| 
       
      
      PHẬT PHÁP THIẾT THỰC, HIỆN TẠI, 
      
      
      KHÔNG CÓ THỜI GIAN, ĐẾN ĐỂ MÀ THẤY... 
      
      
      XUÂN BÍNH DẦN 1986 
      
                  
      Nhân ngày Tết Nguyên Đán, chúng tôi có ít lời với quí Tăng Ni và Phật tử 
      về đề tài hơi dài một chút để ứng dụng trong việc tu hành, là: PHẬT PHÁP 
      THIẾT THỰC, HIỆN TẠI, KHÔNG CÓ THỜI GIAN, ĐẾN ĐỂ MÀ THẤY... 
      
                  
      Phần đông chúng ta có quan niệm sai lầm về đạo Phật, thường nghĩ rằng đạo 
      Phật nói những điều gì huyền bí cao siêu, khó hiểu, khó thấy, nhưng không 
      ngờ đạo Phật lại rất thực tế, là mời chúng ta “đến để mà thấy”. Đầu đề này 
      không phải tự ý tôi nêu lên, đây là tôi dẫn trong kinh hệ Pali, đầu đề 
      không phải mới đặt mà có sẵn từ thuở nào. 
      
                  
      Trong thời Phật tại thế, có một người ngoại đạo tên Sivaka đến hỏi Phật: 
      “Phật pháp là thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy..., 
      như  vậy làm sao chứng minh được nghĩa đó?” Đức Phật trả lời: “Nếu nội tâm 
      có tham, ông có biết ‘nội tâm ta có tham’; nội tâm không có tham, ông có 
      biết ‘nội tâm ta không có tham’ chăng?” Ông Sivaka thưa: “Thưa có.” Phật 
      bảo: “Này Sivaka, nội tâm có tham, ông có biết ‘nội tâm ta có tham’, nội 
      tâm không có tham, ông có biết  ‘nội tâm ta không có tham’. Như vậy này 
      Sivaka  ‘pháp là thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà 
      thấy’...” Nghe lời Phật dạy quí vị nghĩ thế nào? Nếu nội tâm tham, ta biết 
      nội tâm có tham, nội tâm không tham, ta biết nội tâm không tham. Như vậy 
      nội tâm có tham là có khổ, nếu dứt lòng tham của nội tâm, nội tâm hết tham 
      thì hết khổ. Thế là pháp Phật dạy chúng ta tu như thế nào? Khổ là do nội 
      tâm có tham, muốn hết khổ thì phải dùng phương pháp tiêu diệt lòng tham 
      của nội tâm. Nội tâm hết tham thì thân này sẽ hết khổ. Như vậy pháp Phật 
      dạy rất thiết thực. Nó không có thời gian nghĩa là mình có tham biết có 
      tham, khi hết tham biết hết tham, không phải đợi tới hai giờ hay ba giờ 
      mới biết hết tham, có thì biết có, không thì biết không, biết rõ ràng 
      không đợi thời gian. Người tu Phật đến để mà thấy rõ pháp Phật dạy, do 
      mình thấy có tham, rồi cũng do mình thấy hết tham. Đó là sự thật do mình 
      thấy được, chớ đâu phải do lòng tin. Đến để mà thấy thì đâu có đặt lòng 
      tin lên trên. Chúng ta thấy rõ “Phật pháp là thiết thực, hiện tại, không 
      có thời gian, đến để mà thấy...” 
      
                  
      Bởi chúng ta có tham nên chúng ta có khổ, bởi có khổ nên bây giờ chúng ta 
      tu để diệt lòng tham. Khi lòng tham hết rồi chúng ta biết lòng tham hết 
      thì chúng ta cũng hết khổ. Đó là một lẽ thật cụ thể không có nghi ngờ gì 
      nữa. Chính chúng ta nhận biết ngay nơi nội tâm mình, không có người thứ 
      hai chen vào biết thế mình được. Chúng ta có nên đi coi đồng, coi bóng, 
      soi căn, soi cơ hay không? Coi tôi tu chừng nào hết khổ? Vì mình biết có 
      tham là có khổ, hết tham là hết khổ, chính mình biết rõ ràng như vậy, 
      không do ai biết thế mình được, nên nói: “Phật pháp là thiết thực, là 
      không có thời gian, là đến để mà thấy.” 
      
                  
      Đến phần thứ hai Phật nói thêm: “Nội tâm có sân, ông có biết ‘nội tâm ta 
      có sân’, nội tâm không sân, ông có biết ‘nội tâm ta không sân’. Như vậy 
      này Sivaka pháp là thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà 
      thấy...” Khi nào quí vị nổi sân, quí vị có thấy “ta nổi sân” không? Khi 
      nào quí vị tu, quí vị hết sân, quí vị có thấy “ta hết sân” không? Có sân 
      là có khổ, vì sân thì tạo cảnh khổ. Hết sân thì bớt khổ, có phải vậy 
      không? Như vậy “Phật pháp là thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến 
      để mà thấy” chớ không phải là chuyện vu vơ mơ màng ở đâu. 
      
                  
      Phật nói tiếp: “Nội tâm có si, ông có biết ‘nội tâm ta có si’, nội tâm 
      không si ông có biết ‘nội tâm ta không si’ v.v...” Cuối cùng Phật nói: 
      “Nội tâm có tham pháp, có sân pháp, có si pháp, ông có biết:  ‘nội tâm ta 
      có tham pháp, có sân pháp, có si pháp’ v.v... Như vậy này Sivaka, ‘pháp là 
      thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy’...” 
      
                  
      Qua bài kinh trích dẫn rất ngắn đó, chúng ta thấy rõ ràng Phật pháp là 
      thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, chớ không phải 
      chuyện mơ màng huyền viễn gì. Đức Phật chỉ thẳng việc tu của Tăng Ni và 
      toàn thể Phật tử là thiết thực, chúng ta tu được bao nhiêu thì thấy rõ bấy 
      nhiêu. Ngày xưa khi gặp những việc trái tai gai mắt chúng ta nổi sân lên, 
      nào là cãi nhau, đánh nhau v.v... tạo bao nhiêu điều khổ! Nhưng bây giờ 
      khi biết tu rồi cái sân giảm, dù gặp những việc trái tai gai mắt nhưng 
      lòng mình chẳng sân, mình biết rõ ràng là mình không sân, không sân thì 
      không khổ, có phải vậy không? Như vậy Phật pháp cốt chỉ chúng ta tu để 
      diệt cái khổ trong hiện tại, chúng ta tu được bước nào là biết kết quả của 
      bước nấy, đó là chuyện cụ thể rõ ràng, chớ không phải mơ màng viển vông ở 
      đâu. Vì chúng ta thiếu nhận định sáng suốt nên đâm ra mơ màng vu vơ... 
      Thật đáng thương cho bao nhiêu người học Phật mà không ứng dụng đúng tinh 
      thần đạo Phật! Khi gặp việc khổ cứ lo tụng cầu mãi, thử hỏi bao giờ hết 
      khổ. Khi gặp tai nạn cứ lo tụng cầu an, cầu an như vậy có bảo đảm hết tai 
      nạn hay không? Làm cứ làm mà không biết kết quả ra sao! Đức Phật đã dạy rõ 
      ràng nếu mình bỏ được cái dở nào thì có kết quả ngay cái đó, không phải 
      chuyện hoang đường huyền bí gì hết. Như vậy chúng ta thấy giá trị Phật 
      pháp đúng là một lẽ thật, không phải là chuyện xa xôi huyền ảo. Quả là 
      “Phật pháp là thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy...” 
      Đây là đoạn kinh được trích dẫn từ Tăng Chi Bộ Kinh. 
      
                  
      Đức Phật còn dạy chúng ta về lý vô thường. Con người và tất cả sự vật đều 
      vô thường, đó là một sự thật không thể chối cãi được. Ở thế gian này có 
      cái gì tồn tại mãi mãi, không đổi dời đâu? Cái gì rồi cũng bị đổi thay, 
      cũng bị luật vô thường chi phối, lý vô thường là một lẽ thật trước mắt, ai 
      ai cũng thấy, ai ai cũng chứng nghiệm được. Như vậy có phải Phật pháp 
      thiết thực, đến để mà thấy... chăng? 
      
                  
      Đức Phật dạy các pháp do nhân duyên sanh, quí vị có nhận thấy như vậy 
      không? Tỉ dụ cái nhà tự nó có, hay do nhiều nhân tố hợp lại? Cái bàn tự nó 
      có, hay do nhiều nhân tố khác hợp thành? Nói tóm lại không có một vật nào 
      tự nó thành hình, mà phải nhiều nhân tố hợp lại mới thành. Như vậy lý nhân 
      duyên sanh là một lẽ thật cụ thể. Nói nhân duyên sanh tức là nói nhiều 
      nhân tố hợp lại. Do nhiều nhân tố hợp lại, nên mới phân tích được, mà phân 
      tích là tinh thần khoa học. Nếu không phải nhân duyên hợp lại thì làm sao 
      phân tích, nếu là nguyên vẹn thì làm sao phân tích? Do nhân duyên hợp, cho 
      nên mới phân tích được đây là nhân tố A, đây là nhân tố B, C... Do nhiều 
      nhân tố A, B, C... hợp lại mới thành một vật thể; những vật thể có hình, 
      có tướng là do sự kết hợp của nhiều nhân tố, đó là thật tế, đó là hợp với 
      khoa học. Vì sao chúng ta lại nói khoa học là thật tế mà cho Phật học là 
      huyền bí viển vông? Phật học chính có tinh thần khoa học rõ ràng. Thật 
      đúng khi nói: “Phật pháp thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để 
      mà thấy...” Đây là tôi dẫn các giáo lý Phật dạy trong các bộ A-hàm, hay 
      các bộ Nikàya bên tạng Pali. 
      
                  
      Đi xa hơn một chút nữa, đi vào giáo lý Đại thừa, hay là đi thẳng vào Thiền 
      tông, chúng ta sẽ thấy Phật pháp càng thiết thực hơn. Thường người ta hay 
      phê phán “Đại thừa nói chuyện trên trời, trên mây”. Nhưng sự thật giáo lý 
      Đại thừa rất là thiết thực. Trong Thiền tông mỗi khi các vị đi tham cứu du 
      học, các Thiền sư thường bảo rằng: “Hãy nhìn lại gót chân của các ông.” 
      Việc ở dưới gót chân là gần hay xa? Chỉ ở gần một bên thôi mà chúng ta 
      quên. Cho nên khi học Phật nếu chúng ta không có một cái nhìn thấu đáo thì 
      dễ bị lạc lầm. Những ngôn ngữ, những danh từ của giáo lý Đại thừa hay 
      Thiền tông có vẻ huyền bí khó hiểu, khiến cho chúng ta nhận lầm. Những câu 
      chuyện trong kinh điển Đại thừa như kinh Pháp Hoa, kinh Lăng Nghiêm, những 
      chuyện ấy rất là thiết thực, chỉ thẳng ngay nơi con người mình cái thiết 
      thực cụ thể mà ngàn đời mình quên, đó là “Phật tại đầu tâm”, đâu có xa xôi 
      gì! Đâu phải là chuyện thành Phật ở trên trời trên mây! Nhưng vì chỉ một 
      cái không hình, không tướng nên chúng ta khó hiểu khó nhận. 
      
                  
      Như hiện giờ, hằng ngày chúng ta nghĩ tới ăn, nghĩ tới mặc, nghĩ tới ở, ăn 
      mặc ở để làm gì? Để nuôi dưỡng thân này cho sống còn, có phải vậy không? 
      Nhưng có một cái thiết thực hơn ăn, hơn mặc, hơn ở mà chúng ta có nhớ có 
      lo cho nó bao giờ đâu! Đó là cái gì? Đó là hơi thở, hiện giờ chúng ta đang 
      thở phải không? Thiếu ăn mấy ngày mới chết, còn thiếu thở chừng bao lâu 
      thì chết? Chỉ cần thở khì ra mà không hít vào là chết ngay! Vậy mà chúng 
      ta có lo nghĩ đến nó bao giờ! Có khi nào chúng ta nhớ mình đang thở không? 
      Đâu có nhớ, vì nó sẵn quá rồi nên chúng ta quên, chỉ nghĩ làm sao kiếm 
      những thức ăn cho ngon miệng, những vị có xúc cảm mạnh ở lưỡi, còn cái 
      thật tế cụ thể sẵn sàng không có rời một phút giây nào, chúng ta lại quên. 
      Như vậy hơi thở đối với mạng sống này là thiết yếu số một, còn việc uống 
      ăn mặc ở là thứ yếu, vậy mà chúng ta nhớ cái thứ yếu, còn cái chánh yếu 
      mình lại quên đi. Có người nào nói tôi tập thở cho đều, cho dài, cho nhẹ, 
      có không? Không có đâu! Cả ngày cứ xoay trở trong việc ăn, mặc, và ở mà 
      không bao giờ nghĩ đến hơi thở. 
      
                  
      Cũng vậy, hiện giờ chúng ta cứ nghĩ việc này phải, việc kia quấy, cái này 
      tốt cái kia xấu v.v... nghĩ hoài những chuyện bên ngoài, còn cái chân thật 
      ngay nơi mình, không bao giờ chúng ta nhớ đến. Bởi chúng ta không nhớ nên 
      chư Tổ phải nhắc đi nhắc lại mãi đến khô môi đắng lưỡi... 
      
                  
      Đến đây chúng tôi dẫn các câu chuyện trong Thiền tông để quí vị thấy điểm 
      đặc biệt của các Tổ khi xưa. Các Ngài chỉ cho chúng ta thấy cái thực tế cụ 
      thể trước mắt mình. Các Thiền sư thường hay nói: Cái đó ở trước mặt mà 
      mình không thấy. Thí dụ như cái lỗ mũi. Lỗ mũi ở trước mặt mà mình có thấy 
      rõ nó không? Có để ý thấy nó không? Chúng ta cứ lo thấy nhà, thấy cửa, 
      thấy người, thấy vật mà ít khi thấy cái lỗ mũi của mình. Lỗ mũi nằm sát 
      trước mặt mà chúng ta không thấy. Cũng như vậy cái chân thật hiện hữu ngay 
      nơi mình mà mình không nhớ, chỉ nhớ chuyện đâu đâu. 
      
                  
      Câu chuyện sau đây là của Thiền sư Bá Trượng, khi Ngài còn làm thị giả cho 
      Mã Tổ. Mã Tổ và Ngài đi dạo vườn, thấy một bầy vịt trời bay ngang: Mã Tổ 
      hỏi: “Cái gì đó?” Ngài thưa: “Dạ bầy vịt trời.” Mã Tổ hỏi: “Bay đi đâu?” 
      Ngài đáp: “Bay qua mất rồi.” Mã Tổ nắm lỗ mũi Ngài vặn mạnh một cái đau 
      điếng, Ngài la thất thanh, Mã Tổ bảo: “Sao không nói bay qua mất rồi!” 
      Ngay đó ngài Bá Trượng tỉnh ngộ. Đây là một câu chuyện rất lý thú trong 
      nhà thiền. Đến câu chuyện con rắn bắt con nhái, con nhái kêu ẹo ẹo, ngài 
      Cảnh Thanh hỏi thị giả: “Đó là tiếng gì?” Thị giả thưa: “Đó là tiếng rắn 
      bắt nhái, con nhái kêu.” Ngài bảo: “Chúng sanh khổ, lại có khổ chúng 
      sanh.” Ý Ngài muốn nói gì? Ngài muốn nói chúng ta chỉ nghe những tiếng bên 
      ngoài mà quên cái hay nghe của mình. Cũng như câu chuyện bầy vịt trời bay 
      qua, chúng ta chỉ thấy cái bay qua bay lại, còn mất bên ngoài mà quên cái 
      hiện hay thấy của mình, cho nên Mã Tổ vặn mũi ngài Bá Trượng một cái đau 
      điếng, Ngài la thất thanh, Tổ chỉ nói nhẹ một câu: “Sao không nói bay qua 
      mất đi.” Ngay đó ngài Bá Trượng thấy không mất. Như vậy chúng ta mới thấy 
      đặc tài của các Thiền sư, các ngài chỉ một cái thật sẵn có nơi mình, lỗ 
      mũi ở trước mắt mà không thấy, cũng như cái đó hiện hữu ở trước mình mà 
      mình không bao giờ nhớ, nên Tổ nắm lỗ mũi ngài Bá Trượng vặn một cái thì 
      Ngài liền tỉnh ngộ, biết được cái hiện hữu của mình, cũng như lỗ mũi ở 
      trước mắt vậy. 
      
                  
      Chúng tôi dẫn thêm một câu chuyện để quí vị biết rõ ý nghĩa cái lỗ mũi 
      trong nhà thiền. Thiền sư Tuyệt Chiêu đi xa về, ngài đăng tòa nói một bài 
      kệ: 
      
                              “Tương biệt nhất 
      hà cửu 
      
                              Tương phùng chỉ 
      cựu thời 
      
                              My mao phân bát tự 
      
                              Tỷ khổng đại đầu 
      thùy.” 
      
                  
      Dịch: 
      
                              Xa nhau chẳng lâu 
      mấy 
      
                              Gặp nhau chỉ thuở 
      xưa 
      
                              Lông mày hình chữ 
      bát 
      
                              Duỗi xuống mũi đầu 
      to. 
      
                  
      Theo chữ Hán đôi lông mày hở ở giữa, tượng trưng chữ bát (  ) còn lỗ mũi 
      đầu thon nằm trên, đầu lớn duỗi xuống. Như vậy lẽ thật không có xa, cũng 
      như chân mày và lỗ mũi ở gần bên nhau vậy. 
      
                  
      Xa nhau chẳng lâu mấy: xa nhau là thân này, là tướng mạo này. Gặp nhau chỉ 
      thuở xưa: cái chân thật thì trùm khắp, có xa gì nhau. Lông mày hình chữ 
      bát, duỗi xuống mũi đầu to: giống như cặp chân mày ở trên cái lỗ mũi vậy. 
      Như vậy chân mày gần kề bên lỗ mũi đâu có xa xôi gì. Lỗ mũi là tượng trưng 
      cho cái chân thật hiện hữu trước mắt mà mình không nhận, giống như cái lỗ 
      mũi trước mắt mà mình không thấy vậy. 
      
                  
      Chúng tôi nhắc lại một đoạn trong bài Vô Tướng Tụng của Lục Tổ: 
      
      
                              “Phật pháp tại thế gian 
      
      
                              Bất ly thế gian giác. 
      
      
                              Ly thế mích bồ-đề 
      
      
                              Khắp tợ tầm thố giác.” 
      
                  
      Phật pháp ngay trên thế gian, không thể lìa thế gian mà có sự giác ngộ. 
      Lìa thế gian mà tìm giác ngộ chẳng khác nào như tìm sừng thỏ vậy. Sừng thỏ 
      đâu có thật mà tìm. Giác ngộ của đạo Phật là giác ngộ ngay trên thế gian 
      thật tế này, không phải tìm kiếm nơi non cao rừng rậm. Ví dụ: Đứng trước 
      căn nhà sụp đổ, mình liền giác ngộ. Nhớ lại lúc trước nhà này đẹp đẽ xinh 
      xắn biết bao, mà giờ đây hư nát, chúng ta liền giác ngộ được lý vô thường. 
      Như vậy lý vô thường hiện hữu ngay trước mắt nơi căn nhà đổ nát, nó hiện 
      hữu ngay nơi các pháp trong thế gian này. Tất cả những đạo lý nhà Phật đều 
      là  những cái hiện thực ở thế gian, chớ không phải chuyện xa xôi, nhưng 
      cái thật đó người mê thấy khác, người ngộ thấy khác, người mê thấy theo 
      tình cảm riêng tư, còn người ngộ thấy được lý thật của sự vật. Cho nên tất 
      cả pháp thế gian, pháp nào cũng là để giác ngộ. Từ cái nhà chúng ta giác 
      ngộ được lý vô thường, từ cái nhà chúng ta giác ngộ được lý nhân duyên, từ 
      cái nhà chúng ta thấy rõ các pháp đều là hư dối. Vì chúng ta mê lầm nhiều 
      đời, cho nên cùng một sự việc mà chúng ta thấy cảm khích nhè nhẹ, còn 
      những vị tâm trí bén nhạy lại cảm động mạnh, bởi cảm động mạnh nên giác 
      ngộ ngay. Vì vậy những vị tu chứng quả Tu-đà-hoàn hay Tư-đà-hàm nếu kiếp 
      chót các ngài ra đời mà không gặp Phật pháp, thì khi thấy một chiếc lá 
      rụng các ngài cũng có thể ngộ đạo. Còn chúng ta đã thấy biết bao nhiêu lá 
      rụng mà có giác ngộ đâu! Vì sao như vậy? Vì tâm các ngài nhẹ nhàng thanh 
      tịnh nên gặp một cái động nhỏ cũng thành giác ngộ. Còn chúng ta hiện giờ 
      tâm trí đen tối nên cọ xát mạnh cũng không sáng nổi, nói gì là chạm nhẹ! 
      Cho nên trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật nói với ngài A-nan: “Như Lai án 
      túc hải ấn phát quang, nhữ nhược cử tâm trần lao tiên khởi.” Như Lai chỉ 
      ấn ngón chân xuống, cả biển phát ra ánh sáng, ông vừa dấy niệm, bụi bặm 
      đầy trời! Như vậy mới thấy sự khác nhau giữa đôi bên, một bên thanh tịnh 
      rồi nên hành động nào cũng sáng suốt, một bên còn u mê nên hành động nào 
      cũng mờ tối. Chúng ta u mê là vì huân tập nhiều đời, thật ra ở trên thế 
      gian này nếu chúng ta sớm tỉnh giác thì biết bao nhiêu việc để chúng ta 
      giác ngộ. 
      
                  
      Đức Phật ngày xưa chỉ cần đi ra bốn cửa thành, thấy người già, người bệnh, 
      người chết, khi trở về Ngài liền đi tu, còn chúng ta hiện nay thấy bao 
      nhiêu người già, người bệnh, người chết mà chúng ta có muốn tu chưa? Người 
      tâm hồn nhẹ nhàng trong sáng chỉ một việc nhỏ cũng dễ cảm kích, còn chúng 
      ta thấy việc đau khổ nhan nhản trước mắt, rồi cũng quên đi. Tỉ dụ như khi 
      đưa đám tang một thân nhân, chúng ta cũng khóc lóc đau buồn, nhưng năm ba 
      hôm rồi quên, vì bận công kia việc nọ. Cho nên những việc đáng cho mình 
      giác ngộ mà mình không giác được, còn các ngài ngay đó liền giác ngộ. Đâu 
      phải tìm chuyện trên trời trên mây mới giác ngộ, mà ngay trong hiện tại 
      nếu chúng ta khéo nhận thì được thức tỉnh liền. Như vậy giác ngộ là ngay 
      nơi thế gian, chớ không phải nơi đâu khác. Những chuyện sanh già bệnh chết 
      là ngay nơi thế gian này. Lẽ vô thường và tướng duyên hợp là hiện tiền 
      ngay nơi thế gian này, chúng ta thấy rõ mà chóng quên đi. Việc sai lầm đó 
      là chính nơi chúng ta vậy. 
      
                  
      Chúng tôi dẫn một câu chuyện về Thiền sư Bổn Như. Ngài Bổn Như ở Phần 
      Chiêu đến tham vấn Tôn giả Pháp Trí. Ngài thường nghe trong kinh nói “kinh 
      này là vua của các kinh”, tỉ dụ kinh Kim Cang, kinh Pháp Hoa chẳng hạn nói 
      là vua các kinh. Ngài đem câu đó hỏi Tôn giả. Hỏi: “Thế nào là vua các 
      kinh?” Tôn giả bảo: “Ông làm tri khố cho ta ba năm, ta sẽ vì ông mà nói.” 
      Một câu hỏi dễ như vậy mà phải làm tri khố ba năm. Ngài Bổn Như lãnh chức 
      tri khố. Mãn ba năm, Ngài đến thưa: “Bạch Hòa thượng con đã làm tri khố 
      mãn ba năm rồi, nay xin Hòa thượng nói.” Hòa thượng liền gọi: “Bổn Như”, 
      Ngài “dạ”, ngay đó Ngài liền ngộ, biết vua của các kinh liền. Như vậy 
      chuyện đó là gần hay xa? Chỉ cần một tiếng “dạ” là thấy được. Việc hết sức 
      gần mà muôn đời chúng ta quên. Bởi muôn đời quên, nên một lần nhắc lại 
      liền thấy. Mới nhìn qua chúng ta thấy người xưa dường như nham hiểm, một 
      câu hỏi mà không chiụ trả lời liền, bắt phải làm tri khố đến ba năm. Nhưng 
      chính ba năm đó nó súc tích làm cho ngài Bổn Như thấy câu đó quan trọng. 
      Về sau chỉ cần gọi, rồi “dạ” liền biết được vua các kinh. Khi ngộ rồi, 
      Ngài liền làm bài kệ: 
      
                              “Xứ xứ phùng qui lộ 
      
                              Đầu đầu thị cố hương 
      
                              Bản lai thành hiện sự 
      
                              Hà tất đãi tư 
      lương.” 
      
                  
      Dịch: 
      
                              “Chốn chốn đường 
      về cũ 
      
                              Nơi nơi vốn cố 
      hương 
      
                              Xưa nay thành hiện 
      sự 
      
                              Nào phải đợi suy 
      lường.” 
      
                  
      Chốn nào cũng là đường về, nơi nào cũng là cố hương, xưa nay nó là sự hiện 
      tại. Không phải đợi suy lường, vừa suy lường là hết hiện sự rồi. Quí vị 
      thấy chưa? Thấy cái mà ngài Bổn Như “dạ” rồi ngộ đạo, biết được vua các 
      kinh? Như vậy việc tu hành không phải là chuyện xa xôi, chỉ ngay nơi tai, 
      ngay nơi mắt, nếu khéo nhận, chúng ta thấy được cái căn bản, nếu chúng ta 
      không khéo sẽ đuổi theo ngoại cảnh suốt đời, rồi bỏ quên đi cái chân thật 
      ngay nơi chúng ta. Thế nên người xưa chỉ một câu nói mà ngộ đạo, nhưng ngộ 
      đạo ở chỗ nào? Đọc qua bài kệ, chúng ta thấy nó cụ thể làm sao! Chốn chốn 
      đường về cũ: chỗ nào không phải đường về. Nơi nơi vốn cố hương: cố hương ở 
      khắp mọi nơi, không phải ở riêng ngọn núi hay hang động nào mà chỗ nào 
      cũng là cố hương! Như vậy chỗ nào không phải là Phật pháp? Nếu chúng ta 
      khéo thì ngay đó liền thấy. Xưa nay thành hiện sự: quá khứ và hiện tại đều 
      là cái hiện hữu ở đây, không ở đâu xa. Nào phải đợi suy lường: vừa khởi 
      suy lường là không trúng, là không thấy. Đó là cái cụ thể mà chúng tôi chỉ 
      cho quí vị nhận thấy. 
      
                  
      Đối với Phật pháp, các Thiền sư luôn luôn chỉ lẽ thật, nhưng lẽ thật các 
      ngài chỉ hơi khó hiểu hơn bên giáo lý Nguyên thủy hay bên Tiểu thừa. Tiểu 
      thừa chỉ những cái cụ thể như lý nhân duyên, lý vô thường, vô ngã, còn 
      Thiền tông chỉ cái chân thật tàng ẩn trong cái hư dối, nhưng chúng ta quen 
      nhìn cái hư dối mà quên đi cái chân thật. Nếu nhận được cái chân thật thì 
      cụ thể hơn ngàn lần cái hư dối kia nữa. Cho nên chúng ta tu phải cốt làm 
      sao tinh tấn để nhận được cái chân thật đó. Chúng tôi dẫn những câu chuyện 
      để quí vị thấy rằng “Phật pháp là thiết thực, hiện tại, không có thời 
      gian, đến để mà thấy...”, chớ không phải những chuyện huyền hoặc mơ màng. 
      
                  
      Trường hợp ngài Bổn Như, Ngài có thấy không? Nếu không thấy làm sao Ngài 
      làm bài kệ trên? Cái thấy của Ngài phải dùng thời gian bao lâu? Có thể 
      người ta nói ba năm làm tri khố phải không? Nhưng chỉ một cái “dạ” là thấy 
      ngay, đâu phải đợi ba năm! Như vậy Phật pháp đâu có thời gian, đến để mà 
      thấy... Những giáo lý Tiểu thừa cho đến Đại thừa và Thiền tông đều là thực 
      tế, đều cụ thể, chớ không phải là chuyện huyền bí xa xôi, nhưng cái cụ thể 
      này rất khó nói, khó chỉ. Ví dụ có người hỏi: “núi ở chỗ nào”, “biển ở chỗ 
      nào”, chúng ta chỉ núi, chỉ biển khó hay dễ, tức nhiên là dễ chỉ, dễ thấy. 
      Nhưng nếu hỏi không khí ở chỗ nào, làm sao chỉ được! Mà chỉ không được là 
      không có không khí hay sao? Như vậy chỉ những cái có hình tướng thì dễ 
      thấy, còn cái hiện hữu mà không có hình tướng rất là khó thấy, tuy khó 
      thấy nhưng nó thiết yếu bằng mấy nghìn lần cái có hình tướng, phải vậy 
      không? Như vậy Thiền tông chỉ cái rất khó chỉ, nhưng cái ấy rất thiết yếu 
      trong cuộc sống của con người, nên nói Thiền tông chỉ cho chúng ta hòn 
      ngọc báu vô giá mà lâu nay chúng ta bỏ quên là vậy. Đến đây chúng tôi đã 
      chứng minh cho quí vị thấy rõ “Phật pháp là thiết thực, hiện tại, không có 
      thời gian, đến để mà thấy...” 
      
                  
      Hôm nay là ngày Tết Nguyên Đán, chúng tôi chúc quí vị được nhiều điều hay 
      đẹp, và dẫn bài thơ của Thiền sư Chơn Tịnh đời Tống để thay lời kết luận. 
      Ngài Chơn Tịnh nhân sáng mồng một Tết Ngài cạo tóc, rồi cảm hứng làm một 
      bài kệ như sau: 
      
                              “Thế phát nhân 
      kinh tuyết mãn dao, 
      
                              Niên hoa tu tín 
      bất tương nhiêu. 
      
                              Đào sanh thoát tử 
      cần vi Phật, 
      
                              Mạc vị minh triêu 
      dữ hậu triêu.” 
      
                  
      Tạm dịch: 
      
                              “Cạo tóc giựt mình 
      tuyết đầy dao, 
      
                              Tuổi xuân nên biết 
      chẳng tha nhau. 
      
                              Vượt sanh thoát tử 
      cần làm Phật, 
      
                              Thôi chớ dần dà 
      hẹn sáng chiều.” 
      
                  
      Sáng ngày cạo tóc, giựt mình thấy tóc bạc như tuyết dính đầy dao. Như các 
      vị lớn tuổi tóc bạc, hay như chúng tôi chẳng hạn, mỗi khi cạo tóc giựt 
      mình thấy tuyết đầy dao! Tuổi xuân mười lăm, hai chục tuổi thuở xưa có để 
      cho mình còn mãi như vậy đâu. Thời gian ép ngặt đuổi mình chạy, giành cái 
      tuổi xuân của mình mất rồi. Mình là người muốn vượt sanh thoát tử, thôi 
      không nên hẹn sáng, hẹn chiều, hẹn ngày mai, ngày mốt. Lẽ ra chúng ta phải 
      tu ngay bây giờ không nên biếng nhác, không nên chần chờ vì tuổi xuân của 
      mình đã bị cướp mất rồi, mà mục tiêu làm Phật của mình chưa đạt được. Phải 
      tu ngay mới đúng với lý tưởng vượt sanh thoát tử, mới xứng đáng với lý 
      tưởng cần làm Phật của mình. 
      
                  
      Nhân mùa xuân đến, chúng tôi chúc quí vị Tăng Ni cùng toàn thể Phật tử nam 
      nữ trong năm Bính Dần này và mãi mãi về sau: “Giờ nào, ngày nào, tháng 
      nào, năm nào cũng là giờ ngày tháng năm tu hành, đừng có chần chờ.” 
      
      
      NAM-MÔ BỔN SƯ THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT.
      
      ]  |