng an nhiên, do đó bao nhiêu nghiệp cũ lần lần tiêu sạch. Ví 
      như người bệnh hoặc bệnh bao tử, hoặc bệnh tim, bệnh phổi v.v... nếu có 
      bệnh cũ rồi nay giữ mình không để cho bị cảm, tức là thời tiết xấu đến, 
      khéo linh động không cho xâm nhập vào mình thì bệnh cũ lần lần hết, phải 
      không? Trái lại nếu bị cảm, người bệnh phổi thì ho, người đau tim thì mệt, 
      người đau bao tử thì đau bụng. Đó là gốc tại thời tiết xấu hiện nay làm 
      cho bệnh cũ phát lại, nếu cũng thời tiết đó mà chúng ta khéo vượt qua được 
      thì bệnh cũ cũng lành. Vì thế biết được lẽ tùy duyên thì nghiệp cũ lần lần 
      sạch, còn không biết được lẽ tùy duyên thì nghiệp cũ cũng khó tiêu mòn. 
      Chúng ta tu là phải làm thế nào nghiệp mới không tạo, nghiệp cũ dứt sạch, 
      mới thoát ly sanh tử được. Đấy là nghĩa “tùy duyên tiêu cựu nghiệp”. 
      
                  
      “Nhậm vận trước y xiêm” là ở trong cảnh nào tâm chúng ta cũng rỗng rang tự 
      tại, không phiền muộn, không có những niệm lăng xăng suy tưởng, như ngài 
      Thiện Chiêu nói: “tâm không đồng Tổ Phật”. Tâm rỗng rang  tự tại là chúng 
      ta sống một cách hồn nhiên, sống hồn nhiên nên chúng ta đồng Phật, Tổ; 
      đồng với Phật, Tổ là thoát ly sanh tử, đó là mục đích của người tu. Như 
      vậy quí vị mới thấy cuộc sống chúng ta hiện nay đang và sẽ sống là một 
      cuộc sống linh động; đừng cố chấp, đừng bám chặt vào bất cứ một điều gì 
      thì tự nhiên chúng ta an lành, tâm chúng ta lần lần thảnh thơi, sự tu hành 
      được tiến, do đó mới thoát được những phiền não đang quấy nhiễu chúng ta. 
      Chúng ta tu là cốt thoát ly sanh tử, nếu còn phiền não thì không thể nào 
      ra khỏi sanh tử. Muốn dứt phiền não thì phải có trí  tuệ sáng suốt như tôi 
      vừa nói, có như thế trên đường tu chúng ta mới vui, vui đó là cái vui chân 
      thật giải thoát sanh tử. 
      
                  
      Tóm lại tất cả quí vị, trong khi năm cũ sắp hết, ôn lại xem có điều gì dở 
      thì ráng đập cho nát, chuẩn bị qua năm mới chúng ta sẽ sống “tùy duyên 
      tiêu cựu nghiệp”. Nhớ “tùy duyên tiêu cựu nghiệp”, đừng để nghiệp cũ dấy 
      lên lôi chúng ta trở lại những điều hư dở của năm cũ nữa. Quí vị phải tập 
      sống hồn nhiên để “tâm không đồng Phật Tổ”, nghĩa là làm thế nào càng ngày 
      tâm chúng ta càng rỗng nhẹ, đến khi rỗng trơn không còn chi cả để đồng với 
      Phật Tổ, như vậy mới khỏi uổng một đời tu. Nếu để chứa ăm ắp, nặng trình 
      trịch trong tâm thì rất nguy, dễ bị rơi chìm tận đáy biển. Thế nên chúng 
      ta phải cố gột rửa cho sạch những cố chấp, những phiền não cho tâm hồn 
      thảnh thơi nhàn hạ. Muốn được như thế thì phải biết tùy duyên, nhưng tùy 
      duyên mà bất biến, đừng nói ở cảnh cũ tôi tu hay quá, nay đến cảnh này tôi 
      tu không được, thôi không tu nữa. Đó là tùy duyên rồi tan biến, mất mình. 
      Vì thế nên nhớ tùy duyên mà bất biến mới thật là người hiểu đạo, còn tùy 
      duyên mà tan biến thì đó là người không tiến tu được và phải bị trầm luân. 
      
                  
      Tôi nhắc lại: Hôm nay là buổi Tất niên tức là từ biệt năm cũ, chúng ta 
      phải nhìn như thế nào? Nhìn lại những điều dở, chúng ta phải đập tan hết 
      để chuẩn bị cho năm mới không còn dở nữa. Sang năm mới quí vị tập sống tùy 
      duyên phải không? Tùy duyên mà bất biến, đó là điều tôi mong tất cả quí vị 
      ứng dụng ngay từ năm mới này. 
      
      ]  |