MÙA XUÂN MIÊN VIỄN
      
      
      BÀI NÓI CHUYỆN VỚI TĂNG NI
      
      
      XUÂN ĐINH MÃO 1987
      
                  
      Hôm nay là ngày Tết Nguyên Đán, quí Tăng Ni Phật tử câu hội về đây để chúc 
      mừng năm mới, tôi rất hoan hỉ. Vậy quí vị lễ Tổ chứng minh cho rồi tôi sẽ 
      nói chuyện. 
      
                  
      Trước hết tôi chúc tất cả Tăng Ni và Phật tử năm nay được hưởng một mùa 
      Xuân Miên Viễn. Muốn hưởng một mùa xuân miên viễn, chúng ta phải làm gì? 
      Cần những yếu tố nào? 
      
                  
      Tất cả người trên thế gian đều thừa nhận một năm có bốn mùa: xuân, hạ, 
      thu, đông. Mùa xuân khí hậu ấm áp, cây cối đâm chồi nẩy lộc, mọi người đều 
      vui mừng, nên nói mừng xuân, vui xuân hay chơi xuân. Nói tới mùa xuân là 
      nói tới sự vui tươi, hạnh phúc, coi như nó có sẵn trong mùa xuân. Nhưng 
      mùa xuân theo thời gian dài lắm chỉ tròn ba tháng rồi cũng hết xuân, tới 
      hạ, thu, đông. Cho nên cái vui con người chỉ hưởng một lúc nào rồi mất, 
      nhường chỗ cho mùa hạ nóng bức, mùa thu buồn tẻ, mùa đông ảm đạm thê 
      lương. 
      
                  
      Người tu chúng ta không thể chấp nhận vui xuân giới hạn theo thời tiết, 
      cần phải có cái vui mãi mãi không mất, mãi mãi còn nơi chúng ta. Chúng ta 
      phải tu như thế nào để hưởng được một mùa xuân miên viễn? 
      
                  
      Mùa xuân miên viễn phát nguồn từ đâu? Chính đức Phật Thích-ca là vị giáo 
      chủ đã chỉ cho chúng ta một mùa xuân miên viễn. Gần đây hơn, chính Tổ 
      Bồ-đề-đạt-ma là người đem lại mùa xuân miên viễn trong đạo cho tất cả 
      chúng ta. Tổ đã gieo rắc mùa xuân ấy vào tâm hồn người tu thiền chúng ta 
      như thế nào? Sau đây tôi dẫn một số câu chuyện của các Thiền sư, quí vị sẽ 
      nhận thấy mùa xuân miên viễn thể hiện trong tâm hồn những người đã sáng 
      được lẽ đạo và sống với đạo như thế nào? 
      
                  
      Trước tiên tôi dẫn câu chuyện: “Một vị Tăng hỏi ngài Động Sơn Lương Giới: 
      
                  - Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Độ 
      sang? 
      
                  Ngài Động Sơn đáp: 
      
                  - Đợi dòng nước Động Sơn chảy 
      ngược, ta sẽ vì ông nói.” 
      
                  
      Nước ở Động Sơn là nước trong khe động trên núi chảy xuống, có lúc nào 
      chảy ngược trở lên đâu? Nếu nước ở sông ở biển khả dĩ còn có chảy lên chảy 
      xuống, còn nước suối trên động núi không bao giờ chảy ngược. Tại sao ngài 
         Động Sơn bảo đợi dòng nước Động Sơn chảy ngược sẽ vì ông nói? Câu đó đã 
      nói gì về ý Tổ sư từ Ấn Độ sang? Tổ sư đây là Tổ Bồ-đề-đạt-ma. Những vị 
      học và tu thiền thường thắc mắc không biết Tổ Bồ-đề-đạt-ma sang Trung Hoa 
      có ý gì đem truyền dạy cho chúng ta? Ý đó như thế nào? Ngài Động Sơn trả 
      lời như vậy có dễ hiểu không? Biết ý Tổ sư từ Ấn Độ sang chưa? 
      
                  
      Sau này Thiền sư Nghĩa Thanh ở Đầu Tử có làm bài kệ tụng về điều đó: 
      
                              Cổ nguyên vô thủy 
      nguyệt hà sanh, 
      
                              Mãn ngạn Tây lưu 
      nhất phái phân. 
      
                              Thông Lãnh bãi 
      tuần Hùng Nhĩ mộng, 
      
                              Tuyết đình hưu 
      thoại Thiếu Lâm xuân. 
      
                  
      Dịch: 
      
                              Nguồn xưa không 
      nước nguyệt đâu sanh, 
      
                              Một mạch dòng Tây 
      chảy ngập tràn. 
      
                              Thông Lãnh hỏi rồi 
      Hùng Nhĩ mộng, 
      
                              Tuyết sân thôi nói 
      Thiếu Lâm xuân. 
      
                  
      Qua bài kệ này ngài Nghĩa Thanh đã nói gì về câu đáp của ngài Động Sơn? 
      
                  
      “Cổ nguyên vô thủy nguyệt hà sanh,” 
      
                  
      Dòng suối xưa nếu khô cạn thì làm sao bóng mặt trăng rọi ở dưới. Dòng suối 
      có nước trong, chúng ta mới thấy được bóng mặt trăng ở dưới đáy suối, nếu 
      dòng suối đã khô thì không thấy bóng mặt trăng. 
      
                  
      “Mãn ngạn Tây lưu nhất phái phân.” 
      
                  
      Mãn là đầy, ngạn là bờ. Dòng suối xưa kia vẫn tràn cả bờ từ phương Tây 
      trôi mãi chia ra một mạch (phái: mạch). Ở đây dường như có sự mâu thuẫn. 
      Câu trên nói dòng suối khô cạn không có bóng mặt trăng. Câu dưới lại nói 
      dòng suối từ phương Tây chảy lại tràn đầy cả bờ rồi chia ra chảy mãi. Như 
      vậy ý nói gì? Câu đầu nói dòng suối không nước tức là không bóng trăng để 
      chỉ câu đáp của ngài Động Sơn. Đợi dòng suối chảy ngược tôi sẽ vì ông nói. 
      
                  
      Câu hai: Dòng suối đó không có bóng mặt trăng tức là khô cạn. Tuy nói cạn 
      mà không cạn vì nó vẫn chảy tràn cả bờ và trôi mãi cho tới ngày nay. 
      
                  Đến hai câu sau rất là đẹp: 
      
                              “Thông Lãnh bãi 
      tuần Hùng Nhĩ mộng, 
      
                              Tuyết đình hưu 
      thoại Thiếu Lâm xuân.” 
      
                  
      Ở núi Thông Lãnh không còn thưa hỏi nữa, trên núi Hùng Nhĩ chỉ là giấc 
      mộng thôi. Là ý nghĩa gì? Tổ Bồ-đề-đạt-ma khi tịch tại Thiếu Lâm, nhục 
      thân Ngài được nhập tháp trên núi Hùng Nhĩ. “Thông Lãnh bãi tuần” tức là ở 
      Thông Lãnh không còn thưa hỏi nữa, Tổ Bồ-đề-đạt-ma đã hết duyên giáo hóa ở 
      Trung Hoa. Nhục thân Ngài nhập tháp trên núi Hùng Nhĩ chẳng qua là một 
      giấc mộng. 
      
      
                              “Tuyết đình hưu thoại Thiếu Lâm xuân.” 
      
                  
      Tuyết đình là nơi sân tuyết, khi Tổ Huệ Khả đến hỏi đạo với Tổ 
      Bồ-đề-đạt-ma. Tổ Đạt-ma ngồi xoay mặt vào vách lặng yên Tổ Huệ Khả đứng 
      ngoài sân, mùa Đông tháng chạp ở miền Bắc Trung Hoa tuyết xuống ngập đầu 
      gối mà ngài Huệ Khả vẫn đứng trơ nhìn thẳng vào Tổ, mặt không đổi sắc. Tổ 
      thương tình xoay lại hỏi: 
      
                  - Cầu việc gì mà chịu khổ hạnh 
      vậy? 
      
                  - Con xin Ngài dạy cho pháp 
      môn cam lồ. 
      
                  
      Từ đó về sau Tổ mới nhận Ngài là đồ đệ. Khi thầy trò còn thưa hỏi qua lại 
      là lúc Tổ còn duyên giáo hóa. Khi Tổ Huệ Khả không còn thưa hỏi nữa tức là 
      Ngài đã đạt đạo, thấy được chân tướng mà Tổ Bồ-đề-đạt-ma truyền dạy, lúc 
      ấy ở Thiếu Lâm hoàn toàn là một mùa xuân. Nên nói: trước sân đầy tuyết 
      không còn thưa hỏi nữa, núi Thiếu Lâm hoàn toàn là một mùa xuân: mùa xuân 
      miên viễn, mùa xuân không còn bị thời gian chi phối, xuân mãi mãi, không 
      bao giờ có vẻ ảm đạm của thu, lạnh lẽo của đông nữa. Muốn được mùa xuân 
      miên viễn phát xuất từ Thiếu Lâm, phải qua một cơn tuyết ngập tới gối, chớ 
      không giản dị như những vị hiện giờ mong ước. Vừa được ấm no sung túc vui 
      cười, vừa mong ước được mùa xuân Thiếu Lâm, chắùc chắn là không được. 
      
                  
      Trên đường đạo, chúng ta phải chịu đựng những gian nan khổ sở mới hưởng 
      được một nguồn vui không bao giờ cùng tận. Người tu phải đối diện với sự 
      lạnh lẽo cô đơn, từ bỏ mọi sự ấm áp của thế tình, lúc đó chỉ có nguồn 
      chánh pháp sưởi ấm lòng chúng ta thôi. Nếu chúng ta tu mà muốn được tình 
      đời sưởi ấm mãi, chắc rằng chúng ta phải chịu lạnh muôn kiếp. Chúng ta 
      phải cam lạnh với tình đời, phải buông xả, chỉ còn trơ trọi một con người, 
      khi ấy chúng ta mới được sưởi ấm bằng một nguồn vui miên viễn của mùa xuân 
      Thiếu Lâm. 
      
                  
      Dòng suối từ Tây chảy sang và chảy mãi đến Việt 
      Nam 
      chúng ta, dòng suối đó đến nay vẫn còn. Chúng ta có hưởng được hay không 
      là do sức chịu đựng và sức nỗ lực của chúng ta, cũng như sau một cơn tuyết 
      lạnh rồi chúng ta mới thấy được một mùa xuân ở Thiếu Lâm. Đó là ý nghĩa 
      bài kệ của ngài Nghĩa Thanh. 
      
                  
      Đến câu chuyện một vị Tăng hỏi ngài Cửu Phong (ngài Cửu Phong là vị thị 
      giả hỏi chết Thủ tọa ở Thạch Sương). Tăng hỏi: 
      
                  -Tổ tổ truyền nhau là truyền 
      việc gì? 
      
                  
      Là truyền y bát chăng? Nếu truyền y bát thì khô khan làm sao! Y bát là vật 
      vô tình, truyền vật vô tình đâu có lợi gì cho chúng ta, đâu có sưởi ấm 
      chúng ta mãi mãi. Nếu nghĩ Tổ Tổ truyền nhau là truyền y bát, điều đó 
      không phải là đạo lý, nên ngài Cửu Phong đáp: 
      
                  - Thích-ca nghèo, Ca-diếp 
      giàu. 
      
                  
      (Nguyên văn chữ Hán: Thích-ca xan, Ca-diếp phú.) 
      
                  Tăng hỏi: 
      
                  -Thế nào là Thích-ca nghèo? 
      
                  Ngài đáp: 
      
                  -Không một vật cho người. 
      
                  
      Tại sao đức Thích-ca nghèo lắm vậy? -Không một vật cho người, không nghèo 
      là gì? Vì vậy nên sau này con cháu Ngài nghèo, mà nghèo nhất là ngài Hương 
      Nghiêm Trí Nhàn, Ngài nghèo cho tới không có đất cắm dùi, và không có dùi 
      để cắm nữa. Ngài trình bày chỗ nghèo của mình: 
      
                              Năm xưa nghèo còn 
      có đất cắm dùi, 
      
                              Năm nay nghèo 
      không có dùi để cắm. 
      
                  
      Như vậy Phật Tổ truyền thừa cái gì? Đức Thích-ca không có một vật cho 
      người, có cái gì mà truyền! 
      
                  Vị Tăng lại hỏi thêm: 
      
                  -Thế nào là Ca-diếp giàu? 
      
                  Ngài Cửu Phong đáp: 
      
                  - Trong nước Mạnh Thường Quân. 
      
                  
      Khi xưa ở Trung Hoa, Mạnh Thường Quân là người nuôi  rất nhiều dũng sĩ, 
      những dũng sĩ nào thất thời thất thế ông đều nuôi hết, nên nói Mạnh Thường 
      Quân là người giàu. Như vậy Tổ Ca-diếp giàu là giàu cái gì? Nếu Tổ Ca-diếp 
      nghèo thì chắc không truyền tớùi bây giờ. Bởi Ngài giàu cho nên Ngài 
      truyền nối mãi cho tới ngày nay không dứt, không giàu là gì? Con cháu đông 
      vầy, đó là cái giàu của ngài Ca-diếp. 
      
                  
      Đức Thích-ca nghèo vì không một pháp cho người, Tổ Ca-diếp giàu vì truyền 
      mãi không dứt. Không một pháp cho người mà truyền mãi không dứt có mâu 
      thuẫn không? – Không. Nếu chúng ta thấy được cái không mâu thuẫn đó là 
      chúng ta thấy được mùa xuân miên viễn, còn nếu chúng ta thấy có sự mâu 
      thuẫn là không thấy được mùa xuân miên viễn. 
      
                  
      Thiền sư Tử Thuần ở núi Đơn Hà có làm bài kệ nói về câu đối đáp trên: 
      
                              Tịch quang ảnh lý 
      hiện toàn thân, 
      
                              Quí dị thiên nhiên 
      quýnh xuất luân. 
      
                              Gia phú nhi nô 
      thiên đắc lực, 
      
                              Dạ phân đăng hỏa 
      chiếu tây lân. 
      
                  
      Dịch: 
      
                              Tịch quang trong 
      bóng hiện toàn thân, 
      
                              Sang khác thiên 
      nhiên vượt hạng thường. 
      
                              Con khó nhà giàu 
      riêng đắc lực, 
      
                              Đêm chia đèn lửa 
      rọi xóm gần. 
      
                  
      Tịch quang ảnh lý hiện toàn thân. Tịch là lặng, quang là sáng. Trong cái 
      sáng lặng bóng nó hiện toàn thân. 
      
                  
      Quí dị thiên nhiên quýnh xuất luân. Quí là sáng, dị là khác, quýnh xuất 
      luân là vượt khỏi bình thường. Cái giàu sẵn vậy khác hơn là vượt khỏi tất 
      cả  cái giàu sang bình thường của người đời. 
      
                  
      Gia phú nhi nô thiên đắc lực. Gia phú là nhà giàu, nhi nô là con tôi tớ. 
      Cha giàu mà con là tôi tớ riêng được chỗ đắc lực. Cha giàu dụ cho ông 
      trưởng giả trong kinh Pháp Hoa, con tôi tớ dụ cho gã cùng tử chịu làm tôi 
      tớ. Nhưng nếu người con tôi tớ hiểu được việc nhà rồi tức là đã đắc lực 
      thì ông cha: 
      
                  
      Dạ phân đăng hỏa chiếu tây lân. Ban đêm chia đèn lửa để chiếu rọi xóm gần. 
      Nếu đứa con nghèo khi có sức mạnh hoặc có khả năng quản lý được gia nghiệp 
      rồi thì người cha liền chia đèn chia lửa để soi sáng cho láng giềng chung 
      quanh. 
      
                  
      Trong bài kệ này, hai câu đầu nói lên ý đức Thích-ca Ngài nghèo, bởi vì 
      trong cái sáng lặng lẽ, có cái bóng hiện ra toàn vẹn. Cái bóng đó không 
      thật, không thật thì có gì để chia, có gì để trao! Nhưng trong đó có ngầm 
      cái giàu, không phải cái giàu thông thường của thế nhân, mà cái giàu vượt 
      trên tất cả những cái thường tình. Đó là cái giàu của thiên nhiên sẵn có. 
      
                  
      Hai câu sau chỉ cái giàu của ngài Ca-diếp. Ngài Ca-diếp rất giàu. Con cháu 
      của Ngài nghèo nàn, một khi có sức kham nhẫn chịu đựng được, có đủ khả 
      năng gánh vác được thì Ngài trao chia cho đèn lửa để nối tiếp mãi mãi. 
      Danh từ trong đạo thường nói người sau nối tiếp người trước là “tục diệm 
      truyền đăng” nghĩa là nối lửa trao đèn. Tại sao không nói trao ngọc trao 
      vàng mà nói trao lửa trao đèn? Bởi vì chủ yếu của đạo Phật là giác ngộ, mà 
      giác ngộ là trí tuệ, trí tuệ là sáng suốt. Vì chúng sanh bị vô minh mê mờ 
      nên phải trôi mãi trong luân hồi lục đạo. Chỉ có ngọn đèn trí tuệ mới phá 
      được vô minh. Nếu vô minh hết thì chúng sanh ra khỏi vòng luân hồi. 
      
                  
      Nói đến sự truyền bá chánh pháp là nói đến sự trao đèn nối lửa để soi sáng 
      cho chúng sanh, cho con người và cho nhân loại. Chúng ta học đạo cốt làm 
      sao thấy được chủ yếu của đạo để trên đường tu khỏi bị lầm lẫn. Nếu học 
      đạo mà không thấy chủ yếu đó, chúng ta cứ nghĩ những phương tiện là đạo, 
      tỉ dụ như bố thí, nhẫn nhục là đạo, đó chưa phải là cứu kính. Mục tiêu của 
      Phật là chúng ta phải có ánh sáng trí tuệ mới cứu khổ được chúng sanh. 
      
                  
      Nói đến việc trao đèn, chúng tôi nhớ câu chuyện nhan đề là “Giáo Lý Tối 
      Thượng” của một Thiền sư Nhật Bản: “Ngày xưa có một chú mù đi thăm bạn. Vì 
      là bạn cố tri nên gặp lại ngồi nói chuyện mãi quên giờ. Khi ra về trời đã 
      khuya, ngoài trời tối đen, anh bạn thương chú quá, nói: - Ngoài kia trời 
      tối, để tôi đốt đèn cho anh cầm về. 
      
                  Anh mù cười nói: 
      
                  
      Tôi thấy ngày như đêm, đêm như ngày, cần gì đèn. 
      
                  Anh bạn giải thích: 
      
                  
      Tuy anh không cần đèn, nhưng anh nên cầm cây đèn đi, người đi đường thấy 
      được cây đèn họ trángh khỏi đụng vào anh. 
      
                  
      Thấy có lý, anh mù nhận cây đèn anh bạn đốt và trao cho. Trên đường về bất 
      thần có người đụng vào anh mù. Người mù than phiền: 
      
                  - Anh không thấy tôi sao? 
      
                  Người kia nói: 
      
                  Dạ, tôi không thấy. 
      
                  - Tôi cầm cây đèn mà anh không 
      thấy à? 
      
                  Người đi đường đáp: 
      
                  - Thưa bạn cây đèn bạn tắt từ 
      bao giờ!” 
      
                  Qua câu chuyện trên “giáo lý 
      tối thượng” ở chỗ nào? Để quí vị suy gẫm, chúng tôi sẽ giải thích sau. 
      
                  Trong nhà thiền, Thiền sư được 
      trao đèn là ngài Đức Sơn. Ngài Đức Sơn sau khi đầu phục, được ngài Long 
      Đàm Sùng Tín nhận làm đệ tử. Một đêm, Ngài đứng hầu thầy trong thất. Mãi 
      tới khuya, ngài Sùng Tín bảo: 
      
                  - Đêm đã khuya sao ông không 
      xuống? 
      
                  Ngài Đức Sơn liền bước ra vén 
      rèm lên, bèn trở lại thưa: 
      
                  - Ngoài kia tối đen. 
      
                  Nói đến tối đen tức là muốn 
      xin đèn chớ gì? Ngài Sùng Tín liền thắp đèn cầy rồi trao. Ngài Đức Sơn vừa 
      đưa tay cầm cây đèn thì ngài Sùng Tín thổi phụt tắt. Ngay đó ngài Đức Sơn 
      liền ngộ, từ đó về sau không cần đèn nữa. Như vậy trao đèn đó có trao hay 
      không? Tại sao ngài Đức Sơn cầm đèn, vừa đưa tay nhận lấy, ngài Sùng Tín 
      lại thổi phụt tắt đi? Đó lại gọi là trao đèn tiếp lửa. Trao ở chỗ nào? Nếu 
      hiểu câu chuyện này thì hiểu câu chuyện trên. 
      
                  Trong câu chuyện trước, người 
      bạn thương người bạn mù quá nên đốt đèn cho anh cầm tay để trángh tai nạn. 
      Đã là mù thì dù có đèn cũng là vô ích, nó tắt hay còn cháy, có biết đâu! 
      Bởi vậy nên đèn tắt lúc nào cũng không biết! Khi sáng mắt rồi đưa đèn mới 
      hữu dụng. 
      
                  Cũng như vậy, nếu ngài Huệ Khả 
      không đứng lạnh ngoài tuyết trước sân Thiếu Lâm thì Tổ Đạt-ma đâu có trao 
      đèn cho Tổ Huệ Khả. Khi đủ khả năng đủ sức nhận rồi mới trao. Nhưng trao 
      mà không trao. Trao đèn cho người lúc họ đi đêm, nếu sáng ngày thì họ đâu 
      có cần nữa. Vì vậy nơi chúng ta nếu không phát sáng được cái vô sư trí thì 
      dù thầy dù bạn có muốn cho chúng ta sáng, sáng cũng không nổi. Cái học 
      ngôn ngữ lý thuyết nơi thầy nơi bạn không cứu được cái mê của chúng ta. 
      Muốn cứu được cái mê của chúng ta, chính cái vô sư trí phải phát. Khi nào 
      phát được cái vô sư trí lúc đó mới được trao đèn. Trao đèn là trao như 
      vậy, nên mới gọi là giáo lý tối thượng. Còn nếu vô sư trí chưa phát mà 
      trao cũng vô ích thôi. Hiểu như vậy quí vị mới hiểu nghĩa trao đèn tiếp 
      lửa, trao mà không trao gì hết. Bởi vậy mới có câu chuyện sau này: 
      
                  “Có vị Tăng hỏi Thiền sư Cư 
      Hối: 
      
                  - Tổ Đạt-ma lại là Tổ chăng? 
      
                  Ngài Cư Hối đáp: 
      
                  - Chẳng phải Tổ. (Trả lời coi 
      ngang ngược quá!) 
      
                  - Đã chẳng phải Tổ lại đến làm 
      gì? 
      
                  - Vì ông chẳng tiến. (Vì ông 
      chẳng tiến được, nên Ngài sang.) 
      
                  Vị Tăng liền hỏi: 
      
                  - Sau khi tiến thì thế nào? 
      
                  Ngài Cư Hối đáp: 
      
                  - Mới biết chẳng phải Tổ.” 
      
                  Câu này thật là hay! Sau khi 
      tiến được mới biết chẳng phải Tổ. Ngài Đức Sơn vì tiến không được, thấy 
      ngoài trời tối đen, nên cần đèn. Cần đèn thì thầy đốt cho. Đốt cho rồi 
      liền thổi phụt tắt. Tắt rồi mới tiến được. Tiến được mới thấy thầy có trao 
      đèn cho mình không? Khi chưa tiến được thì mong thầy trao cho mình một cái 
      gì, cho nên còn thấy có Tổ. Khi tiến được rồi thì còn gì nữa mà trao? Mới 
      biết không phải Tổ. Không phải Tổ mà là Tổ. Cái đó mới là lạ lùng. 
      
                  Qua câu chuyện trên, cũng ngài 
      Tử Thuần có làm bài kệ: 
      
                              Thiếu Lâm tục diệm 
      sự kham kỳ, 
      
                              Lạp dạ phương khai 
      tuyết hậu chi 
      
                              Hoàng Bá tích niên 
      tằng hữu ngữ, 
      
                              Đại Đường quốc lý 
      một Thiền sư. 
      
                  Dịch: 
      
                              Thiếu Lâm tiếp lửa 
      việc lạ kỳ, 
      
                              Tháng chạp tuyết 
      rơi sau mới chia 
      
                              Hoàng Bá năm xưa 
      từng đã nói, 
      
                              Đại Đường cả nước 
      không Thiền sư. 
      
                  Tại sao cả nước Đại Đường mà 
      không Thiền sư? Bởi vì nói Tổ thì người ta cứ nghĩ như ở ngoài thế gian, 
      ông Tổ thợ mộc thì dạy cách làm mộc, phải đục đẽo như thế nào, cần những 
      đồ nghề gì. Ông Tổ thợ rèn chỉ dạy cách làm thợ rèn. Còn ông Tổ trong nhà 
      Thiền dạy chúng ta cái gì? Truyền cho chúng ta cái gì? Không có một pháp 
      cho người, mà dạy cái gì, truyền cái gì? Đã không có dạy, không có truyền 
      thì gọi là Tổ được không? Tuy không dạy, không truyền mà vẫn là Tổ. Mới 
      nhìn qua coi như không phải Tổ, vì mỗi người chúng ta đã sẵn có cái chân 
      thật đó rồi chớ không phải Ngài cho, nên nói không phải Tổ. Nếu không có 
      sẵn, dù Ngài chỉ Đông, vẽ Tây, thì chắc rằng chúng ta cũng không thấy được 
      cái chân thật đó, cho nên nói không phải Tổ mà là Tổ. Cũng như vậy, ngài 
      Hoàng Bá nói cả nước Đại Đường không có Thiền sư, chỉ tạm gọi là Thiền sư. 
      
                  Ý nghĩa của bài kệ như sau: 
      
                  “Thiếu Lâm tục diệm sự kham 
      kỳ.” Sự truyền đăng tục diệm ở Thiếu Lâm rất lạ lùng. Sự đó phát xuất từ 
      lúc nào? “Lạp dạ phương khai tuyết hậu chi” : sau đêm tháng chạp tuyết 
      lạnh mới nở được hoa, nên nói : Tháng chạp tuyết rơi sau mới chia tức là 
      chia đèn tiếp lửa sau đêm tuyết ở Thiếu Lâm. Như vậy chúng ta thấy rằng 
      việc truyền thừa của chư Tổ là mồi đèn tiếp lửa để soi sáng mãi mãi cho 
      chúng sanh ở thế gian. 
      
                  Vì lẽ vừa nêu trên, chúng tôi 
      đặt tên Thiền viện Thường Chiếu. Nếu nói Thường Chiếu suông thì thấy nó lơ 
      lửng quá! Vậy cái gì Thường Chiếu? – Tuệ Nhật Thường Chiếu hay Tuệ Đăng 
      Thường Chiếu, nghĩa là truyền đèn tiếp lửa. Trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ 
      Môn có câu: “ tuệ nhật phá chư ám” tức là mặt trời trí tuệ phá hết mọi tối 
      tăm, mà Thường Chiếu là phá ám chớ gì? Vì thế chúng ta phải hiểu cho tường 
      tận chủ đích của người trước. Thường Chiếu theo tinh thần nhà thiền là 
      ngọn đèn, ngọn đuốc hay là mặt trời trí tuệ mãi mãi soi sáng không bao giờ 
      gián đoạn. 
      
                  Chúng tôi có tham vọng muốn 
      chia đèn tiếp lửa từ thuở Phật Tổ, nối mãi mãi đến bây giờ và về sau, để 
      soi sáng chúng sanh không để bị gián đoạn, tắt dứt. Tuy hiện giờ có soi 
      chút chút, nhưng nếu mai kia khi tôi mất rồi, quí vị phải tiếp tục soi 
      sáng mãi mãi đừng để nó gián đoạn, nếu gián đoạn thì mất ý nghĩa Thường 
      Chiếu rồi. Chủ đích của người tu Phật là dùng ánh sáng trí tuệ để soi sáng 
      chúng sanh phá tan màn vô minh đen tối, giúp chúng sanh thoát khỏi dòng 
      trầm luân sanh tử. Vì vậy mà tôi thích tên Chiếu. Có người cười bảo là 
      chiếu lát chiếu rơm gì đó, vì không rõ mục tiêu tôi nhắm với tham vọng hơi 
      nhiều. Chúng tôi mong rằng quí vị có mặt hôm nay, trong ngày đầu năm, ý 
      thức được bổn phận và mục đích của mình. Biết được mục đích rồi lúc nào 
      chúng ta cũng nhắm thẳng mục đích đó. Hòa thượng Viện trưởng đã dạy chúng 
      ta: Làm việc gì một thời gian rồi, phải tự hỏi lại mình xem có đi đúng mục 
      đích của mình hay không? Vì danh lợi hay vì cái gì? Phải luôn luôn hỏi lại 
      mình để nhắc mình đi đúng mục tiêu mà mình đã nhắm. 
      
                  Ở đây, chúng tôi nhắm mục tiêu 
      “Phật Tổ tương truyền”. Chúng ta đã thừa hưởng ánh sáng mặt trời đó, chúng 
      ta nên đem ánh sáng ấy soi lại cho những người chung quanh và những người 
      sau để cùng sáng với chúng ta. Có những khi cần giảng chữ Thường Chiếu, 
      tôi giảng có tính cách nhè nhẹ để người ta không thấy tham vọng của mình, 
      tôi nói Thường Chiếu là tên của một Thiền sư Việt Nam. Bây giờ cần nói sâu 
      nguyện vọng của mình, tôi nói  là Tuệ Nhật Thường Chiếu hay Tuệ Đăng 
      Thường Chiếu, chớ không phải là chuyện thường. Hôm nay tôi nêu ra cho tất 
      cả quí vị thấy bản hoài của người tu phải đạt cho kỳ được cái gì mà Phật 
      Tổ mong muốn nơi chúng ta. 
      
                  Phần kết luận bài nói chuyện 
      hôm nay là lời chúc xuân đầu năm của tôi với Tăng Ni và Phật tử, tôi xin 
      nhắc lại lời của người xưa: 
      
                              Bất đạp kim thời 
      lộ, 
      
                              Thường du kiếp 
      ngoại xuân. 
      
                  Tức là: Không dẫm trên con 
      đường hiện thời, thường dạo một mùa xuân kiếp ngoại. Kiếp ngoại xuân là 
      gì? Kiếp là chỉ cho thời gian, như nói một đời, một kiếp. Hoặc trong kinh 
      nói tiểu kiếp, trung kiếp, đại kiếp chỉ cho thời gian dài thăm thẳm. Kiếp 
      ngoại xuân là xuân vượt ngoài thời gian, năm, tháng. Nói tới xuân là nói 
      tới thời gian. Nhưng nếu chúng ta không dẫm trên con đường hiện thời là 
      chúng ta hưởng được mùa xuân ngoài thời gian, còn gọi là mùa xuân miên 
      viễn. Vì sao không đạp trên con đường hiện thời? Con đường hiện thời chỉ 
      cho con đường mà chúng sanh đang tranh đua chen lấn nhau đi, đó là con 
      đường danh, lợi, tài, sắc v.v… Nếu chúng ta không đạp trên những con đường 
      đó thì chúng ta sẽ hưởng được một mùa xuân kiếp ngoại, mùa xuân miên viễn 
      không còn bị lệ thuộc thời gian. Hai câu này chúng tôi tạm dịch theo thể 
      văn lục bát: 
      
                              Chẳng đi theo bước 
      đương thời, 
      
                              Mùa xuân kiếp 
      ngoại thảnh thơi dạo hoài. 
      
                  Hôm nay, ngày đầu năm Đinh 
      Mão, chúng tôi mong rằng tất cả Tăng Ni cùng Phật tử sẽ hưởng một mùa xuân 
      miên viễn. Làm sao một đời này chúng ta luôn luôn được an vui, không còn 
      cảm thấy khổ đau vì ngoại cảnh, vì cái đuổi xua của quỉ vô thường, mà 
      chúng ta hằng vui trong một mùa xuân kiếp ngoại hay nói cách khác là một 
      mùa xuân miên viễn. 
      
      NAM-MÔ BỔN SƯ THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT. 
      
      ]  |