ĐÊM TRỪ TỊCH 
      
      
      
      NĂM GIÁP DẦN 1974 
      
                  
      Tổng kết lại, chúng ta sống ở thời chiến tranh, mà hôm nay đến ngày Tất 
      niên lại được sum họp ngồi tại Thiền đường ấm cúng này, nói chuyện đạo. 
      Thật là hi hữu. 
      
                  Có 
      lẽ đây cũng là một sự gia hộ của Tam Bảo, khiến chúng ta được sống trong 
      cảnh an lành không lo sợ. Hoàn cảnh xã hội không làm chúng ta phải buồn 
      rầu đau khổ. Nhất là Tăng Ni đã có thiện duyên chung ở tại Thiền viện để 
      tu học thì thực là quí báu. Còn quí Phật tử nam nữ cũng vậy, tôi thấy rằng 
      lý đáng ngày ba mươi quí vị phải ở tại nhà để rước ông bà, đoàn tụ với gia 
      đình. Quí vị mến đạo cho đến nỗi phải hy sinh cái vui riêng của gia đình 
      mà đến đoàn tụ ở trong đại gia đình Phật pháp như thế này, thật là hi hữu. 
      Tinh thần đó càng đáng được khích lệ. Cho nên chúng tôi thấy rằng con 
      đường hướng dẫn chỉ dạy đó là do Tam Bảo gia hộ khiến cho Phật pháp được 
      miên viễn. Nếu chúng tôi làm được việc gì gọi là hợp thời và giúp cho quí 
      vị đường lối tu hành thì những cái đó đều là sự gia hộ của Tam Bảo hết. 
      
                  
      Tôi thường nói với Tăng Ni câu này: Chúng ta chỉ không lo cố gắng, chớ 
      chúng ta thật tình cố gắng tu hành, nhất là đem hết tâm tư phục vụ Phật 
      pháp thì Tam Bảo không bao giờ bỏ quên chúng ta. Điều đó tôi tin tưởng và 
      quả quyết như vậy. Mà chính vì điều đó nên tôi nói rằng, hiện giờ chúng ta 
      đang ngồi nói chuyện đây Tam Bảo cũng có mặt với chúng ta, Long thiên hộ 
      pháp không bao giờ bỏ chúng ta. Điều đó có lẽ quí vị cũng phải tin phần 
      nào qua kinh nghiệm của tôi. Trong Thanh qui chúng tôi có để câu: “Tăng Ni 
      trong Thiền viện nếu hết gạo thì phải thay phiên nhau xuống núi để xin về, 
      đi trong vòng ba ngày, nếu hết nữa thì đến người khác.” Vì sao tôi để câu 
      đó? - Vì tôi chủ trương rằng từ ngày tôi lập Thiền viện là tôi dứt khoát 
      không cho Tăng Ni đi đưa đám ma và không đi dự những buổi cúng kính của 
      Phật tử tổ chức ở nhà. 
      
                  Có 
      một số Tăng Ni nói với chúng tôi rằng: “Trong thời này mà không đi cúng 
      thì Tăng Ni sẽ nhịn đói.” Đã nghe nói như vậy mà tôi thì quả quyết sẽ cách 
      mạng điều đó. Vì đã giải quyết như vậy, cho nên tôi mới ghi câu đó trong 
      Thanh qui Thiền viện. Không cho đi cúng lẽ dĩ nhiên thì người ta không 
      cúng, nguời ta không cúng thì nhịn đói chớ gì? Nếu đến giờ phút chót mà 
      hết gạo thì phải thay phiên nhau đi xin. Nhưng suốt thời gian qua, chúng 
      tôi chưa thấy lúc nào ở trong kho hết gạo. Nếu không phải Tam Bảo gia hộ 
      thì làm sao được như vậy. Chẳng phải do Tam Bảo gia hộ, do nhiệt tình của 
      Phật tử thì làm sao mà có. 
      
                  Vì 
      lẽ đó, tôi tin rằng sức gia hộ của Tam Bảo rất mạnh, và lòng thành tín của 
      Phật tử rất tốt. Cho nên chỉ lo cho Tăng Ni chúng ta thiếu đức, thiếu hạnh 
      không cố gắng tu hành chớ đừng lo Phật tử bỏ sót chúng ta. Đó là điều tôi 
      thường nói, thường nhắc trong giới Tăng Ni. 
      
                  
      Bây giờ để thấy rõ rằng hôm nay là ngày cuối năm, chúng ta ai nấy nên 
      trình bày điều thấy được, những biến động tâm tư của chính mình. Những 
      biến động đó so lại thời quá khứ thì có thể có tiến triển, nhưng đem bì 
      với các bậc thiện trí thức của quá khứ, thí dụ như Sư tổ hay các vị Thiền 
      sư thuở trước thì mình vẫn phải hổ thẹn vì mình chưa được bao nhiêu. 
      
                  
      Căn cứ trên thời gian chúng ta phân biệt mùa Đông, mùa Xuân, nên bây giờ 
      chúng ta mới có lễ Tất niên, uống trà trừ tịch. Theo thời gian phân định 
      là thế tục đế, chớ không phải là chân đế. Hôm nay tôi đem việc thế tục đế 
      để nói thế tục đế, nhưng cũng là đạo lý để rồi cùng khuyên nhắc cho tất cả 
      quí vị thấy được ý nghĩa ngày cuối năm của chúng ta nó quan trọng như thế 
      nào. Tôi xin nhắc lại câu chuyện hôm rồi tôi có thuật lại ở Linh Quang cho 
      quí vị nghe. Một buổi sáng sau giờ ngồi thiền, tôi xả thiền xoa bóp xong, 
      ngồi lại một tí cho thật hết hơi nóng. Khi ấy chú thị giả lên dọn dẹp, tôi 
      vén mùng ra hỏi chú: 
      
                  - 
      Ngày hôm qua đâu rồi? 
      
                  
      Chú nhìn tôi không trả lời. Tôi nói tiếp: 
      
                  - 
      Tôi không muốn sống ngày nay, tôi muốn sống trở lại ngày hôm qua. Chú đem 
      ngày hôm qua cho tôi. 
      
                  
      Chú thị giả cũng làm thinh không trả lời được câu hỏi đó. 
      
                  
      Một lát sau, tôi muốn dễ dàng cho chú một chút, tôi nói rằng: 
      
                  - 
      Hôm nay chú dọn chén này đũa này, coi như chú dọn chén mới đũa mới. Nếu 
      bây giờ tôi đòi chú đưa chén đũa cũ ngày hôm qua, thì chú phải làm sao? 
      
                  
      Chú nói: 
      
                  - 
      Thì con sẽ đi đổi lại cái ngày hôm qua cho Thầy. 
      
                  
      Tôi nói tiếp: 
      
                  - 
      Như vậy tại sao tôi không muốn sống ngày nay, tôi đòi ngày hôm qua mà chú 
      không đổi lại cho tôi? 
      
                  
      Chú thị giả nói: 
      
                  - 
      Ngày hôm qua là giả là mộng không thật. 
      
                  
      Tôi tiếp: Nếu ngày hôm qua là mộng, ngày nay tôi bắt đầu sống đây, đây 
      cũng là mộng nữa hay sao? Ngày hôm qua là mộng, ngày nay là mộng, ngày mai 
      cũng là mộng nữa sao? Như vậy suốt đời chỉ là mộng phải vậy không? 
      
                  
      Chúng ta cứ lần bằng xâu chuỗi mộng. Một ngày qua kẽ tay rồi mất, một ngày 
      khác qua rồi mất, mất, mất... cho tới cùng hết một xâu chuỗi. Như vậy cả 
      cuộc đời của con người toàn là xâu chuỗi mộng không có gì khác hơn. 
      
                  
      Hôm nay là ngày cuối năm, ngày mai là ngày đầu năm mới. Nếu chúng ta cứ 
      cho là ngày đầu năm đó sẽ diễn tả bằng một năm mà chúng ta không bằng 
      lòng, không vui, không ưng sống với năm đó, sống trở lùi với năm cũ thì có 
      được không? 
      
                  
       Chắc rằng không ai trở lùi lại được. Cái quá khứ đã qua, qua mất rồi, thì 
      cái hiện tại sắp đến đây, đến rồi cũng mất. Như vậy ba thời đều mất. Đã 
      mất thì nó không thật. Nếu ta kiểm điểm lại kỹ từ thủy chí  chung, thì đó 
      là một dòng thời gian hư ảo không thật. Bởi không thật nên chúng ta thấy 
      nó là mộng huyễn, qua rồi không tìm lại được. Thế mà chúng ta cứ lăn xả 
      người vào cái hư giả đó tưởng nó là thật. Cả một cuộc đời tạo cái này cái 
      kia không dừng. Rồi tới phút chót, ngày mà hơi thở dứt đi chúng ta sẽ ra 
      sao? Kiểm điểm lại mình, nhớ cuộc đời năm mươi tuổi, sáu mươi tuổi, bảy 
      mươi tuổi đã qua. Đó là cái gì? Thực là một chuỗi mộng. Thực vậy, dòng 
      thời gian là một xâu chuỗi mộng, không có cái gì hết. Mà kiếp sống chúng 
      ta lại là một kiếp sống qui định bởi thời gian theo số năm sáu mươi, bảy 
      mươi v.v... Như vậy rõ ràng thời gian không thật, nó là hư giả. Thời gian 
      không thật thì con người chúng ta có thật hay không? Cũng không thật luôn. 
      Nhớ năm ngoái tóc tôi bạc ít, năm nay tóc tôi đã bạc nhiều, răng tôi năm 
      ngoái lung lay ít, năm nay lung lay thêm. Cứ như vậy, khi thời gian trôi 
      thì bản thân chúng ta cũng bị tiêu mòn theo đó. Nếu căn cứ vào hiện tại, 
      từ con người cho đến sự vật chung quanh mình  đều theo dòng thời gian mà 
      biến đổi, sanh diệt từ phút, từ giây, từ sát-na, không dừng lại ở đâu hết. 
      Chúng ta thấy rõ ràng là dòng thời gian hư ảo. Nó đã chi phối hết cả cuộc 
      sống hiện tại của chúng ta, từ thân mình cho đến ngoại cảnh. Không có cái 
      gì không bị chi phối. Khi dòng thời gian đã hư ảo thì kiếp sống của con 
      người cũng hư ảo, sự vật chung quanh cũng là hư ảo. Như vậy có thể kết 
      thúc là: Chúng ta lần bằng những xâu chuỗi mộng, những hạt chuỗi mộng. 
      Từng tháng từng năm, chúng ta mặc chiếc áo mộng đan dệt bằng những sợi tơ 
      mộng. Chung quanh chúng ta toàn là mộng, mà không hay. Chúng ta lỡ sống 
      như vậy rồi mà lại đua nhau giành giật danh lợi tài sắc. Rồi trong cái 
      mộng đó, tạo không biết bao nhiêu đau khổ huyết lệ của chúng sanh. Đó là 
      vì chúng ta không biết cuộc đời là ảo mộng. Nếu hôm nay chúng ta thấy rằng 
      chúng ta sống trong một chuỗi mộng, mặc với những chiếc áo mộng thì còn gì 
      mà đắm mê tham luyến cảnh mộng ấy nữa. Thân mình và ngoại cảnh là không 
      gian, ba thời quá khứ hiện tại vị lai là thời gian. Tất cả là một dòng 
      mộng có gì đâu thật là mình. Lâu rồi chúng ta cứ mê lầm tưởng là thật, rồi 
      tính thời gian để định số tuổi, hãnh diện sống dài ngắn v.v... Lượm lặt 
      những sự vật vô thường ở chung quanh, cho đó là sự việc của mình. Kiểm 
      điểm lại chỉ là lần chuỗi mộng mặc áo mộng mà thôi. Đó là chỗ thấy của 
      chúng tôi. 
      
                  
      Nhưng mà nếu tất cả thời gian là mộng, không gian là mộng, thì rồi chúng 
      ta chìm luôn trong mộng đó hay sao? Hay còn một cái gì nữa? Nếu chúng ta 
      cứ thấy thời gian trôi qua là mộng, cuộc sống mình sự vật chung quanh mình 
      cũng là mộng, thì lúc đó chúng ta sẽ đi mãi trong cái sanh diệt hư ảo mộng 
      huyễn rồi tuyệt vọng sao? Nhưng nhờ phúc duyên lành, chúng ta được đức 
      Phật chỉ cho trong cái mộng ấy có cái không phải là mộng. Mà cái đó là cái 
      hiện giờ chúng ta đang trở về đang theo dõi nó và tìm thấy nó, để sống với 
      nó. Như vậy trong cái mộng chúng ta còn thấy cái không phải mộng. Thời 
      gian không gian đều là mộng. Cái không phải là mộng đó đối với toàn thể 
      mộng này nó có giá trị biết là bao! Vì vậy khi chúng ta thấy đang bị cái 
      hư ảo huyễn mộng chi phối thì đồng thời cũng nhận thấy chúng ta còn có cái 
      không phải hư ảo, không phải huyễn mộng luôn có mặt với chúng ta. Điều đó 
      rất đáng mừng! Mừng cho mình, nhưng khi mừng cho mình chừng nào lại thương 
      cho những người đang lao mình trong mộng ấy rồi tạo nghiệp ác, gây khổ 
      đau. Thật đó  là những người đáng cho chúng ta thương xót. 
      
                  Vì 
      vậy cho nên khi chúng ta nhớ đến mình biết kiếp người là ảo mộng, tìm thấy 
      một cái gì nó thoát ra ngoài vòng ảo mộng đó, chúng ta nương tựa nó, trở 
      về nó để được an lành. Chúng ta càng thương xót thấm thía đối với những 
      người đang lao mình trong mộng mà tự họ không thức tỉnh. Chính cái nhìn đó 
      mà một Thiền sư Việt Nam đã diễn đạt tâm tư bằng những câu thơ, để cho bao 
      nhiêu nhà văn nhà thơ Việt Nam nhắc lại mãi không quên. Thiền sư Mãn Giác 
      đã nói: 
      
      
                              Xuân khứ bách hoa lạc 
      
      
                              Xuân đáo bách hoa khai 
      
      
                              Sự trục nhãn tiền quá 
      
      
                              Lão tùng đầu thượng lai 
      
      
                              Mạc vị Xuân tàn hoa lạc tận 
      
      
                              Đình tiền tạc dạ nhất chi mai 
      
                  
      Dịch: 
      
      
                              Xuân đi trăm hoa rụng 
      
      
                              Xuân đến trăm hoa cười 
      
      
                              Trước mặt việc đi mãi  
      
      
                              Trên đầu già đến rồi 
      
      
                              Chớ bảo Xuân tàn hoa rụng hết 
      
      
                              Đêm qua, sân trước một cành mai 
      
                  
      Hai câu đầu thạât tình diễn tả Xuân đến Xuân đi, là dòng thời gian. Hai 
      câu kế nói bách hoa lạc, bách hoa khai là những sự vật hiện có trong không 
      gian này. Như vậy thời gian và không gian là một dòng sinh diệt ảo mộng. 
      Khi thời gian không gian trôi theo dòng ảo mộng đó thì con người mình như 
      thế nào? Tức là liền thấy chính mình nhìn thời gian trôi và tưởng như mình 
      không mắc kẹt ở trong ấy. Đâu ngờ ngó lên đầu mái tóc đã bạc phơ. Như vậy 
      thời gian trôi đi, không gian biến đổi thì, chính mình theo đó mà đổi thật 
      là bi đát, nếu cuộc đời chỉ có ngang chừng ấy thôi. Nhưng mà không bi đát 
      lắm với đôi mắt của Thiền sư vì “Mạc vị Xuân tàn hoa lạc tận. Đình tiền 
      tạc dạ nhất chi mai.” Đừng bảo rằng mùa Xuân hết thì hoa rụng hết. Đêm qua 
      là đêm mùa Đông vẫn còn có một cành mai nở trắng ở trước sân chùa mình. Rõ 
      ràng trong cái tàn hoại ảo mộng còn có một cái gì thầm kín đẹp đẽ trường 
      tồn mãi. Đó là một cành mai. Một cành mai của Thiền sư Mãn Giác tức là cái 
      gì Phật đã nói trong kinh Lăng Nghiêm, đó là “Chân Tâm” hay là Như Lai 
      Tạng tánh của chúng ta. Hoặc ở chỗ khác trong kinh Pháp Hoa, đức Phật dụ 
      là “Hòn ngọc quí” đang buộc trong chéo áo. 
      
                  
      Như vậy đối với người tu, nhất là khi chúng ta hiểu được chút ít về Thiền. 
      Nếu chúng ta sống với tâm niệm Thiền thì mới thấy rằng trong cái sanh diệt 
      ảo mộng, còn có cái không sanh diệt lẫn trong ấy. Thế nên lòng mình được 
      an ổn, tự tại và vui vẻ. Chỉ thấy được một tí, một khía cạnh nhỏ xíu nào 
      của cái đó, chúng ta cũng cảm thấy có hứng khởi, một niềm vui vẻ để xóa 
      được nỗi đau buồn, những cái tối tăm thời quá khứ. Thấy được một tí thôi 
      mà chúng ta cũng có một niềm an lạc rồi, huống nữa là toàn thể bản tâm ấy. 
      Nếu chúng ta thực hiện nó toàn vẹn thì đẹp biết chừng nào. Vì vậy chúng 
      tôi tin rằng với sự cố gắng mãnh liệt của tất cả chúng ta ai nấy rồi đều 
      có một ngày sẽ vỗ tay cười, cười quên thôi như Hòa thượng Thủy Lạo. Sau 
      khi bị một đạp của Mã Tổ vào hông, Ngài cười cho đến mãn đời không thôi. 
      Do đó cái vui trong đạo, trong cuộc đời đen tối ảo mộng đó mà mình tìm 
      được cái gì nó thoát ra ngoài, chẳng khác nào ở trong đêm tối mà mình thấy 
      hay nắm một ngọn đèn sáng, thật còn gì vui sướng cho bằng. Cho nên đó là 
      nguồn vui vô tận đối với người hiểu đạo, học đạo. Cái vui đó không phải để 
      rồi hưởng riêng mà phải ban rải cho mọi người cùng vui với chúng ta. Đó là 
      tâm niệm triền miên của người tu hành. Nhưng muốn hưởng được mùi thơm hoa 
      mai, cành mai của ngài Mãn Giác nói, có dễ dàng cho chúng ta hay không, 
      hay phải chịu cay đắng nhọc nhằn lắm mới hưởng được. Tôi xin nhắc lại bài 
      kệ của Tổ Hoàng Bá, Ngài đã bảo: Chúng ta muốn ngửi mùi hoa mai đó phải 
      làm sao? Ngài nói: 
      
      
                              Trần lao quýnh thoát sự phi thường 
      
      
                              Hệ bả thằng đầu tổ nhất trường 
      
      
                              Nhược bất nhất phiên hàn triệt cốt 
      
      
                              Tranh đắc mai hoa phốc tỷ hương 
      
                  
      Dịch: 
      
      
                              Thoát trần việc ấy rất phi thường 
      
      
                              Nắm chặt đầu dây giữ lập trường
      
      
                              Nếu chẳng một phen xương thấm lạnh 
      
      
                              Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương 
      
                  
      Thật tình, khi chúng ta muốn ra khỏi vòng ảo mộng ấy, dĩ nhiên chúng ta là 
      kẻ phi thường. Tại sao? Vì mọi người đang lao mình trong mộng mà không 
      biết là mộng, rồi chìm đắm, rồi say sưa, rồi tạo nghiệp khổ cho nhau. Đó 
      là người sống trong vô minh trong mờ tối. Bây giờ chúng ta đã thấy được đó 
      là vòng vô minh, đen tối muốn thoát ra khỏi nó, thì đối với những người 
      kia chúng ta chẳng “phi thường” là gì? Bởi muốn làm kẻ phi thường, chúng 
      ta phải làm sao? Phải nắm vững đầu mối dây, đừng bao giờ cho nó lay chuyển 
      lập trường của mình từ thủy chí chung. Nói từ thủy chí chung thì xa quá, 
      tôi muốn nói lập trường của Tăng Ni hay Phật tử, kể từ khi chúng ta có 
      được cái duyên biết đạo vị của Phật, kể từ đó cho đến bao giờ chúng ta đạt 
      đạo mới thôi. Lập trường đó không bao giờ lay, nghĩa là nắm vững. Tôi tin 
      rằng với lập trường đó ai nấy cũng đều ngửi được mùi thơm của hoa mai. Thế 
      nên Ngài nói nắm vững lập trường để sau này dù gặp những cái khó khăn, khổ 
      não, nhọc nhằn những chướng gì chúng ta cũng đều qua hết. Có qua như vậy 
      ta mới đi đến chỗ đẹp đẽ an lành đúng theo sở nguyện. Tức là ngửi được mùi 
      thơm của hoa mai. Để diễn tả cái đen tối, cái khổ đau, cái chịu đựng cay 
      đắng đó, Ngài mới nói rằng: Nếu không phải bị sương tuyết lạnh thấu xương 
      thì làm sao có ngày ngửi được mùi thơm của hoa mai. Hình ảnh hoa mai và 
      tuyết sương mượn ở bên ngoài, nói lên sự cay đắng khó khăn của người tu. 
      Do sự cay đắng khó khăn đó mà chúng ta đi đến chỗ tột cùng, nếu giữ lập 
      trường không lay chuyển. Sau khi qua cái cay đắng tột cùng rồi, chúng ta 
      sẽ được cái an lành vô thượng, đó là ngửi mùi thơm của hoa mai. Thành ra 
      hoa mai của Tổ Hoàng Bá nói cũng là hoa mai của Thiền sư Mãn Giác. Hai vị 
      đó đều mượn hình ảnh mùa đông đen tối để chỉ cho chúng ta rằng còn có một 
      cành hoa mai thơm ngát mũi cuối mùa Đông. Với một cố gắng phi thường thì 
      chắc chắn rồi ai cũng hưởng được hương vị nó. Phải gan dạ chịu qua một mùa 
      Đông lạnh buốt mới có thể ngửi được mùi thơm của hoa mai. Vì vậy tôi có 
      thể kết thúc câu chuyện rằng, nếu tất cả mọi người chúng ta ai nấy đều có 
      thiện chí quyết tiến lên không mắc kẹt trong cuộc đời ảo mộng nữa, thì 
      chúng ta phải gan dạ chịu đựng, bởi vì chúng ta đi ngược dòng sanh tử. 
      Dòng sanh tử giống như một dòng nước lũ quá mạnh. Người nào không gan dạ 
      không vững bền thì sẽ bị nó cuốn phăng đi. Vì vậy mỗi người phải gan dạ, 
      vững vàng để vượt lên, đừng để cuốn đi. Như thế chúng ta mới có thể ra 
      khỏi dòng nước lũ đó. Đó là chỗ thiết yếu mà mọi người chúng ta, xuất gia 
      cũng như tại gia, muốn đi ngược dòng đời ảo mộng của thời gian, không gian 
      đều phải cố gắng. 
      
                  
      Tóm lại, tôi đã kết thúc bằng một đáp số rõ ràng cho quí vị thấy cuộc đời 
      tu hành của chúng ta là phải như vậy. 
      
      ]
       |