| 
       
      
      
      SÁNG VIỆC LỚN 
      
      
      TẤT NIÊN BÍNH DẦN 1987
      
                  
      Hôm nay là ngày Tất niên cuối năm Bính Dần, bắt đầu sang năm Đinh Mão, tất 
      cả người tu chúng ta mỗi năm một lần, phải ôn lại việc cũ và chuẩn bị cho 
      việc mới. Nói một cách dễ hiểu hơn những điều gì dở trong năm qua chúng ta 
      phải chừa để chuẩn bị cho năm tới được tốt đẹp hơn, được sáng sủa hơn. Đó 
      là bổn phận của tất cả chúng ta, Tăng Ni và Phật tử. 
      
                 
      Đề tài chúng tôi nói hôm nay nghiêng về người xuất gia, nếu là cư sĩ quí 
      vị cũng lấy đây làm kinh nghiệm, còn Tăng Ni thì phải cố gắng thực hiện 
      cho kỳ được những gì mà tôi nhắc nhở hôm nay. 
      
                  
      Ngài Trần Tôn Túc, đệ tử lớn của Tổ Hoàng Bá, sư huynh của Tổ Lâm Tế, Ngài 
      có nói: 
      
                              “Việc lớn chưa 
      sáng như đưa ma mẹ, 
      
                              Việc lớn đã sáng 
      như đưa ma mẹ.” 
      
                  
      Đây là câu mà tất cả Tăng Ni và Phật tử phải nghiền ngẫm để ứng dụng cho 
      xứng đáng với tinh thần người tu. Tất cả chúng ta tu đều mong rằng một 
      ngày nào sẽ sáng được việc lớn. Nếu việc lớn đã sáng, việc tu của chúng ta 
      đã đủ, đã xong rồi hay chưa? Qua câu nói của ngài Trần Tôn Túc, chúng ta 
      thấy rất rõ: Việc lớn chưa sáng, chúng ta phải cố gắng nỗ lực tiến tu để 
      sáng việc lớn. Nếu việc lớn đã sáng rồi không phải ngang đó chúng ta dừng 
      lại mà còn phải tiếp tục nữa. 
      
                  Cổ đức có nói: 
      
                              “Chưa đến vô tâm 
      cần phải đến, 
      
                              Đã đến vô tâm, vô 
      cũng thôi.” 
      
                  
      Khi chưa được vô tâm, chưa sáng được việc lớn, chúng ta cần phải tiến tu 
      để được sáng, được vô tâm. Nhưng khi đã được vô tâm rồi, chữ “Vô” cũng 
      thôi, chớ không phải vô tâm rồi ngay đó là đủ. Muốn khai triển đầy đủ ý 
      nghĩa này, chúng tôi xin tuần tự nêu ra từ những cái dở đến cái hay để tất 
      cả Tăng Ni và Phật tử ứng dụng tu hành cho khỏi sai lầm. 
      
                  
      Trước tiên chúng tôi nói các bệnh của người tu Phật hiện nay. Bệnh thứ 
      nhất là khinh lờn. Người tu chúng ta khi mới bước chân vào đạo, cư sĩ cũng 
      như xuất gia, lúc đầu phấn khởi hăng hái, coi như việc đạt đạo ở trước 
      mắt, không xa. Nhưng qua năm thứ hai, năm thứ ba, những phấn khởi, những 
      hăng hái buổi ban đầu giảm dần, rồi khinh lờn, rồi coi thường. Vì vậy 
      người xưa thường nhắc: “Nhất niên Phật tại tiền, nhị niên Phật thăng 
      thiên.” Nói theo Sư ông chúng tôi, Sư cụ Khánh Anh: “Tam niên Phật xa lơ 
      xa lắc.” Năm đầu mới vào đạo, chúng ta thấy việc đạt đạo không khó, nhưng 
      qua năm thứ hai năm thứ ba hay nhiều năm nữa, tinh thần phấn khởi hăng hái 
      buổi ban đầu giảm xuống lần lần, rồi đạo càng ngày càng xa, nhất là trong 
      giới tu sĩ. Người tu sĩ khi mới xuất gia có ý nguyện nhất định phải giải 
      thoát ngay trong hiện đời. Nhưng khi xuất gia được vài ba năm hơi quen 
      rồi, thỉnh thoảng cũng có chuyện hơn thua, chuyện phải quấy, tâm ban đầu 
      yếu đi từ từ, có khi quá yếu đến đỗi bị rầy chê. Đó là vì chúng ta không 
      giữ được tâm ban đầu. Phật Tổ thường dạy chúng ta phải nhớ tâm ban đầu. 
      Nếu chúng ta giữ được nó thì đạo không xa, việc giải thoát không khó, còn 
      quên thì đạo càng ngày càng xa, việc giải thoát càng ngày càng khó. 
      
                  
      Trong kinh A-hàm Phật có nói: Người mới xuất gia giống như cô dâu mới về 
      nhà chồng, đối với cha chồng, mẹ chồng, chị chồng, em chồng, thảy đều quí 
      nể, khép nép cung kính. Nhưng ở đôi ba năm có con cái rồi, đối với cha 
      chồng coi không ra gì, không còn nể cha mẹ chồng, ăn hiếp luôn chị chồng, 
      em chồng, cả đến người chồng cũng không vị nể. Người tu cũng vậy. Khi mới 
      vào đạo cạo tóc xuất gia, đối với Hòa thượng, Thượng tọa thì khép nép cung 
      kính, đối với các Sư huynh thì nể nang dễ dạy. Nhưng ở đến một năm, hai 
      năm, ba năm sau, thấy các Hòa thượng, Thượng tọa có khi quên cúi đầu, cho 
      đến khi sai bảo không vâng làm nữa. Vì cái bệnh khinh lờn này nên việc tu 
      không tiến được. Vì vậy Phật bảo chúng ta phải nhớ tâm ban đầu. 
      
                  
      Các kinh thường dạy: Các thầy Tỳ-kheo, mỗi sáng phải nhớ rờ đầu một lần. 
      Rờ đầu để nhớ mình đã cạo tóc xuất gia, không còn nghĩ đến chuyện gì ở đời 
      nữa, nếu không, lâu ngày rồi quên mình là người xuất gia. Phật dạy chúng 
      ta phải nhớ trên đường tu đừng có niệm khinh lờn. Nếu có niệm khinh lờn 
      thì ban đầu tu thấy tiến, nhưng sau rồi lùi, lùi cho tới không biết bao 
      giờ tiến được nữa. Đó là bệnh thứ nhất của người tu. 
      
                  
      Bệnh thứ hai là bệnh tự mãn. Tự mãn là được ít mà cho là đủ. Có những 
      người tu học được ít bộ kinh, tụng được hai thời công phu, bái sám rành 
      rẽ, coi như bao nhiêu đó là đủ cho mình làm Phật sự, rồi hài lòng tự mãn 
      với cái mình đã được, lấy đó làm sở trường mà không cố gắng nỗ lực tiến 
      tu. Như vậy mình tự khép mình trong phạm vi hẹp hòi để rồi chịu cả một đời 
      tu không tiến nổi. 
      
                  
      Đây, tôi nhắc lời của Thiền sư Thanh ở Dũng Tuyền, Ngài nói với chúng 
      rằng: 
      
                  
      “Tôi ở trong đây bốn mươi chín năm còn có khi tẩu tác, các ông chớ nói to, 
      người kiến giải thì nhiều, người hành giải thì ít, muôn người không có 
      một. Kiến giải ngôn ngữ cần biết suốt, nếu thức chưa hết sẽ bảo đi trong 
      luân hồi vậy.” Quí vị thấy, Ngài là một Thiền sư đã ngộ đạo, Ngài nói Ngài 
      đã ở bốn mươi chín năm trên núi Dũng Tuyền còn có khi tẩu tác tức là tâm 
      chạy bậy như trâu hoang, huống nữa là những người mới vào đạo một năm hai 
      năm ba năm, coi như mình xong việc, ăn to nói lớn tưởng mình như là thánh, 
      đó là điều không nên. Ngài dạy: “người kiến giải thì nhiều, người hành 
      giải thì ít” tức là người thấy hiểu thì nhiều mà hành được thì ít. Trong 
      muôn người hiểu, chưa có được một người hành. Ngài nói như vậy, không phải 
      cấm không cho chúng ta có kiến giải. Ngài dạy kiến giải ngôn ngữ cần phải 
      biết suốt, phải thông nhưng nếu thức tình chưa hết sẽ đi trong luân hồi. 
      
                  
      Người xưa biết được bệnh của chúng ta nên nhắc nhở khiến chúng ta biết rõ 
      trên đường tu không phải đơn giản, không phải một sớm một chiều là xong 
      việc, không phải thấy biết là rồi, mà còn phải hành, phải sống được với nó 
      nữa, đó là điều thật thiết yếu. Hiện nay cũng có một ít Tăng Ni nghe hiểu, 
      hiểu rồi cứ ăn to nói lớn, tưởng đó là hay, không ngờ vẫn còn thức tình, 
      đến khi chết vẫn đi trong luân hồi. Cho nên chúng ta phải khéo cố gắng 
      vượt qua các lỗi đó mới được. 
      
                  Đến bệnh thứ ba, là bệnh thụ 
      hưởng. 
      
                  
      Có một số người tu được một thời gian năm năm, mười năm, thọ giới làm trụ 
      trì, coi như mình xứng đáng là người lãnh đạo tín đồ, rồi tự hài lòng. Từ 
      sự tự hài lòng đó sanh ra thụ hưởng tức là nghĩ tới ăn chơi vui đùa, chạy 
      theo dục lạc, mà không nghĩ tới việc tiến tu. Đó là điều rất nguy hiểm cho 
      đạo. Chúng ta tu cốt làm sao dứt sạch các phiền não, mà phiền não phát 
      xuất từ dục lạc. Nếu chúng ta còn thụ hưởng dục lạc thì phiền não làm sao 
      sạch được. Vì vậy nên người nào tu hành mà nặng về hưởng thụ, người đó thế 
      nào rồi cũng bị dục lạc làm chủ. Bị dục lạc làm chủ thì đời này không thể 
      tiến được, mai kia cũng khó mà  trả được nợ áo cơm. Cho nên có bài kệ: 
      
                              Học đạo bất thông 
      lý, 
      
                              Phục thân hoàn tín 
      thí. 
      
                              Trưởng giả bát 
      thập nhất, 
      
                              Kỳ thọ bất sanh 
      nhĩ. 
      
                  
      Dịch: 
      
                              Học đạo chẳng 
      thông lý, 
      
                              Đem thân đền tín 
      thí. 
      
                              Trưởng giả tuổi 
      tám mốt, 
      
                              Cây kia chẳng sanh 
      nhĩ (nấm). 
      
                  
      Bài kệ này thuật lại việc một Tỳ-kheo tu hành tương đối tốt. Có một ông 
      trưởng giả thấy vậy quí kính, mỗi ngày dâng cúng mọi sự rất đầy đủ (tứ sự 
      cúng dường). Nhưng vị Tăng không thông được lý đạo, chưa sáng được việc 
      lớn, nên khi chết thân trở lại đền nợ thí chủ. Đền nợ bằng cách thành cây 
      mỗi ngày mọc nấm cho ông trưởng giả ăn. Tới khi ông trưởng giả tám mươi 
      mốt tuổi cây mới thôi mọc nấm. Như vậy để thấy rằng nếu tu mà không sáng 
      được đạo, không dứt được thức tình, dù chúng ta có cố gắng cũng chưa giải 
      thoát được. Nếu chúng ta thụ hưởng càng nhiều thì họa càng lắm. Vị Tăng 
      này tuy ở tốt, mà vẫn phải trả nợ hoa báu. Đó là trả nợ nhẹ làm cây cho 
      người ta ăn nấm, rồi hết nợ mới đi. Nếu chúng ta nặng nợ hơn, chúng ta 
      phải mang thân xấu xí hơn nhiều đi trong lục đạo để đền nợ của đàn-na thí 
      chủ. Vì vậy người tu chúng ta phải nhớ rằng trên đường tu không phải chỉ 
      có một hai thời khóa tụng, không phải chỉ thành ông trụ trì là xong việc 
      tu. Chúng ta tu cốt làm sao thấy được đạo, sống được với đạo, chớ không 
      phải là việc đơn giản. Thấy được đạo, sống được với đạo mới mong thoát ly 
      sanh tử. Đó là điều thiết yếu mà chúng tôi mong tất cả Tăng Ni và Phật tử 
      nhớ để nỗ lực tiến tu, đừng có hài lòng, đừng có tự mãn, rồi phải chiêu 
      họa đời sau. Đó là phần chúng tôi kể về bệnh của người tu. 
      
                  
      Phần thứ hai nói đến: “Việc lớn chưa sáng như đưa ma mẹ.” Tại sao ngài 
      Trần Tôn Túc nói: việc lớn chưa sáng như đưa ma mẹ? Quí vị nhớ những người 
      con khi đưa đám ma mẹ mình, thì lúc đó gương mặt thật âu sầu ảo não, tâm 
      hồn thật buồn bã khắc khoải vô cùng. Cũng như vậy, đối với người tu chúng 
      ta chưa sáng được việc lớn, ngày nào tháng nào năm nào, chúng ta cũng phải 
      ôm ấp trong lòng băn khoăn khắc khoải, niệm niệm quyết chí tiến tu. Cái gì 
      mình chưa hiểu phải tìm cho hiểu, cái gì mình chưa thông phải ráng học hỏi 
      cho thông. Như vậy khả dĩ còn tiến được. Nếu việc lớn chưa sáng mà cứ vui 
      chơi hết ngày hết tháng, như vậy không mong gì đạt được sở nguyện của 
      mình. Vì vậy việc lớn chưa sáng, chúng ta lúc nào cũng phải ôm ấp, lo âu, 
      trăn trở trong lòng, phải nỗ lực cố gắng tu hành để đạt cho kỳ được mới 
      thôi. Như vậy mới khả dĩ xứng đáng một người xuất gia theo Phật. Nếu chúng 
      ta không làm đúng lời Phật Tổ dạy thì rất uổng một đời tu của mình, lại 
      còn làm cho thiên hạ chê cười khinh bỉ, đạo lý cao siêu của Phật trở thành 
      vô giá trị. Vì vậy nếu việc lớn chưa sáng chúng ta phải luôn luôn nỗ lực 
      tiến tu, chúng ta không có quyền nghĩ rằng mình tu cho có chừng để rồi đời 
      sau tu nữa. Chúng ta phải quyết chí sáng được việc lớn ngay trong đời này, 
      nếu chưa xong ít ra cái mê cũng mòn cũng mỏng để sau này tiếp tục một cách 
      dễ dàng. 
      
                  
      Xưa có những Thiền sư mỗi khi chiều xuống, xét lại mình chưa tiến được bao 
      nhiêu, các ngài rơi lệ, còn chúng ta mỗi khi chiều xuống thì vui cười hỉ 
      hạ. Chúng ta có tiến không mà vui cười? Tại sao các ngài không tiến thì 
      khóc còn chúng ta không tiến lại cười? Tâm niệm người xưa và tâm niệm 
      chúng ta ngày nay khác nhau ở chỗ nào? Nếu thật tình quyết chí cầu giải 
      thoát, mà mình không đạt được điều mong mỏi, làm sao vui, làm sao thảnh 
      thơi cười đùa! Vì vậy người xưa đã nhiệt tình khi nhớ tới việc tu hành của 
      mình, qua một ngày mất đi mà không tiến là các  ngài đau khổ xót xa đến độ 
      phải rơi nước mắt. Chúng ta ngày nay dù không bằng được người xưa, ít ra 
      mỗi ngày qua chúng ta phải nao nao tự hỏi rằng tại sao mình hèn nhát, mình 
      tu không tiến. Một ngày tu không tiến còn rơi nước mắt, một tháng tu không 
      tiến chắc phải khóc òa lên! Còn một năm tu không tiến quí vị nghĩ nên làm 
      sao? Nếu một năm qua kiểm lại mình tu không tiến được một bước nào, thật 
      là đau lòng hổ thẹn, không thể nào an ổn được. Tu cốt phải tiến, không 
      phải đứng một chỗ, đứng một chỗ có nghĩa là lùi, huống nữa có nhiều người 
      còn bước lùi nữa, việc đó thật là quá tệ. Do đó hôm nay là ngày cuối năm, 
      chúng ta tự kiểm lại mình thấy qua một năm, mình tu không tiến được bước 
      nào, chúng ta phải lập nguyện cho mạnh, lập chí cho vững để vươn lên, 
      không để yếu hèn như năm cũ nữa. Như vậy chúng ta mới xứng đáng là người 
      tu có trọng trách làm lợi mình, lợi người, tự giác, giác tha. Đó là điều 
      mà chúng tôi mong mỏi nhất. 
      
                  
      Phần thứ ba là “việc lớn đã sáng như đưa ma mẹ”. Vì sao như vậy? Vì chúng 
      ta tưởng rằng một khi ngộ được lý đạo, ngang đó là thành Phật, thành Tổ. 
      Thật sự chưa phải. Sau đây là bài kệ chúng tôi thường nhắc: 
      
                              “Đốn ngộ tuy đồng 
      Phật, 
      
                              Đa sanh tập khí 
      thâm, 
      
                              Phong đình ba 
      thượng dũng, 
      
                              Lý hiện niệm du 
      xâm.” 
      
                  
      “Đốn ngộ tuy đồng Phật” tức là thấy được đạo, Phật với mình không khác. 
      Nhưng “đa sanh tập khí thâm” tức là nhiều đời tập khí sau dầy, nóng giận 
      phiền não hồi xưa còn ghi đậm nét trong thói quen của mình. Bây giờ tuy 
      ngộ được lý đạo nhưng khi chạm việc cũng còn giận cũng còn nóng. “Phong 
      đình ba thượng dũng” : như ngoài biển gió dừng rồi mà sóng vẫn còn vỗ ầm 
      ầm. “Lý hiện niệm du xâm”, đối với đạo lý thì thấy được lẽ thật rồi, nhưng 
      mà niệm vẫn còn dấy lên hoài. Các niệm đó làm mờ tối tánh giác của mình. 
      Khi ngồi lại nó cứ tràn vào, lấn mãi, nó quấy động cả giờ ngồi thiền không 
      lúc nào tha mình. Như vậy đừng tưởng rằng ngộ được lý đạo là xong việc, mà 
      còn phải nỗ lực tiến tu, làm sao trong tất cả giờ những niệm đó không quấy 
      nhiễu mình, không làm mờ tánh giác của mình, chừng đó mới khả dĩ hợp với 
      đạo. Chớ còn ngang đó mà hài lòng tự mãn đó là bệnh lớn. 
      
                  
      Chính chỗ này trong kinh Trung A-hàm có ghi: Một hôm có người ngoại đạo 
      tới hỏi Phật: - Thưa ngài Cù-đàm, những đệ tử của Ngài đã ngộ đạo, những 
      người đó có đến Niết-bàn hết hay chăng? Phật trả lời: 
      
                  - Có người đến Niết-bàn, có 
      người không đến Niết-bàn. 
      
      Người ngoại đạo lấy làm lạ hỏi: 
      
                  - Tại sao đã ngộ đạo rồi, có 
      người được đến Niết-bàn lại có người không đến? 
      
                  
      Phật ví dụ: Như có người bị mũi tên độc bắn vào tay, thầy thuốc được mời 
      tới mổ lấy tên ra, khử độc băng bó kỹ càng và bảo ráng giữ gìn  đừng cho 
      nhiễm trùng. Nhưng người đó nghĩ rằng tên độc đã nhổ ra, dùng thuốc khử 
      độc rồi, còn lo sợ gì nữa. Ngang đó tha hồ xông pha, vết thương bị nhiễm 
      trùng, bệnh trở nặng rồi chết. Người thứ hai cũng bị tên độc và cũng được 
      nhổ tên ra, khử trùng xong băng bó cẩn thận và cũng được dặn dò như trước. 
      Người này biết giữ gìn từ khi đó không dám để dơ để nhiễm trùng, vết 
      thương lành lần lần rồi khỏi hẳn. Như vậy hai người cùng bị tên độc, cùng 
      được mổ lấy tên ra, khử độc như nhau, tại sao một người chết, một người 
      lành? 
      
                  
      Phật nói: “Cũng như vậy, những người tu ngộ đạo rồi mà ngang đó biết nghe 
      lời Phật tiến tu, gìn giữ đạo hạnh càng ngày càng trong sáng thì sẽ đến 
      Niết-bàn. Những người ngộ đạo rồi, ngang đó tự mãn làm những việc xông pha 
      trái với đạo lý lần lần bị nhiễm rồi thối đọa.” Như vậy quí vị mới thấy, 
      đừng tưởng ngộ rồi là xong. Vì đa sanh tập khí thâm, tuy ngộ đạo rồi mà 
      tập khí vẫn còn, nếu lân la với thói quen cũ thì bị nhiễm. Nên nói “việc 
      lớn đã sáng như đưa ma mẹ”, chúng ta phải luôn luôn nỗ lực tu, không phải 
      ngang đó mà dừng. 
      
                  
      Đây tôi dẫn lời Thiền sư Truyền Sở ở núi Thanh Phong. Có vị Tăng hỏi: 
      
                  - Việc lớn đã sáng, vì sao như 
      đưa ma mẹ? 
      
                  Ngài đáp: 
      
                  - “Chẳng gặp gió xuân hoa 
      chẳng nở,  
      
                  Đến khi hoa nở lại thổi rơi.” 
      
                  
      Quí vị có thấy giống hai câu tôi nói ở trên chăng? 
      
                              “Chưa đến vô tâm 
      cần phải đến, 
      
                              Đã đến vô tâm, vô 
      cũng thôi.” 
      
                  
      Đợi có gió xuân hoa mới nở. Đừng tưởng hoa nở là xong việc, mà còn phải 
      nhờ gió thổi cho hoa rụng luôn mới là xong việc. Chúng ta thấy người xưa 
      rất cẩn thận dè dặt chỉ dạy chúng ta cách tu hành. 
      
                  Thiền Sư Tử Thuần ở Đơn Hà có 
      làm bài tụng: 
      
                              Gia sơn qui đáo 
      mạc nhân tuần, 
      
                              Kiệt lực dần thân 
      phụng nhị thân 
      
                              Cơ tận công vong 
      ân nghĩa đoạn, 
      
                              Tiện thành bất 
      hiếu xiển-đề nhân. 
      
                  
      Dịch: 
      
                              Gia sơn về đến chớ 
      dần dà, 
      
                              Gắng sức sớm hôm 
      dưỡng mẹ cha 
      
                              Cơ hết công quên 
      ân nghĩa dứt, 
      
                              Bỗng thành bất 
      hiếu người xiển-đề. 
      
                  
      Tại sao câu kết lạ lùng vậy? Tôi sẽ giải thích bài kệ cho quí vị hiểu: Gia 
      sơn về đến chớ dần dà nghĩa là người tu như kẻ trở về quê hương, hy vọng 
      thiết tha nhất là về tới nhà. Về tới nhà còn phải: Gắng sức sớm hôm dưỡng 
      mẹ cha, chẳng phải về đến nhà để chơi suông. Nuôi dưỡng mẹ cha rồi còn 
      nghĩ mình là con có hiếu, là kẻ có công, cũng chưa được, nên nói: Cơ hết 
      công quên ơn nghĩa dứt, tới đó điều kiện công ơn nuôi dưỡng cha mẹ không 
      còn thấy nữa. Bỗng thành bất hiếu người xiển-đề. Tại sao câu kết lại như 
      vậy? Chúng ta thường nghe trong kinh nói xiển-đề tiếng Phạn, dịch nghĩa là 
      bất tín, tức là không đủ lòng tin. Ở đây xiển-đề chia ra ba loại: 
      
                  1. Người phạm tội ngũ nghịch 
      gọi là xiển-đề. 
      
                  2. Người đối với Tam Bảo không 
      có lòng tin gọi là xiển-đề. 
      
                  3. Người như ngu như ngây 
      không còn thấy có Phật ở trên để kính, không còn thấy có chúng sanh ở dưới 
      để xem thường, cũng gọi là xiển-đề. Người này thấy Phật với chúng sanh 
      bình đẳng. 
      
                  Như trên đã nói: 
      
                              Chẳng gặp gió xuân 
      hoa chẳng nở 
      
                              Đến khi hoa nở lại 
      thổi rơi. 
      
                  
      Nếu còn thấy mình là người đắc đạo, là người ngộ đạo là chưa xong. Nếu ngộ 
      đạo thật sự mà còn thấy mình đắc đạo, ngộ đạo là chưa rồi, huống nữa chưa 
      ngộ đạo mà còn tự xưng ta là người thấy đạo, ngộ đạo, thì nên nghĩ người 
      ấy như thế nào? Vì vậy trong kinh Kim Cang có đoạn: “Pháp thượng ưng xả, 
      hà huống phi pháp.” Tới chỗ rốt ráo pháp chân chánh còn phải buông xả, 
      huống là phi pháp. Lời Phật dạy giống như cái bè đưa mình qua sông, tới bờ 
      rồi bè cũng bỏ, như vậy mới rồi việc. Nếu mình tu tới đó rồi hài lòng tự 
      mãn thì không thể nào trángh khỏi việc ôm chặt chiếc bè không lên bờ được. 
      Đó là ý nghĩa bài tụng của ngài Đơn Hà Tử Thuần. 
      
                  
      Một Thiền sư khác, ngài Thanh Long, nhân ý này nói một bài tụng: 
      
                              Bần tử dụ trung 
      tằng chỉ chú 
      
                              Linh bình tân khổ 
      uổng ta đà 
      
                              Khúc thùy phương 
      tiện thân phân phó 
      
                              Triếp mạc nhân 
      tuần xử tả khoa. 
      
                  
      Dịch: 
      
                              Trong dụ kẻ nghèo 
      từng chỉ rõ 
      
                              Lang thang cay 
      đắng luống trôi qua 
      
                              Được bày phương 
      tiện vì giao phó 
      
                              Thôi chớ lơ là 
      khiến mất xa. 
      
                  
      Ngài Thanh Long nhắc chúng ta người tu chẳng khác nào kẻ cùng tử trong 
      kinh Pháp Hoa. Trong thời gian lang thang nơi xứ lạ quê người, người cùng 
      tử chịu muôn ngàn cay đắng. Khi tìm được lối trở về đến nhà, qua được 
      những cay đắng rồi vẫn chưa xong việc. Còn phải: Được bày phương tiện vì 
      giao phó. Ông trưởng giả dùng phương tiện dẫn cùng tử về nhà trao  kho 
      tàng sự nghiệp. Khi được trao sự nghiệp rồi, thôi chớ lơ là khiến mất xa, 
      còn phải giữ gìn bảo quản cho sự nghiệp được lâu dài bền vững. Ví dụ chàng 
      cùng tử trong kinh Pháp Hoa chỉ cho chúng ta khi sáng được việc lớn mà 
      không chịu nỗ lực  cố gắng nữa thì một ngày nào đó chúng ta cũng bị rơi 
      trở vào chỗ chưa sáng. Vì vậy khi sáng được việc lớn rồi, cần phải  nỗ lực 
      cố gắng cho đến bao giờ viên mãn công hạnh của người tu mới là xong việc. 
      
                  
      Tất cả người tu Phật chúng ta đừng bao giờ nghĩ rằng thấy được đạo là xong 
      việc mà phải hành đạo và hằng sống được với đạo. Mình và đạo không hai mới 
      là thật sự giải thoát, giải thoát ngay trong đời này, chớ không phải đợi 
      tới khi chết mới giải thoát, thì quá mơ hồ xa xôi. 
      
                  
      Để kết luận, chúng tôi xin lập lại hai câu đầu nguyên văn chữ Hán: 
      
                              Vị đáo vô tâm tu 
      yếu đáo 
      
                              Ký đáo vô tâm vô 
      dã hưu. 
      
                  
      Dịch: 
      
                              Chưa đến vô tâm 
      cần phải đến 
      
                              Đã đến vô tâm vô 
      cũng thôi. 
      
                  
      Nếu chúng ta còn mù tối chưa thấy được đạo, cần phải nỗ lực cố gắng học 
      hành tham vấn. Khi đến chỗ vô tâm rồi, chính cái vô chúng ta cũng phải 
      buông, mới đến chỗ mình và muôn vật không hai. Nếu còn đeo cái vô, thì vô 
      tình chúng ta lại rơi vào biển vô sanh của rồng chết. 
      
                  
      Nếu đã qua một năm mà tu không tiến, chúng ta hối hận muốn kéo năm cũ lại 
      để tu hành thì không thể được. Vì vậy chúng ta đành phải để nó trôi qua. 
      Nhưng năm tới chúng ta phải làm sao cho xứng đáng không phụ tinh thần xuất 
      gia cầu giải thoát của  chính mình. Năm cũ qua rồi, chúng ta đã hỷ hạ vui 
      chơi, năm mới sắp đến, chúng ta cũng hỷ hạ vui chơi không lo tu hành, e 
      rằng một đời tu của chúng ta trở thành số không. 
      
                  
      Hôm nay chúng tôi nhắc lại lời dạy của ngài Trần Tôn Túc để cho tất cả quí 
      vị người tại gia cũng như xuất gia tự xét lại mình coi có tu nhiều hay tu 
      ít. Nếu chúng ta đã tiến tu thì năm tới cũng phải cố gắng để khá hơn. Còn 
      nếu người nào cảm thấy qua một năm mà không tiến chút nào thì ngang đây 
      chuẩn bị cho năm tới phải nỗ lực phát nguyện mạnh mẽ để đền bù lại những 
      thiếu sót của một năm qua và xứng công trong năm tới. Như vậy mới không 
      uổng một đời tu của mình. Đó là điều mong mỏi của chúng tôi trong ngày 
      tháng cùng năm hết này. Mong quí vị chuẩn bị bước qua năm mới và sáng mai 
      chúng ta có chương trình mới để tiến đúng với sở nguyện của chúng ta. 
      
      
      NAM-MÔ BỔN SƯ THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT.
      
      ]  |