HÒA QUANG ĐỒNG TRẦN
      
      
      TẤT NIÊN ĐINH MÃO 1988
      
                  
      Hôm nay là ngày hai mươi chín tháng chạp, ngày tất niên của Thiền viện 
      chúng ta. Trong buổi tất niên này, chúng tôi có bổn phận phải nhắc nhở quí 
      vị nhận thấy những ưu điểm và khuyết điểm trên đường tu của chúng ta trong 
      năm qua. Nhưng chúng tôi thường nhắc đến những khuyết điểm hơn để quí vị 
      tu sửa, làm sao mỗi một năm qua chúng ta dứt sạch được những bệnh hoạn để 
      chuẩn bị qua năm tới chúng ta có sức mạnh tiến tu, không còn bệnh hoạn 
      nữa. 
      
                  Đề 
      tài chúng tôi giảng hôm nay là “Hòa Quang Đồng Trần”. Hòa quang là hòa ánh 
      sáng, đồng trần là đồng với bụi bặm, tức là trộn lẫn ánh sáng vào với bụi 
      bặm. Tại sao chúng tôi giảng đề tài này? Gần đây chúng tôi nhận thấy một 
      số Tăng Ni cũng như Phật tử có bệnh là: Thấy mình trong sạch, thấy mình tu 
      nhiều, thấy mình tốt hơn mọi người. Vì thấy mình trong sạch, thấy mình tu 
      nhiều, thấy mình tốt hơn mọi người cho nên trở thành bệnh hoạn. Trong cách 
      thấy đó chia ra hai hạng bệnh: 
      
                  1. 
      Bệnh thứ nhất: Chính mình không trong sạch mà tưởng mình trong sạch, rồi 
      cho mọi người là bẩn thỉu nhơ nhớp, chỉ có ta là trong sạch thôi. Nếu 
      không trong sạch mà tưởng mình trong sạch, đó là bệnh quá lớn. Tại sao 
      vậy? Bởi vì mình không biết điểm khuyết điểm dở của mình, mà chấp điểm 
      khuyết điểm dở của bạn bè huynh đệ. Như vậy tự mình không sửa được mà chỉ 
      oán trách những người chung quanh. Những người mang bệnh này, bản thân đã 
      không tu tiến được, còn làm cho huynh đệ chung quanh sanh ra phiền não. Đó 
      là bệnh rất nặng, rất đáng chê trách. Kinh Phật và chư Tổ thường dạy chúng 
      ta, người tu tại gia hay xuất gia, phải thấy được lỗi của mình và quên lỗi 
      của người khác. Nếu chúng ta không trong sạch mà tự thấy mình trong sạch, 
      đó là không thấy lỗi mình. Đừng thấy lỗi người mà chúng ta cứ thấy người 
      này xấu người kia dở, đó là chúng ta trái hẳn với lời Phật Tổ dạy. Ai mang 
      bệnh này là một bệnh trầm trọng nhất, khó tiến trên đường tu. Người mang 
      bệnh này có bằng lòng ai đâu! Vì thấy mình trong sạch, mọi người đều xấu, 
      dở, cho nên không bằng lòng ai hết. 
      
                  2. 
      Bệnh thứ hai: Mình thật sự trong sạch rồi chê mọi người nhơ nhớp xấu xa. 
      Tạo sao mình trong sạch rồi thấy người nhơ nhớp xấu xa mình chê mà thành 
      bệnh? Lẽ ra mình trong sạch biết mình trong sạch, người khác nhơ nhớp xấu 
      xa mình thấy họ nhơ nhớp, xấu xa, đó là đúng lẽ thật. Đúng lẽ thật thì đâu 
      gọi đó là bệnh. Vì sao lại nói là bệnh? Vì khi chúng ta trong sạch, thấy 
      mình trong sạch rồi cho mọi người là nhơ nhớp xấu xa thì chúng ta muốn gần 
      họ hay không? Mình sạch quá mà gần người dơ xấu thì bị nhiễm làm sao! Vì 
      vậy mà không muốn gần ai. Nếu không muốn gần ai thì làm sao mình sống được 
      với người chung quanh. Đó là bệnh. Trên đường tu, chúng ta cố gắng trong 
      sạch bản thân mình rồi thấy mọi người đều nhơ xấu mình muốn tránh. Muốn 
      tránh mọi người thì đi đâu đây? Vô núi chăng, vô núi không ở được thì đi 
      đâu nữa? Vô rừng, vô rừng không ở được thì đi đâu nữa? Chẳng lẽ lên mây 
      xanh? Chính vì nhìn thấy người ở mặt xấu xa nhơ nhớp mà chúng ta không thể 
      hòa được với mọi người. Nếu không hòa được với mọi người thì tự chúng ta 
      khu biệt mình, sống ở giữa rừng người mà giống như ở trong sa mạc. Đó là 
      một bệnh trong nhà Phật gọi là bệnh thanh tịnh. 
      
                  
      Đến đây chúng tôi kể thêm một câu chuyện xưa có người bị bệnh thanh tịnh 
      cũng tương tự như vậy: Đó là câu chuyện ông Khuất Nguyên ở Trung Hoa, vào 
      đầu thế kỷ thứ ba. Ông là quan Tam lư làm chức Đại phu ở nước Sở. Ông là 
      một người học rộng có tài nhưng vì ông thấy ông thanh tịnh quá nên không 
      hòa được với mọi người, và khinh rẻ mọi người. Vì vậy ông làm mất lòng vua 
      Sở, bị vua Sở đày xuống đất Giang Nam. Khi bị đày đến Giang Nam, ông có 
      làm quen với một ngư phủ. Ông ngư phủ là một ẩn sĩ có tài, mà không cho 
      thiên hạ biết tung tích. Khi hai người nói chuyện với nhau, ông ngư phủ 
      phục ông Khuất Nguyên về văn học, ông Khuất Nguyên nể ông ngư phủ là người 
      thấu đáo việc đời. Một hôm thấy ông Khuất Nguyên tỏ vẻ buồn bực khổ não, 
      ông ngư phủ mới hỏi: “Ngài vì sao đến nông nỗi như vậy?” Ông Khuất Nguyên 
      trả lời: “Người đời đục cả chỉ mình ta trong, người đời say cả, chỉ mình 
      ta tỉnh, vì thế mà ta bị đày tới đây.” Ông Khuất Nguyên thấy người đời đục 
      cả chỉ mình ông trong, người đời say cả chỉ mình ông tỉnh. Bởi ông trong, 
      ông tỉnh, cho nên ông bị đày! Khi đó ông ngư phủ mới nói: “Người đời đục 
      thì Ngài cũng không nên giữ mình trong sạch, nguời đời say thì Ngài cũng 
      nên uống vài chén cho say luôn thể.” Nghe nói như vậy ông Khuất Nguyên 
      bựïc bội: “Ông nói sao vậy? Không thể nói trắng thành đen được, hay đen 
      thành trắng được, đá không thể nói là ngọc được, ngọc không thể là đá 
      được. Cho đến người trượng phu không thể là kẻ tiểu nhân, mà tiểu nhân 
      không thể là trượng phu. Ông nói như vậy thật là lộn lạo!” Ông ngư phủ mới 
      nói: “Ngài đã một lòng cứu nước, cứu dân, lẽ ra phải trà trộn vào đám tiểu 
      nhân, dần dần cảm hóa họ. Ngài định thay đổi cuộc đời, phải dấn thân vào 
      chỗ tối tăm làm cho sáng. Cớ sao lại cho cuộc đời là bẩn thỉu, người đời 
      là nhơ nhớp?” Một người cư sĩ, một người thường dám nói câu: Nếu muốn cứu 
      nước cứu dân, phải trà trộn trong đám tiểu nhân dần dần cảm hóa họ. Muốn 
      thay đổi cuộc đời cho được trong sạch, cần phải dấn thân vào chỗ tối tăm 
      làm cho nó sáng ra. Tại sao cho đời là bẩn thỉu, người đời là nhơ nhớp, 
      rồi thở than khổ sở. Ông Khuất Nguyên đáp lại: “Kẻ đã tắm gội thay quần 
      áo, không thể lại nhảy xuống bùn.” Ông cho rằng ông như người tắm gội sạch 
      rồi, mà bắt ông nhảy xuống bùn, ông không thể làm được. Khi ấy ông ngư phủ 
      thấy không thể khuyên được nên than bằng những câu hát: 
      
      
                              Nước sông Thương Lang trong thay! 
      
      
                              Nước sông Thương Lang đục thay! 
      
      
                              Nước trong thì ta giặt giải mũ, 
      
      
                              Nước đục thì ta rửa chân. 
      
                  
      Hát xong, ông chèo thuyền đi. Ông Khuất Nguyên vì quá trong sạch, không 
      chịu đựng nổi, phải ôm viên đá gieo mình xuống sông Mịch La tự tử, nhằm 
      ngày mùng năm tháng năm. Chúng ta ăn tết ngày mùng năm tháng năm để tưởng 
      nhớ ngày ông Khuất Nguyên trầm mình chết. 
      
                  
      Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy ông Khuất Nguyên bị bệnh gì? – Bệnh 
      thanh tịnh. Vì ông trong sạch nên ông không muốn hòa với những người nhơ 
      nhớp xấu xa. Nếu không hòa được với những người nhơ nhớp xấu xa, thì sống 
      được không? Cuối cùng phải đi tự tử! Như vậy ông Khuất Nguyên và ông ngư 
      phủ, ai là người biết sống hơn? – Ông ngư phủ là người biết sống. Nếu nước 
      trong thì mình giặt giải mũ, nếu nước đục thì mình rửa chân. Nếu đòi hỏi 
      nước trong, khi ấy nước lại đục, mình sẽ không dùng nó được việc gì. 
      
                  
      Trở lại việc đạo, đức Phật đã dạy, nếu chúng ta tu hành được thanh tịnh 
      sáng suốt, thì phải thương và nghĩ tới những chúng sanh đang mê lầm, đang 
      chìm đắm trong biển khổ cứu vớt họ, lao mình trong cảnh đó để cứu độ chúng 
      sanh. Được như vậy chúng ta mới là người thật tình vì Phật pháp. Nếu cứ 
      nghĩ mình là trong sạch, còn thiên hạ là xấu xa nhơ bẩn, rồi không muốn 
      gần họ. Không gần với họ thì chính mình tự cô lập mình, chính mình không 
      làm lợi gì cho ai được. Trong chúng ta nếu ai đã lỡ bị “bệnh trong sạch”, 
      phải sửa bỏ để vui vẻ hòa nhịp với mọi người. 
      
                  
      Chúng tôi vừa chỉ thuốc trị bệnh, nhưng không khéo thuốc cũng thành bệnh. 
      Tại sao thuốc trị bệnh, thuốc lại có thể thành bệnh? Hòa mình với người là 
      khi mình trong sạch, đem trong sạch ra hòa với những người nhơ nhớp để 
      giáo hóa, chuyển hướng họ trở thành trong sạch như mình. Đó là dùng thuốc 
      trị bệnh. Nếu mình chưa trong sạch mà muốn hòa với người thì kết quả sẽ ra 
      sao? Hòa quang đồng trần, quang là ánh sáng, là trong sạch, trần là bụi 
      bặm, là nhơ nhớp. Mình sáng, mới đem ánh sáng lại chỗ nhơ nhớp để chuyển 
      nó thành sáng. Nếu mình đang là bụi, đang là nhơ nhớp mà hòa với nhơ nhớp 
      nữa thì kết quả sẽ như thế nào? Như vậy thuốc trở thành bệnh. Vì vậy khi 
      dùng thuốc trị bệnh chúng ta phải dè dặt. Nếu chúng ta thật thanh tịnh, 
      chúng ta phải thương người chưa thanh tịnh, hòa với họ để giáo hóa họ. Chớ 
      thở than rằng mọi người xấu quá làm sao giáo hóa họ được, mọi người mê quá 
      làm sao cho họ tỉnh được. Mình đã tỉnh, phải tìm mọi cách làm cho người mê 
      được tỉnh, mình đã sạch, phải tìm mọi cách làm cho người nhơ được sạch. 
      Như vậy mới đúng tinh thần của người học đạo, mà cũng chính là nghĩa tự 
      giác giác tha trong nhà Phật. 
      
                 Nếu 
      thấy người quá xấu xa, chúng ta thở dài chán nản, không bằng lòng ai hết, 
      đó là bệnh. Để trị bệnh này, chúng ta không học gương ông ngư phủ mà phải 
      học gương ngài Bồ-tát Thường Bất Khinh. Bồ-tát gặp ai cũng bái và nói: 
      “Tôi không dám khinh các ngài vì các ngài đều sẽ thành Phật.” Dưới mắt của 
      Bồ-tát Thường Bất Khinh, ai cũng có thể thành Phật. Như vậy có người nào 
      đáng để mình khinh chê đâu. Đáng chê chăng, là tự chê mình không có tài, 
      không có phương tiện chuyển hóa người từ mê thành giác. Bồ-tát Thường Bất 
      Khinh lúc nào cũng lạc quan, vì Ngài thấy mọi người đều sẽ thành Phật. Noi 
      gương Ngài, chúng ta gặp ai cũng phải kính nể vì tin rằng ai rồi cũng sẽ 
      thành Phật. Với niềm tin đó, chúng ta cố gắng chuyển hóa mọi người để cùng 
      thành Phật với mình. Dù bị những người không bằng lòng, có đánh mắng, 
      chúng ta vẫn cam chịu, và giữ vững niềm tin. Chúng ta cố gắng làm lợi 
      mình, lợi người trong mọi hoàn cảnh. Đó mới đúng tinh thần của người học 
      đạo. 
      
                  
      Tranh Thiền tông “Thập mục ngưu đồ” hay “Mười bức tranh chăn trâu”, bức 
      thứ tám là: không còn người không còn trâu, bức thứ chín là: lá rụng về 
      cội, chim bay về tổ, nước chảy về nguồn, danh từ nhà thiền gọi là: Nhập 
      Phật giới. Từ chỗ không ngã không pháp (bức tranh thứ tám) bước qua một 
      chặng nữa mới thể nhập được pháp thân thanh tịnh tràn đầy của chúng ta, đó 
      gọi là nhập Phật giới (bức tranh thứ chín). Khi chúng ta thể nhập được 
      pháp thân thanh tịnh rồi, nếu chúng ta hài lòng ẩn trú trong cảnh tịnh đó 
      là chưa có đủ công đức giáo hóa lợi tha. Vì vậy sau khi nhập Phật giới rồi 
      liền phải bước vào ma giới (bức tranh thứ mười). Trong mười bức tranh chăn 
      trâu, bức thứ mười vẽ lên một Thiền sư đóng cửa am trên núi, tay cầm gậy, 
      tay xách xâu cá chép với bầu rượu đi xuống chợ, gọi là “Nhập triền thùy 
      thủ” tức là buông thõng tay vào chợ. Chính chỗ đó trong nhà thiền gọi là 
      vào ma giới. Khi được thanh tịnh rồi, chúng ta phải lăn mình vào trong chợ 
      đời để cảm hóa chúng sanh, chúng ta hòa mình với mọi người còn đang mê 
      muội, còn đang xấu xa mà không bị lầm lẫn, không bị hoen ố. Trong nhà 
      thiền còn dùng danh từ là “đầu tro mặt đất”, tức là chúng ta bị bụi bặm 
      nhem nhuốc vì làm lợi ích chúng sanh, chớ không phải  chính mình bị bụi 
      bặm làm nhơ nhớp. Giai đoạn này gọi là: hòa quang đồng trần, tức là trộn 
      lẫn ánh sáng trong bụi bặm. Ánh sáng và bụi bặm tuy hòa lẫn, nhưng là một 
      hay là hai? Ánh sáng không là bụi bặm được, ánh sáng bao giờ cũng là ánh 
      sáng. Như vậy chúng ta phải thể nhập được Phật giới rồi mới đi vào ma 
      giới. Nếu chưa vào Phật giới mà đi vào ma giới sớm quá, kết quả sẽ ra sao? 
      Vì vậy sau khi ngộ đạo rồi, ngài Huệ Khả mới đi vào chợ đời, đến quán 
      rượu, nhà hát v.v… Các Phật tử thấy vậy hỏi Ngài: “Hòa thượng tu hành, sao 
      lại đến nơi này?” Ngài đáp: “Ta thử tâm ta, có liên hệ gì đến ông!” Đây là 
      lúc Ngài vào ma giới. 
      
                  
      Chúng ta phải thấy rõ là khi nào nên vào ma giới, khi nào không nên. Như 
      chúng ta hiện nay chưa thấy đạo mà vào ma giới ngay, là bệnh. Khi chúng ta 
      nhập được Phật giới rồi mới nói đến việc vào ma giới. Nhiều người chưa 
      biết Phật giới, muốn vào ma giới sớm quá, rồi bắt chước các bậc đạt đạo 
      vào chợ đời, ngồi quán rượu và nói: tôi đây vào ma giới, buông thõng tay 
      vào chợ. Đó là những người dùng ngôn ngữ nhà thiền, hay dùng ngôn ngữ của 
      Phật Tổ để che đậy lòng tham dục của chính mình, chớ không phải người tu 
      chân thật. 
      
                  Rõ 
      được bệnh người tu, chúng ta phải biết dùng những loại thuốc nào đúng lúc 
      đúng lượng mới mong hết bệnh. Nếu không biết cách dùng thuốc, bệnh không 
      hết mà lại tăng thêm. Trên đường tu hành chúng ta phải biết nên làm gì ở 
      mỗi giai đoạn. Nếu đang lúc nỗ lực tiến tu, buông bỏ các phiền não xấu xa, 
      dù có ai rủ vào ma giới, chúng ta cũng không dám vào, vì việc tu chưa 
      xong, hãy khoan. Khi nào chúng ta thật tình là thanh tịnh, hoàn toàn không 
      còn nhiễm ô nữa, lúc ấy nếu có ai rủ vào ma giới, chính là lúc mình vào, 
      phải không? Phải biết mình cho thật rõ, việc làm mới có lợi ích. 
      
                  
      Chúng tôi vừa chỉ cho quí vị biết đâu là thuốc, đâu là bệnh, dùng thuốc 
      đúng thời thì có lợi, nếu sai thời có hại. Vì vậy người tu phải rất thận 
      trọng. Có nhiều người ban đầu tu hành rất hay, sau trở thành dở, vì sử 
      dụng thuốc không đúng thời vậy. Để nhắc lại, sau khi nhập Phật giới rồi, 
      chúng ta mới vào ma giới được. 
      
                  
      Khi nói vào ma giới, chúng tôi xin dẫn bài kệ của một cư sĩ Việt Nam đời 
      Trần, ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ. Ngài có làm bài kệ “Nhập Trần” bằng chữ 
      Hán như sau: 
      
      
                              Thiều thiều khoát bộ nhập trần lai, 
      
      
                              Hoàng sắc mi đầu đỉnh đỉnh khai. 
      
      
                              Bắc lí ưu du đầu mã phúc, 
      
      
                              Đông gia tán đản nhập lư thai. 
      
      
                              Kim tiên đả sấn nê ngưu tẩu, 
      
      
                              Thiết sách khiên trừu thạch hổ hồi. 
      
      
                              Tự đắc nhất triêu phong giải đống, 
      
      
                              Bách hoa nhưng cựu lệ xuân đài. 
      
                  
      Bài dịch: 
      
      
                              Vào vòng cát bụi 
      
      
                              Vào vòng cát bụi nhịp chân đưa, 
      
      
                              Vàng óng đầu mi rực rỡ đùa. 
      
      
                              Xóm bắc rong chơi gieo bụng ngựa, 
      
      
                              Nhà đông vui bước nhập thai lừa. 
      
      
                              Roi vàng đánh đuổi trâu bùn chạy, 
      
      
                              Dây sắt lôi về cọp đá thua. 
      
      
                              Bỗng được một hôm băng giá hết, 
      
      
                              Trăm hoa như cũ rộn xuân xưa. 
      
                  
      Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ là một cư sĩ tại gia, mà đã nói được những câu 
      siêu thoát như vậy! Sau đây là ý nghĩa của bài kệ: 
      
      
                              Vào vòng cát bụi là vào ma giới. 
      
                  
      Vào vòng cát bụi nhịp chân đưa: là chỉ hình ảnh vị Hòa thượng tay xách xâu 
      cá chép đi vào chợ (Tranh thiền tông thứ 10). 
      
                  
      Vàng óng đầu mi rực rỡ đùa: tuy đi vào cát bụi nhưng đầu mi đầu mày của 
      Ngài vẫn rực rỡ, óng ánh chớ không nhem nhuốc đen tối. Câu này nói lên 
      nghĩa hòa quang đồng trần, đem ánh sáng đến chỗ tối tăm (chớ không phải 
      đem cái tối vào bóng tối). 
      
                  
      Xóm bắc rong chơi gieo bụng ngựa: đến trong xóm bắc để nhập vào trong bụng 
      ngựa thọ thai. 
      
                  
      Nhà đông vui bước nhập thai lừa: nhập vào thai lừa ở bên nhà đông. 
      
                  
      Hai câu này ý nói: Khi vào trong vòng cát bụi, không chọn nơi tốt, không 
      tránh nơi xấu, nơi đâu cần làm lợi ích chúng sanh, các ngài cũng đến được. 
      Không chọn lựa, không chê nơi xấu dở, các ngài vào những chỗ ấy để làm gì? 
      
      
                              Roi vàng đánh đuổi trâu bùn chạy, 
      
      
                              Dây sắt lôi về cọp đá thua. 
      
                  
      Cầm roi vàng đánh con trâu bằng đất, nó cũng chạy mịt. Nắm dây sắt kéo con 
      cọp đá, cọp đá cũng phải đầu hàng. Trâu đất có biết chạy không? Cọp đá có 
      phục ai không? Tại sao ở đây lại nói đánh trâu đất chạy, lôi cọp đá thua? 
      Đây ý nói rằng khi đến được thể thanh tịnh sáng suốt tròn đầy, chúng ta 
      lăn mình vào cuộc đời để giáo hóa chúng sanh. Lúc ấy chúng ta được đầy đủ 
      diệu dụng không phải là tầm thường, cho nên trong nhà thiền thường nói nắm 
      đất hóa thành vàng, khuấy nước biển thành đề-hồ, tô-lạc. Khi con người đạt 
      đến mức đó rồi, dù ở trong cảnh xấu xa bẩn thỉu cũng không bị vướng mắc, 
      hay bị che lấp mờ lối đi. Hình ảnh đánh trâu đất chạy, lôi cọp đá thua là 
      để chỉ diệu dụng không thể lường được của người đạt đạo. 
      
                  
      Đến hai câu kết: 
      
                  
      Bỗng được một hôm băng giá hết: công dụng giáo hóa được viên mãn (tức là 
      băng giá đã hết). 
      
                  
      Trăm hoa như cũ rộn xuân xưa: lúc đó là một mùa xuân đầy đủ trăm hoa như 
      thuở nào. 
      
                  
      Đại ý bài kệ nói rằng khi chúng ta lao mình trong cát bụi tuy làm những 
      việc rất tầm thường, rất xấu xa mà đầy đủ diệu dụng, chớ không bị nhiễm, 
      không bị ô uế. Làm tròn những việc ấy rồi, chúng ta cũng trở về với thể 
      thanh tịnh sáng suốt như thuở nào, tức là trở về chỗ mùa xuân của nghìn 
      đời đầy đủ cả trăm hoa không thiếu loại nào. 
      
                  
      Trên đường tu nếu mọi người chúng ta ai cũng thể hiện được tinh thần đạt 
      đạo thì cuộc đời đẹp biết dường nào! Đâu còn phải than vắn thở dài thiên 
      hạ xấu quá tôi không thể giúp gì cho họ được, trái lại chúng ta thấy rằng 
      mỗi chúng sanh đều có thể giáo hóa được. Chúng ta nỗ lực tiến tu để đến 
      chỗ viên mãn thanh tịnh. Được thanh tịnh rồi, chính trong chỗ ô uế, xấu xa 
      chúng ta dùng những diệu dụng không lường để cảm hóa họ. Được như vậy rồi, 
      chúng ta mới an nhiên tự tại an trú vào Niết-bàn, hay là thể nhập Pháp 
      thân, hay nói theo đây là trở về mùa xuân tràn đầy hoa thơm cỏ lạ. 
      
                  Để 
      kết luận, tất cả quí vị nên nhớ: Chúng ta có hai bệnh. Một là bệnh mình 
      chưa thanh tịnh mà tưởng mình thanh tịnh, rồi chê hết mọi người, đó là 
      bệnh nan y. Ai bị bệnh này, phải sám hối một ngày bốn lần, nếu một hay hai 
      lần cũng chưa hết bệnh được. Hai là nếu thật tình tu hành chín chắn, giữ 
      giới trong sạch, ngôn ngữ hành động đều thanh tịnh, tâm niệm rất sáng 
      suốt, rồi nhìn thấy mọi người còn dở, còn xấu quá nên muốn tách rời họ, 
      muốn tránh xa họ để sự thanh tịnh của mình được trọn vẹn, đó cũng là bệnh. 
      Vì sao? Vì trên cuộc đời này, chúng ta đều có sự liên hệ với nhau. Nếu 
      chúng ta chỉ thấy riêng có một mình, không chịu kết chung với mọi người để 
      chuyển hóa họ, đó là chúng ta tách rời mình ra khỏi nhân loại, ra khỏi 
      chúng sanh. Tách riêng mình ra như vậy, e rồi chúng ta rơi xuống biển sâu, 
      không đứng trên thế gian, không đứng trên mặt đất được. Vì vậy chúng ta 
      rán đừng bị bệnh thanh tịnh này. Còn một bệnh nữa là bệnh chưa thanh tịnh 
      mà xưng là thanh tịnh rồi xông pha mọi nơi. Càng xông pha càng nhiễm ô, 
      rốt cuộc một ngày nào mình làm kẻ tệ hơn tất cả thiên hạ, không phương cứu 
      chữa. 
      
                  
      Chúng tôi mong rằng tất cả Tăng Ni và Phật tử biết tu phải ráng tỉnh sáng, 
      biết đúng thời, đúng lúc dùng thuốc trị tâm bệnh của mình. Sạch được những 
      bệnh trong tâm rồi, một ngày kia chúng ta mới có thể làm tròn bổn phận của 
      người xuất gia, của người tu theo đạo giác ngộ giải thoát. Đó là điều mong 
      mỏi cuối năm của chúng tôi. Mong tất cả quí vị nỗ lực cố gắng. 
      
      NAM-MÔ BỔN 
      SƯ THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT. 
      
      ]  |