| 
       
      
      BÀI THUYẾT PHÁP ĐẦU TIÊN CỦA ĐỨC PHẬT 
      
      
      NGUỒN GỐC PHẬT PHÁP 
      
      
      TẤT NIÊN NĂM ẤT SỬU 1986
      
                  
      Hôm nay nhân ngày cuối năm, chúng tôi nhắc lại bài thuyết pháp đầu tiên 
      của đức Phật để quí vị nắm vững đầu mối của sự tu hành, và đi đúng con 
      đường đức Phật đã vạch sẵn cho chúng ta. 
      
                  Là 
      con người, tất cả chúng ta đều yêu thương, quí trọng, gìn giữ bản thân và 
      lo âu sợ hãi, khổ đau vì bản thân của chúng ta. Chủ yếu của sự tu hành là 
      phải biết bản thân chúng ta như thế nào? Thường chúng ta hướng bên ngoài, 
      nói chung là chúng ta chạy theo ngũ dục lục trần mà không tự biết mình, cả 
      đời tạo nghiệp khổ mà không hay biết! Thế nên trong bài thuyết pháp đầu 
      tiên cho năm anh em ông Kiều-trần-như, đức Phật đi thẳng vào vấn đề, ngài 
      thuyết pháp Tứ đế. 
      
                  
      Đức Phật chỉ thẳng con người thật của chúng ta, con người đó thật sự là 
      đau khổ hay là an vui? Nó là an vui mà mình quí trọng thương yêu, gìn giữ, 
      hay nó là đau khổ mà mình quí trọng, thương yêu, gìn giữ? Nếu không hiểu 
      con người thật của chúng ta, mà tìm hiểu những việc bên ngoài, đó là bỏ 
      cội gốc mà theo ngọn ngành. Nếu chúng ta đem hết tâm tư và khả năng tìm 
      hiểu những việc ngoài chúng ta, mà không tìm hiểu con người thật của chúng 
      ta, đó chưa phải là căn bản. Cũng như đứng trước một căn nhà, muốn tìm 
      hiểu căn nhà ấy, trước tiên chúng ta phải hiểu ông chủ nhà, ông chủ nhà 
      hiểu rồi, chúng ta tìm hiểu căn nhà không khó, con người là chủ còn sự vật 
      chung quanh chỉ là bạn, là phụ thôi. Danh từ chuyên môn nhà Phật gọi con 
      người là chánh báo, ngoại cảnh là y báo. Chánh báo tốt, y báo theo đó mà 
      tốt, chánh báo xấu, y báo theo đó mà xấu. Vì vậy chánh báo là chủ, y báo 
      là bạn, là phụ. Thế mà chúng ta tìm hiểu y báo mà không hiểu rõ chánh báo, 
      đó là một khuyết điểm lớn lao. 
      
                  
      Khi dạy chúng ta tu hành, việc đầu tiên đức Phật bắt buộc chúng ta phải 
      xác định thân này là khổ hay vui? Thấy thật rõ điều đó, chúng ta mới nhận 
      đúng tất cả vấn đề. Mọi sự mọi vật đều phải qua cách nhìn và cách phán 
      đoán của chúng ta, nếu chúng ta không tự biết mình mà nói biết sự vật 
      chung quanh đúng lẽ thật, điều đó không bao giờ có! Vì vậy phải biết mình 
      đúng như thật, rồi mới biết người, biết ngoại cảnh đúng như thật. Nếu mình 
      biết mình một cách sai lầm, với người với ngoại cảnh mình cũng biết sai 
      lầm. Cho nên chủ yếu của đạo Phật là phải biết mình. 
      
                  
      Bài thuyết pháp đầu tiên của đức Phật là pháp Tứ đế. Thứ nhất đức Phật nói 
      về Khổ đế. Chúng ta lầm tưởng khổ đế là cái gì xa lạ bên ngoài, sự thật 
      khổ đế xác nhận sự khổ ngay nơi con người chúng ta. Chúng ta phải xét lại 
      thật kỹ con người mình là khổ hay là vui. Nếu là khổ phải cố gắng tu cho 
      hết khổ, nếu là vui thì tu làm chi cho thừa! Biết đúng như thật rồi, chúng 
      ta mới nói đến chuyện tu hành, nếu không biết đúng như thật thì không nên 
      nói đến chuyện tu! Vì sao? Vì thân này là cội gốc, nếu không biết rõ nó mà 
      biết những việc khác cũng chỉ là việc bên ngoài thôi. Vì thế chúng ta phải 
      xác nhận thật rõ thân này là khổ hay là vui? 
      
                  
      Trong bài thuyết pháp đầu tiên đức Phật bảo: Thân này là khổ. Chúng ta cần 
      xác nhận thân này có khổ thật hay không? Khi nghe đức Phật nói thân này là 
      khổ, chúng ta đều cho rằng đạo Phật là bi quan, chán đời. Nhưng đây là một 
      lẽ thật không thể chối cãi được. Vì thế dùng chữ khổ suông chưa đủ mà phải 
      nói “Khổ đế”, tức là cái khổ đúng như thật, chớ không phải chuyện tưởng 
      tượng phi lý. 
      
                  
      Đức Phật nêu lên hoặc là tứ khổ, hoặc là bát khổ. Tứ khổ gồm có: sanh, 
      già, bệnh, chết. Chúng ta thường nghĩ sanh là mới lọt lòng mẹ, khóc oa oa 
      là khổ. Nhưng theo chúng tôi nghĩ sanh là sanh hoạt hiện tại của mình 
      trong cuộc sống hằng ngày, đó là khổ hay vui? Còn lúc vừa lọt lòng mẹ dù 
      có khóc đi nữa, mình cũng không có cảm giác đau khổ. Vì vậy ngay khi chúng 
      ta đang sống, là khổ hay vui? Từ thuở bé thơ đến lúc tuổi già, từ hai mươi 
      ba mươi tuổi, đến sáu mươi bảy mươi tuổi, trong khoảng thời gian đó, những 
      điều chúng ta ước muốn được như ý nhiều hay bị mất như ý nhiều? Trong mười 
      điều ước muốn, chúng ta đạt được nhiều lắm là ba điều như ý, còn lại là 
      bất như ý. Như ý gọi là vui, bất như ý gọi là khổ. Như vậy vui ít, khổ 
      nhiều. Trong cuộc sống của chúng ta, những điều bất như ý xảy ra quá 
      nhiều, tức là đau khổ quá nhiều. 
      
                  
      Tuổi già có khổ không? Khi tuổi còn trẻ, da dẻ hồng hào, sức khỏe đầy đủ 
      muốn làm điều gì, muốn đi nơi nào đều được như ý. Đến lúc già nua, sức 
      khỏe suy mòn, đi đứng run rẩy, nói năng lập cập, răng long má cóp, còn gì 
      là sung sướng như tuổi thanh xuân. Tuổi già chẳng khổ là gì? 
      
                  
      Đến cái khổ thứ ba là bệnh. Bệnh thì làm sao vui được! Cái khổ thứ tư là 
      chết. Như vậy sanh, già, bệnh, chết là bốn cái khổ không ai chối cãi được. 
      Bốn cái khổ đó do từ đâu mà ra? Đó là do cái thân vô thường của chúng ta, 
      thân chúng ta luôn luôn đổi thay ở nguyên một vị trí, nó bị chuyển biến 
      cho nên có sanh, có già, có bệnh, có chết, vì thế mà chúng ta đau khổ. Thử 
      kiểm lại xem trên thế gian này có ai thoát khỏi bốn cái khổ đó không? Chắc 
      hẳn là không, vì đó là phần chung của mỗi người chúng ta. Cho nên Phật nói 
      khổ đế tức là cái khổ là một lẽ thật. 
      
                  Đi 
      xa hơn nữa, Phật nói đến tám cái khổ. Ngoài bốn cái khổ sanh, già, bệnh, 
      chết nơi bản thân mình, Phật nói thêm bốn cái khổ là: ái biệt ly khổ: 
      người mình thương yêu mà phải xa lìa nên đau khổ; oán tắng hội khổ: người 
      mình không ưa mà phải giáp mặt nên khổ; cầu bất đắc khổ: những gì mình 
      thích và mong cầu mà không được như ý nên khổ. Đó là ba cái khổ liên hệ 
      mình với người và sự vật chung quanh. Đến cái khổ cuối là ngũ ấm xí thạnh 
      khổ, tức là thân ngũ ấm này là gốc của đau khổ, cái khổ này liên hệ chung 
      cả thể xác lẫn tinh thần. Thân ngũ ấm của con người gồm phần vật chất và 
      tinh thần, là một dòng biến chuyển, bởi thân vô thường biến chuyển cho nên 
      đau khổ. Khi biết thân là vô thường chúng ta có say mê nó, tô điểm nó cho 
      đẹp hơn người không, chúng ta có vun bồi nó để thụ hưởng cho lâu dài 
      không? Như khi chúng ta biết rõ món đồ giả, chỉ dùng đôi ba năm thì hư bể, 
      thử hỏi làm sao giữ gìn nó được một trăm năm. Cho nên khi biết món vật chỉ 
      dùng được đôi ba năm, chúng ta phải tận dụng nó cho hữu ích, chớ không cố 
      giữ nó làm gì. Thân chúng ta cũng như vậy, tạm bợ, vô thường và đau khổ, 
      nếu chúng ta không sử dụng nó cho hữu ích, lợi mình, lợi người, thì uổng 
      phí một cuộc đời. Biết thân là tạm bợ chúng ta phát tâm làm lợi ích chúng 
      sanh. Nếu thấy thân mình là lâu bền, tốt đẹp và quí báu thì chúng ta sanh 
      tâm kiêu căng ngã mạn; thấy thân mình là lâu bền chúng ta lo tích lũy dành 
      dụm, rồi thấy mình hơn người nên sanh tâm khinh rẻ kẻ khác. Do đó vừa thấy 
      thân lâu dài quí báu, thì bao nhiêu tật xấu theo đó mà sanh. 
      
                  
      Hiện tại trong các Phật tử chúng ta, ai là người thấy thân mình là vô 
      thường, đau khổ? Hay chúng ta thấy nó chân thật lâu dài? Chúng ta không 
      dám xác nhận mạnh mẽ thân này là vô thường, cứ nghĩ rằng mình sẽ sống đến 
      tám mươi chín mươi tuổi. Già như những vị bảy mươi tuổi cũng nghĩ mình sẽ 
      sống đến chín mươi tuổi, chớ không bao giờ nghĩ mình có thể chết một vài 
      năm gần đây! Đó là lẽ thật mà chúng ta không gan dạ nhìn thẳng, cứ tưởng 
      tượng đời sống mình còn lâu dài, nên việc tu cũng yếu, việc làm lợi ích 
      chúng sanh cũng nhẹ. Đó là một khuyết điểm của người Phật tử chúng ta. 
      
                  
      Biết rõ thân này là đau khổ, bởi nó là vô thường, chúng ta phải cố làm sao 
      cho mình hết khổ, cho người hết khổ. Chúng ta phải tìm nguyên nhân cái đau 
      khổ của thân, đức Phật chỉ cho chúng ta  thấy rõ điều này trong đế thứ 
      hai: đó là Tập đế. Nguyên nhân của thân đau khổ là ba thứ độc tham, sân, 
      si, hay nói nhiều hơn là sáu thứ căn bản phiền não: tham, sân, si, mạn, 
      nghi, ác kiến. 
      
                  Sở 
      dĩ chúng ta khổ trong cuộc sanh sống vì có những điều bất như ý. Chúng ta 
      muốn mà không được nên bất như ý, muốn thuộc về tham. Bởi có tham nên mới 
      có bất như ý, nếu không tham làm gì có bất như ý, phải không? Có những cái 
      tham vượt quá khả năng mình, ví dụ khả năng mình có năm hay bảy, mà mình 
      tham đến một ngàn, như vậy là tham muốn quá sức, nên bất như ý quá nhiều 
      thì đau khổ cũng quá lắm. Như vậy gốc của đau khổ là lòng tham quá sức. 
      Khi muốn cái này được rồi, lại muốn đến cái thứ hai, khi được rồi lại muốn 
      đến cái thứ ba... Lòng tham cứ tăng thêm mãi không có chỗ dừng, cho nên 
      con người không bao giờ được như ý. Lòng tham vô chừng nên ở địa vị nào, ở 
      hoàn cảnh nào, con người cũng bất như ý. Khả năng mình hữu hạn mà lòng 
      tham vô hạn, làm sao không đau khổ. 
      
                  
      Khi chúng ta đến tuổi già, chúng ta khổ, vì sao? Vì chúng ta muốn trẻ mãi. 
      Khi tuổi già đến tức là bất như ý rồi. Nếu chúng ta đừng tham trẻ, khi già 
      đến chúng ta cứ cười với cái già, thì có khổ gì đâu! Cái chết cũng như 
      vậy. Vì mình muốn sống nên khi cái chết đến mình khổ. Sanh, già, bệnh, 
      chết đều khổ, gốc từ lòng tham mà ra, nếu hết tham thì bốn cái khổ đâu 
      còn. 
      
                  Do 
      sân nên khổ, điều này dễ hiểu. Do si nên khổ, cũng dễ hiểu. Si là không 
      thấy đúng như thật, vì không thấy đúng như thật nên mới tham. Thấy đúng lẽ 
      thật rồi, khả năng mình bao nhiêu, thấy rõ bấy nhiêu, không sai lầm, không 
      tham quá sức mình thì đâu có khổ. Vì tham quá sức nên bất như ý, nên mới 
      khổ. Vì vậy tham, sân, si là nguyên nhân của đau khổ, rõ ràng như vậy. 
      
                  
      Khi biết rõ nguồn gốc của đau khổ là tham, sân, si, hay chung tất cả là 
      sáu thứ căn bản phiền não. Muốn hết đau khổ, phải làm sao? Đến đây đức 
      Phật nói đế thứ ba là Diệt đế. Như một ông thầy thuốc thấy bệnh nhân đang 
      bị bệnh hoành hành, ông thầy muốn trị bệnh, trước hết phải làm sao? Tức 
      phải tìm nguyên nhân bệnh, rồi sau đó mới trị, nguyên nhân bệnh hết rồi, 
      quả tự nhiên đâu còn. Vì thế diệt đế là diệt hết nguyên nhân tạo thành quả 
      đau khổ, nguyên nhân diệt sạch rồi, quả đau khổ hết, hết khổ gọi là vui, 
      phải vậy không? 
      
                  
      Chủ yếu đạo Phật là dạy chúng ta thấy được quả đau khổ, rồi tìm nguyên 
      nhân gây đau khổ, và tiêu diệt nguyên nhân đó, tức nhiên quả đau khổ hết. 
      Cũng như khi biết bệnh do một loại vi trùng phá hoại hoành hành, biết được 
      vi trùng đó rồi, dùng thuốc trị, vi trùng chết hết, bệnh sẽ được lành. 
      Cũng như thế, diệt là diệt sạch nguyên nhân đau khổ, thì quả đau khổ đâu 
      còn, đó là tinh thần diệt đế. 
      
                  
      Muốn diệt sạch nguyên nhân đau khổ, tức phải dùng những phương pháp, đến 
      đây đức Phật dạy đế thứ tư là Đạo đế. Đạo đế là những phương pháp hay 
      những phương thuốc tiêu diệt hết nguyên nhân đau khổ. Trong các kinh 
      A-hàm, đạo đế gồm ba mươi bảy phẩm trợ đạo, nhưng căn bản là Bát thánh 
      đạo. 
      
                  
      Chúng ta thấy rõ đức Phật nói khổ đế chỉ lẽ thật ngay nơi bản thân chúng 
      ta. Khi nhận thức thấu đáo được lẽ thật rồi, chúng ta phăng lần đến nguyên 
      nhân của đau khổ, rồi tìm cách tiêu diệt cho sạch các nguyên nhân đó, thì 
      quả đau khổ đâu còn. Muốn tiêu diệt các nguyên nhân đau khổ phải dùng 
      những phương pháp, đó là Đạo đế. 
      
                  
      Như vậy pháp Tứ đế nhắm thẳng vào con người chúng ta từ quả đến nhân, từ 
      khổ đến hết khổ, chớ không có nghĩa khổ rồi cam chịu khổ. Người đời mang 
      thân khổ mà không biết khổ, không biết khổ thì nói gì để diệt khổ! Vì vậy 
      khi mang thân khổ mà tưởng là vui, rồi tự hào hãnh diện... Khi mang thân 
      khổ mà họ không hay không biết, chúng ta thử nghĩ đáng giận hay đáng 
      thương? Như một người bị bệnh hủi nặng không còn sống bao lâu nữa, nhiều 
      lắm là sáu tháng hay một năm mà họ cứ giận người này, ghét người kia, hung 
      dữ, tham lam, tật đố, như vậy đáng thương hay đáng giận? Mang cái thân đau 
      khổ, mỏng manh mà không tự biết, thật là đáng thương chớ không nên đáng 
      ghét. 
      
                  
      Chúng ta tu Phật bắt đầu bằng chữ khổ, mà kết thúc bằng chữ lạc. Cho nên 
      biết khổ, rồi tiêu diệt nguyên nhân khổ để mà vui, chớ đâu phải biết khổ 
      để rồi chịu khổ. Như vậy pháp Phật là pháp khổ hay pháp vui? Pháp Phật dạy 
      rất lạc quan, vì Phật chỉ cho chúng ta thấy quả đau khổ rồi tìm cách tiêu 
      diệt nguyên nhân đau khổ, hết đau khổ tức là an vui. Rõ ràng mở màn bằng 
      khổ mà kết thúc lại là vui. Còn ở thế gian mở màn bằng vui mà kết thúc 
      bằng khổ. Thí dụ một người chưa biết uống rượu, gặp bạn bè nài nỉ uống 
      rượu, lúc ấy là vui lắm phải không? Nhưng đến khi uống say rồi ngã bờ ngã 
      bụi lúc ấy khổ hay vui? Mở màn là vui mà kết quả là khổ, đó là điều lầm 
      lẫn của con người thế gian. 
      
                  
      Đức Phật chỉ thẳng đau khổ là căn bản để rồi tìm cách tiêu diệt nó để đưa 
      đến an vui. Nhưng an vui trong đạo Phật như thế nào? Cái vui đó ra làm 
      sao? Ví dụ khi chúng ta bị đói bụng quá sức, đó là khổ hay vui? Bao tử xót 
      xa bào bọt, đó là khổ, phải không? Nhưng khi chúng ta ăn vào độ hai ba 
      chén cơm, vừa đủ no thôi, lúc bấy giờ cơn đói bụng hết thì cái khổ khi đói 
      bụng cũng hết, nên nói ăn no thì vui, là vui làm sao? Tức là cái khổ của 
      cơn đói bụng khi trước không còn. Hết khổ nên nói được vui là như vậy. Cái 
      vui ở đây, không phải là cái vui của tiệc trà mâm rượu, mà là cái vui an 
      ổn, an nhiên tự tại. Thân mình khi đói đi không nổi, đứng không yên, khi 
      ăn được vài chén cơm thân thể khỏe mạnh trở lại muốn đi đâu, muốn làm việc 
      gì cũng được nên gọi là vui, cái vui này không hiện ra bên ngoài nhộn nhịp 
      như là người lớn hay vỗ tay. 
      
                  
      Còn mang thân này chứa chấp tham sân si, chúng ta còn đau khổ. Nếu tiêu 
      diệt hết tham sân si, tuy còn thân này mà lúc đó chúng ta không còn đau 
      khổ. Còn thân là còn già còn chết, nhưng tham sân si, nguyên nhân của đau 
      khổ, đã diệt sạch rồi, lúc đó còn đau khổ hay không? Chúng ta phải xác 
      nhận điều này cho thật rõ, vì nghe nói thân này là khổ, còn mang thân là 
      còn khổ. Như vậy những vị A-la-hán khi chứng quả rồi, tham sân si đã sạch 
      hết, khi ấy các ngài cũng còn thân mà các ngài có khổ như chúng ta không? 
      Khi các ngài già, các ngài chết các ngài có rên rỉ, có buồn thảm hay 
      không? Như thế để thấy rằng tuy còn thân mà hết nhân tham sân si rồi cũng 
      hết đau khổ. Vì thế các vị A-la-hán khi gần tịch các ngài vui vẻ tịch chớ 
      không sợ sệt như chúng ta. Chúng ta thấy rõ rằng nhân đau khổ không còn, 
      dù còn thân này, quả đau khổ cũng đã giảm bớt đi rồi. Hiểu như vậy, chúng 
      ta mới thấy hiệu nghiệm của sự tu hành. Nhiều người không hiểu nói rằng 
      diệt đế là diệt sạch nguyên nhân đau khổ rồi chết mới được Niết-bàn, mới 
      hết khổ. Nếu chết rồi ai biết mình được Niết-bàn, ai biết mình hết khổ? Đó 
      là chuyện hứa hẹn xa xôi thiếu thực tế. Như đức Phật sau khi thành đạo 
      Ngài mới ba mươi mốt tuổi cho đến tám mươi tuổi, trong khoảng thời gian 
      bốn mươi chín năm, Ngài cũng già, cũng bệnh, cũng chết, mà Ngài có khổ như 
      chúng ta không? Thế mới thấy diệt hết nguyên nhân đau khổ rồi, tuy còn 
      thân này mà vẫn không có khổ. Đó là cái đặc biệt, là bằng chứng cụ thể của 
      sự tu, không phải nói đợi đến chết nhập Niết-bàn mới hết khổ. Các vị 
      Bồ-tát, các vị A-la-hán cũng mang thân như chúng ta mà các ngài không khổ 
      là như vậy. Chúng ta cũng thế, ngay trong thân này mà diệt hết nguyên nhân 
      đau khổ rồi cũng hết khổ. 
      
                  
      Chúng ta tu cốt để diệt khổ, khổ diệt sạch rồi tức là an vui. Chúng ta an 
      vui nên muốn đem cái an vui lại cho mọi người, đó là tự lợi, lợi tha, và 
      đó cũng là lòng từ bi. Chúng ta tu được hết khổ, thấy người khác còn đau 
      khổ, chúng ta phải thương họ, tình thương đó là lòng từ bi. Có giác ngộ 
      liền có từ bi là như vậy. Nếu không giác ngộ, lòng từ cũng chỉ gượng thôi 
      chớ không có thật, vì sao? Vì không giác ngộ thì còn mê lầm, tức còn đau 
      khổ, nếu có thương người cũng chỉ thương gượng mà thôi, vì mình có hết khổ 
      đâu mà lo cho người hết khổ. Thí dụ như chúng ta dư giả có nhiều của cải, 
      tự mình không đói thiếu. Khi thấy người đói thiếu mình tìm cách giúp họ dễ 
      dàng. Nếu mình đang đói thiếu như họ, mình có nói tôi thương anh quá, tôi 
      thương chị quá, đó cũng là lời nói suông thôi, chớ mình cũng không giúp họ 
      một cách thiết thực được. Vì thế, có giác ngộ mới có từ bi, đó là lòng từ 
      bi chân thật. Do hưởng được sự an vui, mình mới đem cái an vui đó đến cho 
      người. 
      
                  
      Người tu chúng ta hiện tại chưa làm được nhiều lợi ích cho người, nhưng 
      ráng nỗ lực tu, dẹp sạch tham sân si. Khi được an ổn rồi, muốn làm lợi ích 
      cho người rất là thuận lợi. Nếu chưa hết tham sân si mà muốn làm lợi ích 
      cho người, đôi khi cũng gặp trở ngại. Thí dụ bình thường chúng ta tỉnh táo 
      sáng suốt, thấy huynh đệ có nhiều phiền não, chúng ta khuyên nhủ. Nhưng 
      đến khi chúng ta gặp việc bối rối, sự sáng suốt cũng mất đi, nên lời nói 
      việc làm không còn sáng suốt nữa. Vì vậy người mà chúng ta khuyên dạy khi 
      trước mất lòng tin nơi chúng ta, nên sự lợi tha không được trọn vẹn. Khi 
      tỉnh nói đúng, lúc mê lời nói không còn đúng nữa, nên làm mất lòng tin nơi 
      người. Nếu được tỉnh mãi mãi, chắc không bao giờ làm mất lòng tin của 
      người. Thế nên, được tỉnh giác trọn vẹn, việc lợi tha mới được trọn vẹn. 
      Nếu sự tỉnh giác chưa trọn vẹn, dù có lợi tha, cũng chỉ một phần nào thôi, 
      khó mà trọn vẹn được. 
      
                  
      Nói tóm lại, khi biết rõ bản chất thân chúng ta là vô thường, là đau khổ, 
      chúng ta cố gắng tiêu diệt cái đau khổ. Đau khổ hết sạch rồi, chúng ta 
      được an vui. Đó là tinh thần pháp Tứ đế trong các bộ kinh A-hàm. 
      
                  
      Nói xa hơn chút nữa, ngay nơi thân vô thường đau khổ này, các Bồ-tát nhìn 
      thấy nó như thế nào? Nó cũng vô thường, cũng đau khổ, nhưng ngay nơi thân 
      vô thường đau khổ, các ngài nhận được cái không vô thường, không đau khổ. 
      Qua cái nhìn của Tứ đế, nhìn nơi thân nơi tướng, nên thấy thân này là vô 
      thường, là đau khổ từ nguyên nhân tham sân si mà ra. Dẹp sạch tham sân si 
      thì đau khổ cũng hết. Qua tinh thần Đại thừa, hay qua cái nhìn của các 
      Thiền sư, chúng ta lại thấy khác. Các ngài thấy rõ thân này là vô thường 
      đau khổ. Nhưng trong cái vô thường đau khổ đó, bươi sâu vào lại có một cái 
      không vô thường, không đau khổ, đó là cái gì? Đến đây là bước qua giai 
      đoạn thứ hai. 
      
                  
      Cái không vô thường, không đau khổ, là cái gì? Trong kinh Lăng Nghiêm, đức 
      Phật nói chuyện với vua Ba-tư-nặc. Nhà vua nói: Thân của ông lúc mười tuổi 
      trẻ hơn lúc hai mươi tuổi, lúc hai mươi tuổi trẻ hơn lúc ba mươi tuổi, cho 
      đến năm nay già hơn năm ngoái, tháng này già hơn tháng trước v.v... cho 
      đến mỗi ngày mỗi phút mỗi giây nó đã đổi thay, nó già từng phút từng giây. 
      Đức Phật bảo: Trong cái sanh diệt vô thường, hay trong cái già chết đổi 
      thay đó, có một cái chưa từng già chết, ông có biết không? Nhà vua thưa 
      không biết. Đức Phật mới chỉ cho Vua cái không già không chết ở ngay trong 
      cái thân già chết. Cái không già không chết đó, đức Phật chỉ từ cái thấy, 
      từ cái nghe.  
      
                  
      Cũng trong kinh Lăng Nghiêm, đến đoạn đức Phật đưa tay lên xòe nắm, xòe 
      nắm rồi hỏi ngài A-nan: Ông có thấy không? Ngài A-nan thưa: Dạ thấy. Hỏi: 
      Thấy cái gì? Thưa: Thấy tay Phật xòe nắm. Hỏi: Tay ta xòe nắm, còn cái 
      thấy của ông có xòe nắm không? Ngài A-nan thưa: Cái tay Phật có xòe nắm, 
      chớ cái thấy của con không có xòe nắm. Xòe nắm tức là động, động là vô 
      thường, là sanh diệt. Còn cái thấy không xòe nắm, không xòe nắm tức là 
      không động, không động là không vô thường, không sanh diệt. Như vậy chúng 
      ta thấy rằng ngay trong cái thân vô thường sanh diệt này có cái không phải 
      vô thường, không phải sanh diệt. 
      
                  
      Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác nhận thấy ngay trong thân sanh diệt vô thường cái 
      Pháp thân chưa từng vô thường sanh diệt, cho nên mở đầu bài Chứng Đạo Ca 
      Ngài có nói mấy câu: 
      
      
                              “Pháp thân giác liễu vô nhất vật 
      
      
                              Bản nguyên tự tánh thiên chân Phật 
      
      
                              Ngũ uẩn phù vân không khứ lai, 
      
      
                              Tam độc thủy bào hư xuất một.” 
      
                  
      Pháp thân giác liễu vô nhất vật là ngay trong thân tứ đại ngũ uẩn này giác 
      ngộ được cái Pháp thân. Pháp thân đó không có một vật, cũng gọi là Bản 
      nguyên, là Tự tánh, là Phật thiên chân. Khi giác ngộ được pháp thân rồi, 
      nhìn lại ngũ uẩn này, thấy như thế nào? Ngũ uẩn phù vân không khứ lai, 
      nghĩa là thân ngũ uẩn này chẳng khác nào như mây nổi bay qua lại trong bầu 
      trời, khi tụ khi tán, lúc có lúc không, có nghĩa lý gì đâu! Tam độc thủy 
      bào hư xuất một. Tam độc là tham sân si, chẳng khác nào như bọt nước chợt 
      nổi chợt tan, chỉ còn trong khoảnh khắc, đâu có lâu bền. 
      
                  
      Ngộ được pháp thân rồi, thấy thân ngũ uẩn như mây nổi, tham sân si như 
      bong bóng nước, chúng ta tuy còn thân này nhưng có thấy khổ hay không? 
      Hàng Nhị thừa thấy thân này là khổ, nguyên nhân của khổ là tham sân si. 
      Đến Đại thừa nhất là Thiền tông, ngay nơi thân đau khổ sanh diệt vô 
      thường, thấy được pháp thân chưa từng vô thường sanh diệt. Đứng từ pháp 
      thân nhìn lại thân vô thường sanh diệt chẳng khác nào như đám mây nổi, ba 
      độc tham sân si như bong bóng nước. Như vậy quả và nhân của thân này đều 
      là tạm bợ giả dối, không có nghĩa lý gì. Đối với thân này còn buồn khổ hay 
      không, còn rên rỉ trước sự mất còn của nó hay không? Nhận được pháp thân 
      chân thật rồi, thân vô thường đau khổ này không còn gì là quan trọng. 
      
                  
      Bồ-tát không sợ tam độc, cũng không quí tiếc thân này, vì sao? Vì các ngài 
      đã giác ngộ, thấy được pháp thân ở trong thân sanh diệt. Giác ngộ tức là 
      hết si mê, biết thân như mây nổi nên không còn tham lam, hết tham lam nên 
      sân hận cũng không còn. Các hàng Bồ-tát không còn sợ thân này đau khổ, 
      cũng không còn sợ nguyên nhân làm cho thân này đau khổ, cho nên các ngài 
      luôn luôn vui vẻ. 
      
                  
      Các vị chưa chứng Bồ-tát, còn tu theo hạnh A-la-hán, thấy thân này là đau 
      khổ, sanh tử là đau khổ, thấy tham sân si là nguyên nhân gây đau khổ, cho 
      nên nếu chưa dẹp sạch ba độc, các ngài không bao giờ vui được. Các ngài tu 
      hành khổ hạnh, luôn luôn cố gắng để tiêu diệt tham sân si. Còn các Bồ-tát 
      nhận được cái thân chân thật ngay trong thân này nên các ngài hằng tỉnh 
      hằng an. 
      
                  
      Một vị Cổ đức có bài tụng ngắn sau đây: 
      
      
                              “Chư Phật tại tâm đầu 
      
      
                              Người mê chạy ngoài cầu 
      
      
                              Trong ôm báu vô giá 
      
      
                              Chẳng biết một đời thôi.” 
      
                  
      Phật tại tâm đầu. Phật ở đâu? Tức ở ngay nơi đầu tâm của mình. Vì sao 
      không nói ở đuôi tâm mà nói ở đầu tâm? Dấy niệm là động, trước khi dấy 
      niệm là tịnh. Dấy niệm là tâm. Khi chưa dấy niệm, Phật ở ngay đó rồi, nên 
      nói chư Phật ở đầu tâm là như vậy. Vừa dấy niệm là thành chúng sanh, vừa 
      dấy niệm Phật thành ở đuôi. Niệm lặng xuống Phật hiện trở lại. Chúng ta 
      thường chấp rằng khi niệm dấy lên, niệm đó là tâm. 
      
                  
      Thật ra Phật ở đầu niệm tức là trước khi niệm sanh đã có Phật rồi. Người 
      mê chạy ngoài cầu. Người mê chạy tìm Phật ở núi này, non kia, ở Tà Lơn, 
      Ông Cấm, không bao giờ thấy Phật ngay nơi tâm mình. Trong ôm báu vô giá 
      tức là trong lòng đã ôm sẵn một hòn châu báu vô giá. Chẳng biết một đời 
      thôi, trong tâm ôm sẵn hòn ngọc báu vô giá mà không biết để một đời trôi 
      qua, uổng phí một đời. 
      
                  
      Qua bốn câu tụng đơn giản của Thiền sư, chúng ta thấy rõ ràng Phật không ở 
      đâu xa, chỉ ngay nơi đầu tâm; mình không biết nên chạy nơi này nơi kia, 
      trèo non lội suối để tìm Phật, mà nào có gặp Phật đâu. Đã có sẵn hòn ngọc 
      báu vô giá ở trong lòng mà không hay biết để trôi qua một đời, thật đáng 
      tiếc đáng thương! 
      
                  
      Người tu Phật dù tu theo hạnh Thanh văn hay hạnh Bồ-tát, mục đích là đạt 
      được sự an vui. Hàng Thanh văn thấy thân là khổ, tìm nguyên nhân của khổ 
      để tiêu diệt, khổ diệt sạch hết là được an vui. Còn các Bồ-tát thấy rõ 
      trong thân đau khổ có cái chân thường an lạc, các ngài sống trở về với cái 
      chân thường an lạc đó, cũng được an vui. Các hàng Thanh văn và Bồ-tát ở 
      hai quan điểm khác nhau, nẩy sanh lòng từ bi, chỉ dạy cũng khác nhau. Các 
      vị Thanh văn thấy thân là đau khổ, diệt hết khổ được an vui. Nhìn lại 
      chúng sanh mang thân đau khổ mà không tự biết, lại say sưa trong đó, các 
      ngài khởi lòng từ bi chỉ dạy cho con người diệt nguyên nhân đau khổ để 
      được an vui. Còn các Bồ-tát thì khác, thấy ngay nơi thân vô thường đau 
      khổ, có cái chân thường an lạc. Các ngài không dạy mình dẹp tham sân si, 
      mà dạy mình phải giác ngộ, thấy được cái chân thật ngay trong cái hư dối. 
      Giác ngộ là phá được si, nên tham không còn, mà sân cũng hết. Các ngài 
      không dạy pháp tu, mà bảo chúng ta phải nhận được cái chân thường an lạc, 
      Thiền tông gọi đây là Kiến tánh khởi tu. Nhận được cái chân thật rồi, 
      chúng ta từ từ mà bỏ những sai lầm. 
      
                  
      Hàng Đại thừa chỉ thẳng cho chúng ta thấy trong thân vô thường có cái chân 
      thường. Vì thế biết bao nhiêu kinh điển Đại thừa đều nhắm vào điểm này. 
      Trong kinh Pháp Hoa, Phật nói chỉ có một Phật thừa, và chỉ thẳng cho chúng 
      ta Tri kiến Phật. Kinh Lăng Nghiêm cốt chỉ Chân tâm, kinh Viên Giác chỉ 
      thẳng tánh Viên giác. 
      
                  
      Thiền tông cũng vậy, bảo chúng ta phải kiến tánh, nghĩa là nhận ra bản 
      tánh, rồi sau đó khởi tu, đó là điều căn bản. Chúng ta phải thấy ngay nơi 
      thân tạm bợ hư dối có cái chân thật. Đừng lầm thân giả dối cho là chân 
      thật. Nếu mê lầm cho thân giả dối là chân thật, thì mọi điều mê lầm khác 
      sẽ theo đó mà sanh ra không thể kể hết. Nhận được cái chân thật rồi, biết 
      thân là giả dối như mây nổi thì bao nhiêu vấn đề đều được giải quyết. Cho 
      nên nói Đại thừa là đốn ngộ. 
      
                  
      Lòng từ bi của Đại thừa là chỉ cho chúng ta nhận được cái chân thật nơi 
      mình. Nhận được cái chân thật rồi, thì thân này không còn quan trọng, cho 
      nên hết đau khổ. Trong kinh Pháp Hoa, có ví dụ người nghèo đi lang thang 
      say sưa, được bạn cho một hòn ngọc báu cột trong chéo áo, bảo nhớ lấy ra 
      mà tiêu dùng. Lòng từ bi là chỉ thẳng cho chúng ta thấy hòn ngọc báu vô 
      giá. Thế nên cả đời Bồ-tát Thường Bất Khinh chỉ làm một việc là nói: “Tôi 
      không dám khinh các ngài, các ngài đều sẽ thành Phật.” Ngài cốt chỉ cho 
      mọi người nhận được hòn ngọc báu. Chư Bồ-tát đều nhắm thẳng chỉ cho chúng 
      ta nhận ra hòn ngọc báu đó, sự tu hành theo đó được dễ dàng, và kết quả 
      đúng như sở nguyện. 
      
                  
      Không riêng gì hàng Bồ-tát Đại thừa mới có từ bi, mà hàng Nhị thừa cũng có 
      từ bi. Nhưng hai bên có cái nhìn khác nhau nên mới chia thành Tiểu thừa 
      Đại thừa. Dù sao mục tiêu chánh yếu cũng không hai, thấy rõ thân này là 
      khổ, giải hết được đau khổ, đưa đến an vui. 
      
                  
      Chủ yếu của đạo Phật dù Tiểu thừa hay Đại thừa cũng là đem lại nguồn vui 
      cho chúng sanh, chớ không có chán nản. Đem lại nguồn vui tức là nguồn an 
      ổn, phấn khởi, vui tươi. Người tu lâu có hiệu lực thì không buồn mà vui. 
      Nếu tu lôi thôi, nghĩ đến cái được cái mất thì còn vui buồn. Thật tình tu 
      có đạo lực thì được an ổn, ít có buồn vui.  
      
                  
      Tất cả chúng ta từ Tăng Ni đến Phật tử nam nữ phải nỗ lực tu làm sao mỗi 
      ngày mỗi bớt khổ mới gọi là thật tu. Nếu tu mà càng ngày càng chồng chất 
      thêm đau khổ, đó chưa phải là biết tu. Tu có nghĩa là giải khổ, chớ không 
      phải tu để thêm khổ. Giải khổ gọi là biết tu, chưa giải khổ được chút nào 
      đó là chưa biết tu. Dù ở chùa dù học đạo nhiều năm mà chưa bớt khổ, cũng 
      chưa phải là biết tu, đó là điều chúng tôi xác nhận rõ ràng như vậy. 
      
                  
      Chúng ta học đạo cốt làm sao cho hết khổ. Với tinh thần Thiền tông, muốn 
      hết khổ là phải nhận ra hòn ngọc báu của mình hay là nhận được Pháp thân. 
      Chúng tôi nhắc lại câu chuyện của ngài Cảnh Thanh. Ngồi trong am với chú 
      thị giả, Ngài nghe ở bên ngoài có con rắn bắt con nhái, con nhái kêu ẹo 
      ẹo. Ngài hỏi chú thị giả: “Tiếng gì ở ngoài?” Chú thị giả thưa: “Tiếng rắn 
      bắt nhái, nhái kêu.” Ngài nói: “Chúng sanh khổ, lại có khổ chúng sanh.” Ý 
      nghĩa làm sao? Cái nào là chúng sanh khổ, cái nào là khổ chúng sanh? Con 
      nhái bị con rắn bắt, đó là chúng sanh khổ. Còn khổ chúng sanh là ai? Là 
      chú thị giả hay là ai? Hay là người quên mình theo vật? Ai quên mình theo 
      vật thì người đó khổ, đó là khổ chúng sanh. Ngay nơi mình có hòn ngọc báu 
      mà lúc nào chúng ta cũng quên nó, mãi chạy theo âm thanh sắc tướng bên 
      ngoài, cho nên bị vô thường chi phối, do đó chúng ta khổ. Khi nghe tiếng 
      chỉ biết tiếng mà không nhớ mình, khi thấy cảnh chỉ biết cảnh mà không nhớ 
      mình. Vì vậy cảnh khổ gọi là chúng sanh khổ, quên mình đó là khổ chúng 
      sanh. Khi ngài Cảnh Thanh hỏi, muốn không bị Ngài nói là khổ chúng sanh, 
      chúng ta phải đáp thế nào để thế cho chú thị giả? Nếu có mặt nơi đó, chúng 
      tôi sẽ nói thế: 
      
      
                              Quan Âm diệu trí lực 
      
      
                              Năng cứu chúng sanh khổ. 
      
                  Để 
      kết luận buổi nói chuyện hôm nay, chúng tôi dẫn một bài kệ bằng chữ Hán 
      của Thiền sư Chân Nguyên vào đời Lê ở Việt Nam: 
      
      
                              Nhất tánh viên minh cá cá đồng 
      
      
                              Bao la thiên địa tổng hư không 
      
      
                              Ngã kim trực chỉ Tây lai ý 
      
      
                              Tâm tịch linh tri thị chánh tông. 
      
                  
      Nhất tánh viên minh cá cá đồng: một tánh tròn sáng mỗi người ai cũng đồng 
      có sẵn như vậy. Bao la thiên địa tổng hư không: tánh tròn sáng ấy bao trùm 
      cả trời đất và hư không. Nếu thấy được tánh bao la ấy thì thân này thật là 
      bèo bọt không đáng kể. Ngã kim trực chỉ Tây lai ý: nay tôi nhắm thẳng ý 
      Tây lai, tức là ý của Tổ sư từ Ấn Độ sang. Tâm tịch linh tri thị chánh 
      tông: câu kết thúc này thật là quá hay. Tâm tịch, chữ tâm là tâm đầu như 
      đoạn trước tôi đã nói. Khi những tâm vọng tưởng phân biệt lặng xuống rồi, 
      còn cái linh tri tức là cái biết sáng suốt không phân biệt, đó là chánh 
      tông mà Bồ-đề-đạt-ma đem sang. 
      
                  
      Bản dịch: 
      
      
                              Một tánh sáng tròn mỗi mỗi đồng, 
      
      
                              Bao trùm trời đất cả hư không, 
      
      
                              Nay ta nhắm thẳng Tây lai ý, 
      
      
                              Lòng vắng biết thiêng ấy chánh tông. 
      
                  
      Chúng ta tu thiền thấy ý Tổ sư từ Ấn Độ sang rõ ràng bằng một câu kết 
      thúc: Lòng vắng biết thiêng ấy chánh tông. 
      
                  
      Quí vị ráng ứng dụng như vậy thì một đời tu của chúng ta không uổng phí. 
      
      NAM-MÔ BỔN 
      SƯ THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT. 
      
      ]  |