TINH THẦN GIẢI THOÁT TRONG GIÁO LÝ PHẬT-ĐÀ
      
      
      BÀI NÓI CHUYỆN VỚI TĂNG NI 
      
      
      
      XUÂN MẬU THÌN 1998 
      
      Nam-mô Bổn 
      sư Thích-ca Mâu-ni Phật. 
      
                  
      Hôm nay là ngày Tết Nguyên Đán năm Mậu Thìn, tất cả Tăng Ni và Phật tử về 
      đây, gọi theo thế tục là mừng tuổi, chúc mừng năm mới chúng tôi. Để có thì 
      giờ nhắc nhở kỹ, quí vị lễ Phật rồi ngồi xuống, chúng tôi sẽ nói chuyện từ 
      từ với quí vị nhiều hơn. 
      
                  
      Ngày mùng một Tết năm nay, chúng tôi nghĩ không gì hơn là nhắc lại mục 
      đích tối thượng của người tu Phật, “Ôn cố tri tân” là nhắc lại việc cũ để 
      quí vị cùng nhớ, biết những điều mới để chúng ta thực hiện cho kỳ được. Vì 
      vậy đề tài chúng tôi nói hôm nay là “Giải Thoát”. 
      
                  
      Trong kinh đức Phật đã dạy: “Tất cả nước biển chỉ có một vị là vị mặn, tất 
      cả giáo pháp của ta chỉ có một vị là vị giải thoát.” Như vậy mục tiêu tối 
      thượng của người tu Phật là lấy sự giải thoát làm cứu kính. Nếu không nắm 
      vững được ý nghĩa giải thoát thì trên đường tu chúng ta khó đạt được mục 
      đích của mình. Như vậy giải thoát là giải thoát những gì? Đây là điều 
      chúng tôi đem ra giãi bày cho tất cả quí vị thấy thật rõ. 
      
                  
      Nói đến giải thoát, chúng ta phải thấy nghĩa ngược của nó hay nghĩa trái 
      của nó. Trái với giải thoát là gì? Là triền phược theo danh từ Hán, hay 
      trói buộc theo danh từ Việt. Vì thấy mình bị triền phược hay là bị trói 
      buộc nên chúng ta nói cầu giải thoát. Do ở trong vòng bao vây của các 
      phiền não, không làm sao tự thoát ra được nên chúng ta phải nương giáo 
      pháp đức Thế Tôn chỉ dạy để thoát khỏi trần lao phiền não. Như vậy giải 
      thoát có nghĩa là cởi mở, là mở trói, là được tự do. Tất cả chúng ta khi ở 
      trong một hoàn cảnh bị trói buộc, chúng ta khao khát được cởi mở, khi ở 
      trong hoàn cảnh bị gò bó trong một khuôn khổ hết sức chật hẹp chúng ta 
      muốn được tự do muốn được thoát ra ngoài. Vì vậy nói đến giải thoát là khi 
      đang bị bủa vây ép ngặt chớ không phải trong hoàn cảnh tự do tự tại. Bủa 
      vây ép ngặt tức nhiên là khổ đau. Nói rõ hơn ý nghĩa giải thoát là giải 
      thoát nỗi khổ đau của kiếp người. 
      
                  Đi 
      sâu vào vấn đề giải thoát, tại sao chúng ta cầu giải thoát? Và giải thoát 
      như thế nào? Chúng ta phải nhìn thật kỹ, thấy thật rõ những điều đang trói 
      buộc, đang làm mình đau khổ và chúng ta tu để cầu giải thoát những điều 
      đó. Vấn đề giải thoát là một sự thật, không có ngờ vực. Có lắm người hoặc 
      Tăng Ni, hoặc Phật tử, mỗi khi lễ Phật nguyện hương đều nguyện đức Thế Tôn 
      gia bị cho chúng con giải thoát hết khổ đau, dẹp sạch hết phiền não. Như 
      vậy dẹp phiền não, dứt khổ đau là nhờ sự gia bị của đức Phật. Nhưng sự 
      thật đức Phật có làm cho chúng ta giải thoát được không? Đó là một vấn đề. 
      Hơn nữa có nhiều người nghĩ rằng nói tới giải thoát là nói một việc gì xa 
      xôi cao cả lắm, coi như mình không bao giờ với tới được. Nói tới giải 
      thoát là nói chuyện của những bực thánh chớ không phải là của kẻ phàm. Cho 
      nên khi nói tu với mục đích giải thoát, chúng ta coi như là chuyện không 
      bao giờ có, hay là không bao giờ đến được, rồi tự khi mình và lui sụt, đó 
      cũng là bệnh. Vì vậy chúng ta phải thật sự nhìn thẳng ý nghĩa giải thoát. 
      
                  
      Nói đến giải thoát khỏi các sự ép ngặt bủa vây, chúng tôi thuật lại câu 
      chuyện sau: “Thuở xưa ở Trung Hoa có hai vị Thượng tọa, Thượng tọa Minh và 
      Thượng tọa Thâm, cùng có duyên sự phải đi qua sông Hoài. Khi ngồi đò sang 
      sông, hai vị thấy nhiều người đánh cá đang kéo lưới. Khi lưới kéo gần đến 
      bờ, có một con cá từ trong lưới nhảy vọt ra ngoài. Thượng tọa Minh vỗ tay 
      khen: ‘Hay thay! Giống như người xuất gia.’ Thượng tọa Thâm bèn nói: ‘Đâu 
      có hay gì, phải ở ngoài lưới mới hay chứ.’ Thượng tọa Minh bảo: ‘Thế là 
      huynh Thâm chưa hiểu.’ Đi được một đoạn đường xa, Thượng tọa Thâm mới bừng 
      hiểu lý mình đã sai.” 
      
                  
      Qua câu chuyện trên, hai vị Thượng tọa đúng ở chỗ nào? Thượng tọa Thâm nói 
      cũng có lý: Đợi ở trong lưới mới nhảy ra, chi bằng ở ngoài lưới chẳng 
      thích hơn sao? Nhưng tại sao Thượng tọa Minh lại nói: huynh Thâm chưa 
      hiểu. Như chúng tôi đã định nghĩa giải thoát, giải thoát là gì? Là chúng 
      ta đang bị trói buộc, đang bị ép ngặt, thoát được sự trói buộc, thoát được 
      sự ép ngặt gọi đó là giải thoát. Nếu không bị trói buộc, không bị ép ngặt 
      còn nói giải thoát làm gì? Như con cá đang bị lưới bủa vây, không có lối 
      thoát nó mới nhảy vọt lên để ra khỏi vòng lưới, đó là nó giải thoát được 
      mành lưới. Nếu nó ở ngoài lưới rồi, nó đâu cần nhảy chi nữa. Cũng như vậy, 
      nếu chúng ta là thánh rồi, chúng ta không có phiền não, không có khổ đau, 
      chúng ta nói tu để giải thoát còn có nghĩa là giải thoát nữa hay không? 
      Hẳn là không vậy. Sở dĩ chúng ta nói tu, nói cầu giải thoát là vì chúng ta 
      bị phiền não nhiều, bị trói buộc nhiều bởi những tâm niệm xấu xa đen tối 
      của mình mà chính mình chưa chinh phục được. Vì thế chúng ta phải cố gắng 
      nỗ lực bứt cho đứt hết mọi sợi dây phiền não để nhảy tung ra một chân trời 
      mới không còn bị phiền não trói buộc nữa, đó gọi là giải thoát. Nói tóm 
      lại, đang bị bao vây, đang bị đau khổ, chúng ta mới nói đến giải thoát, đó 
      là ý nghĩa câu chuyện của hai vị Thượng tọa khi xưa. 
      
                  
      Sau này, Thiền sư Khuê ở Cổ Sơn, Ngài có bình câu chuyện đó bằng bốn câu 
      tụng: 
      
      
                              Võng trung đào xuất tiện nghi đằng, 
      
      
                              Hà cá thiên nhiên tuấn nạp tăng. 
      
      
                              Hà tợ đương sơ vị nhập võng 
      
      
                              Ngộ lai phương thủy thị tri âm. 
      
                  
      Tạm dịch: 
      
      
                              Nhảy ra khỏi lưới lại bay xa, 
      
      
                              Nào phải thiên nhiên bậc tác gia. 
      
      
                              Đâu giống buổi đầu chẳng vào lưới, 
      
      
                              Tỉnh ra mới biết thật người nhà. 
      
                  
      Nhảy ra khỏi lưới lại bay xa: Đây diễn tả hình ảnh con cá khi vượt ra khỏi 
      lưới, nó bơi lội tung tăng, không còn dám lẩn quẩn ở đó nữa. 
      
                  
      Nào phải thiên nhiên bậc tác gia: Bậc tác gia là người tu đạt đạo. Người 
      tu đạt đạo là tự sẵn có, hay đạt đạo là do công phu huân tu, công phu khó 
      nhọc để chinh phục nội tâm của mình? Có vị Phật nào bỗng dưng thành Phật 
      chăng? Có vị Bồ-tát nào bỗng dưng thành Bồ-tát chăng? Có vị A-la-hán nào 
      bỗng dưng thành A-la-hán chăng? Chắc hẳn là không! Vì thế thành A-la-hán, 
      thành Bồ-tát hay thành Phật gốc từ công phu tu hành, vượt khỏi phiền não, 
      chinh phục được nội tâm của mình. Rồi sau đó mới gọi là bậc tác gia, mới 
      thành A-la-hán, mới chứng được quả Bồ-đề, chớ không phải bỗng dưng mà 
      được. Nếu chúng ta quan niệm không cần phải tu, để tự nhiên được kết quả, 
      điều đó không bao giờ có. 
      
                  Ý 
      của Thượng tọa Thâm nói rằng phải ở ngoài lưới, không đợi vô lưới mới nhảy 
      ra cho phí công, cho nên câu sau nói: 
      
                  
      Đâu giống buổi đầu chẳng vào lưới: Buổi đầu không vào lưới mới là sung 
      sướng, mới là an ổn. Quan niệm như vậy là không đúng. 
      
                  
      Tỉnh ra mới biết thật người nhà: Khi thức tỉnh rồi mới biết người sư huynh 
      của mình (Thượng tọa Minh) nói là hợp lý. Sự giải thoát của người tu là vì 
      chúng ta đang ở trong vòng bao vây của phiền não, của các cám dỗ của sáu 
      trần, khi chúng ta thoát ra, đó gọi là giải thoát, đó chính là sức mạnh 
      của người tu. Nếu không có những điều đó thì không nên nói xuất gia làm 
      gì. 
      
                  
      Trong việc giải thoát có những trình tự cao thấp khác nhau, chớ không phải 
      giải thoát thuần y như nhau. Sau đây chúng tôi dẫn cách giải thoát trong 
      những bộ kinh theo tinh thần Nguyên thủy và các giải thoát trong những bộ 
      kinh theo tinh thần Phát triển. 
      
                  
      Nói về việc giải thoát theo tinh thần Nguyên thủy, trong kinh A-hàm, có 
      câu chuyện ngài Phú-lâu-na đến hỏi Phật. Ngài Phú-lâu-na thưa: “Bạch Thế 
      Tôn, xin Thế Tôn dạy cho pháp yếu để con đến chỗ vắng vẻ tu hành.” Đức 
      Phật liền dạy: “Nếu mắt thấy sắc không đuổi theo, không chấp chặt, đó là 
      gần với Niết-bàn. Ngược lại nếu mắt thấy sắc mà đuổi theo mà chấp chặt đó 
      là xa với Niết-bàn. Lỗ tai nghe tiếng, lỗ mũi ngửi mùi, thân xúc chạm, ý 
      duyên với pháp trần nếu không đuổi theo, không chấp chặt là gần với 
      Niết-bàn, còn đuổi theo, chấp chặt đó là xa với Niết-bàn.” Khi nhận được 
      pháp yếu rồi, ngài Phú-lâu-na ra đi đến chỗ vắng vẻ tu hành, chỉ trong 
      vòng ba tháng, Ngài đắc quả A-la-hán. Như vậy pháp yếu đức Phật dạy tu để 
      giải thoát đâu có khác với chúng ta, sáu căn tiếp xúc với sáu trần mà 
      không đuổi theo, không dính mắc hay chấp chặt đó là giải thoát; nếu đuổi 
      theo, nếu chấp chặt đó là trầm luân. Trầm luân hay giải thoát rất là đơn 
      giản, không đợi tới kiếp nào khác, mà ngay nơi hiện tại: mắt thấy sắc, tai 
      nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý duyên với pháp 
      trần, chúng ta không đuổi theo, không dính mắc, ngay nơi đó chúng ta đã 
      giải thoát rồi. Giải thoát không phải là chuyện xa vời, không phải là việc 
      không với tới được, mà chính là thật tế, là cụ thể. Ngay nơi chúng ta ai 
      cũng có khả năng giải thoát chính mình. Có người nào nghĩ rằng việc đó 
      mình không thể làm nổi không? Ai cũng có thể làm được. Vì vậy nói đến tu 
      giải thoát mới nghe tưởng như là xa vời, cao siêu tuyệt đỉnh, nhưng sự 
      thật hết sức là gần gũi, hết sức là thật tế đối với chúng ta. Ngược lại sự 
      trầm luân cũng không xa lạ. Nếu chúng ta mắt đuổi theo sắc rồi bám chặt 
      vào sắc, tai đuổi theo tiếng rồi bám chặt vào tiếng v.v… đó là chúng ta 
      trầm luân. 
      
                  
      Trong kinh A-hàm, đức Phật kể một câu chuyện cho chư Tỳ-kheo nghe: Có một 
      bầy khỉ, con khỉ chúa lãnh đạo dạy những con khỉ nhỏ: Các người đi ăn phải 
      theo lệnh của ta hướng dẫn chỉ dạy, đừng có tẻ đoàn đi lang thang sẽ bị 
      nguy hiểm. Khỉ chúa khôn ngoan biết chỗ nào có bẫy, có rập, chỗ nào có thợ 
      săn, nên nó tránh né không cho đoàn khỉ tới những chỗ ấy. Nhưng trong đoàn 
      có một con khỉ hơi ngạo mạn lại tham ăn, nó nghĩ  nếu đi theo đoàn mình ăn 
      uống không được đầy đủ, chi bằng đi riêng rồi kiếm thức ăn một mình, tha 
      hồ ăn uống no nê rồi trở về đoàn. Nó tách đoàn ra đi đến một chỗ kia, 
      chẳng may gặp người thợ săn dùng cây nhựa để bẫy khỉ. Cây nhựa rất dẻo và 
      chắc, bên cạnh cây nhựa có để miếng mồi nhử khỉ. Khỉ con dại khờ thấy mồi 
      mừng quá, nhảy tới chụp mồi. Vừa đưa tay mặt chụp mồi bị nhựa dính tay, 
      tay trái liền chụp vào để gỡ liền bị dính luôn. Thế là hai tay bị dính 
      nhựa. Đến chân mặt đưa vô để quào bị dính luôn, chân trái liền đưa tới để 
      quào dính luôn chân trái. Như vậy là hai tay hai chân đều bị dính. Cái đầu 
      liền cúi xuống cạp gỡ cũng bị dính luôn. Chỉ còn cái đuôi ngoắc ngoắc cố 
      gắng vùng vẫy để quật cái bẫy ra bị dính luôn. Như vậy sáu cái: hai tay, 
      hai chân, đầu và đuôi đều bị dính nhựa không thoát thân được. Lúc ấy người 
      thợ săn đến lượm khỉ bỏ vô giỏ đem về. 
      
                  
      Qua câu chuyện trên đức Phật muốn dạy chúng ta điều gì? Nếu vì quyền lợi 
      vì thích thụ hưởng, con khỉ tách đoàn ra đi, rồi bị thợ săn đánh bẫy. Khi 
      sáu căn nó (tức sáu bộ phận) bị dính bẫy rồi, người ta bắt đem về dễ dàng 
      không còn ai cứu được. Cũng như vậy, người tu xuất gia ở trong đoàn Tăng 
      hay Ni có vị thầy chỉ dạy hướng dẫn, nhưng họ thích thụ hưởng riêng, thích 
      làm theo ý mình, dù thiếu kinh nghiệm mà vẫn đi ra ngoài. Khi ra ngoài, 
      mắt thấy sắc liền nhiễm sắc, tai nghe tiếng liền nhiễm tiếng, cho đến sáu 
      căn bị cột dính với sáu trần. Lúc đó ma vương dẫn đi một cách dễ dàng, như 
      chú thợ săn lượm con khỉ bỏ vào giỏ một cách dễ dàng, không khó khăn chút 
      nào. 
      
                  
      Khi sáu căn dính với sáu trần, chúng ta lọt vào bàn tay của ai? Của ma 
      vương phải không? Lọt vào bàn tay của ma vương rồi, chúng ta khó hy vọng 
      được giải thoát. Vì vậy người tu muốn được giải thoát phải gan dạ như lời 
      đức Phật dạy: Sáu căn tiếp xúc với sáu trần đừng đuổi theo, đuổi theo là 
      tham cầu, đừng dính mắc, dính mắc là nhiễm trước. Không tham cầu, không 
      nhiễm trước, tức nhiên chúng ta được giải thoát, sự giải thoát đến với 
      chúng ta hết sức là dễ dàng. Nếu chúng ta đuổi theo sáu trần là tham cầu, 
      dính mắc nó là nhiễm trước, khi ấy có vùng vẫy mấy cũng khó thoát khỏi bàn 
      tay của ma vương. 
      
                  
      Người tu chúng ta trên cõi đời này muốn được giải thoát không phải là 
      chuyện mơ màng xa xôi, mà chính là chuyện thật tế trong cuộc sống hằng 
      ngày của chúng ta. Nếu một người sáu căn tiếp xúc với sáu trần mà không 
      dính không mắc, không đuổi theo, người ấy có hào quang chưa? – Đâu có, chỉ 
      là không dính mắc sáu trần thôi, chớ đâu có hào quang. Người ấy có biết 
      chuyện quá khứ, vị lai chưa? – Đâu có biết quá khứ, vị lai gì. Nhưng người 
      ấy có giải thoát thật chưa? – Có. Như vậy không phải có hào quang mới là 
      giải thoát, không phải biết quá khứ vị lai mới là giải thoát, mà chính sáu 
      căn không bị sáu trần lôi cuốn, cột trói, đó là giải thoát. Nhưng sáu trần 
      có dây cột trói mình hay không? Hay là mình cột vào nó? Sự thật là mình 
      cột vào sáu trần, nghĩa là thấy nó là mình đuổi theo rồi bám chặt vào nó, 
      đó là mình dính mắc vào sáu trần rồi mình than van cầu xin Phật Trời cứu 
      giúp con. Ai trói buộc mình mà mình kêu cứu, mình thắp hương cầu giải 
      thoát? Phật bảo chúng ta buông, mà chúng ta nắm chặt quá, kẹt tay mình 
      trong đó, rồi than Phật Trời không cứu con! Muốn cúu chúng ta, đức Phật 
      dạy: “Ngươi chịu khó buông đi.” 
      
      
                  Chúng ta thật giống như đứa bé thò tay vào hũ kẹo. Khi tay 
      không nó thò vào hũ được, nhưng vì thích kẹo quá nên nắm đầy cứng, rút tay 
      ra không được, rồi kêu khóc. Mẹ thương con, bảo nó: “Con buông đi, tay 
      không rút ra dễ dàng, chớ có khó gì.” Như vậy thuật giải thoát là gì? Chỉ 
      là một cái buông, nếu còn nắm đầy một tay kẹo, làm sao mẹ cứu con được! 
      
                  
      Đức Phật cũng bảo chúng ta đừng dính với sáu trần, các Thiền sư cũng dạy 
      chúng ta buông đi, hiện nay chúng tôi cũng nhắc quí vị đừng chạy theo sáu 
      trần. Câu nói hết sức là đơn giản mà tràn đầy tinh thần giải thoát. Nếu 
      khéo một chút, gan dạ một chút, đừng tiếc, như đứa bé không tiếc kẹo, thì 
      lấy tay ra dễ dàng không phải than khóc. 
      
                  
      Trên đường tu, chính vì cầu giải thoát, chúng ta đừng tham luyến, đừng đắm 
      trước sáu trần. Không tham luyến, không đắm trước sáu trần là nhân của 
      giải thoát, chớ không tìm điều gì khác lạ. Không phải có thần thông, không 
      phải biết quá khứ vị lai, không phải có hào quang sáng chói, mà giải thoát 
      được. Các quỉ thần cũng có hào quang, cũng biết quá khứ vị lai, mà vẫn 
      không được giải thoát. Lý giải thoát của đạo Phật vừa cụ thể vừa thật tế 
      mà cũng rất dễ dàng phải không? Dễ hay khó? Chỉ cần đừng làm đứa bé tham 
      kẹo thôi, nếu tham kẹo thì khó, nếu không tham kẹo thì dễ chớ có khó gì 
      đâu. Buông hết thì lấy tay ra dễ dàng, không có gì trở ngại, nếu nắm cứng 
      mà muốn rút tay ra, thật là khó trăm bề. Tất cả quí vị xuất gia và tại gia 
      có ai nghĩ mình ngu khờ như đứa bé ham kẹo đó không? Tất nhiên không có ai 
      ngu khờ như vậy, chỉ cần buông thì lấy tay ra dễ dàng. Đức Phật đã dạy: 
      “Các ngươi buông đi, đừng có dính với sáu trần, đó là giải thoát.” Nếu 
      chúng ta không chịu buông, mà cầu xin Phật giúp cho con được giải thoát, 
      thì giống như đứa bé tham ăn kẹo vậy. Buông đi thì hết đau khổ, đây là 
      giải thoát theo tinh thần Nguyên thủy. 
      
                  
      Chúng tôi nói đến sự giải thoát trong nhà thiền. Ngày xưa, có một thiền 
      khách đến hỏi thiền sư Huệ Hải: “Thế nào là giải thoát.” Ngài Huệ Hải trả 
      lời: “Căn trần không dính nhau là giải thoát.” Câu trả lời hết sức là đơn 
      giản! Sáu căn không dính mắc sáu trần, đó là giải thoát. Câu trả lời vừa 
      đơn giản vừa thật tế, nhưng mới nghe qua chúng ta thấy khó hiểu quá. Vì 
      sao khó hiểu? Vì chúng ta tưởng tượng sự giải thoát rất là xa vời, phải có 
      thần thông biến hóa, đi đến các cõi trời v.v…, không ngờ sáu căn không 
      dính với sáu trần là giải thoát. Sự thật quá đơn giản này làm người đọc 
      sách thiền cho là khó hiểu. 
      
                  
      Câu chuyện thứ hai trong nhà thiền là: Tổ Đạo Tín khi còn là Sa-di đến hỏi 
      đạo với Tổ Tăng Xán: “Bạch Hòa thượng, làm sao được giải thoát?” Tổ Tăng 
      Xán liền hỏi: “Ai trói buộc ngươi?” Ngài Đạo Tín đáp: “Không ai trói buộc 
      cả.” Tổ Tăng Xán bảo: “Cầu giải thoát làm gì?” Ngài Đạo Tín liền nhận được 
      lý giải thoát. Ngài quan niệm như chúng ta hiện giờ, Ngài nghĩ mình đang 
      bị trói buộc, đang bị bủa vây rất là khổ sở, nên mới cầu giải thoát. Nhưng 
      chúng ta phải nhìn thẳng xem cái gì trói buộc, cái gì bủa vây chúng ta? 
      Nếu nhìn thẳng không thấy cái gì trói buộc, cái gì bủa vây cả, ngay đó 
      chúng ta được giải thoát rồi. Câu chuyện đối đáp giữa Tổ Tăng Xán và Tổ 
      Đạo Tín nói lên ý nghĩa đó: “Không ai trói buộc thì cầu giải thoát làm 
      gì?” Chúng ta nghĩ rằng những phiền não, những tâm niệm đen tối xấu xa 
      đang trói buộc chúng ta, cho nên chúng ta cầu giải thoát. Nhưng Tổ liền 
      bảo chúng ta nhìn thẳng xem những phiền não, những tâm niệm ấy có thật sự 
      trói buộc chúng ta hay không? Khi nhìn thẳng lại chúng nó liền biến mất. 
      Chúng biến mất không còn nữa thì còn gì mà cầu giải thoát! Cũng chính với 
      tinh thần này Tổ Bồ-đề-đạt-ma đã dạy Tổ Huệ Khả. Tổ Huệ Khả than: “Tâm con 
      bất an, xin Hòa thượng dạy con pháp an tâm.” Tổ Bồ-đề-đạt-ma bảo: “Đem tâm 
      ra ta an cho.” Tâm bất an của Tổ Huệ Khả là tâm gì? Tổ thấy đó là tâm 
      phiền não, tâm trói buộc, tâm xấu xa. Các tâm đó đang làm cho mình bất an, 
      nên Ngài cầu được an tâm, cũng như Tổ Đạo Tín cầu được giải thoát. Khi ấy 
      Tổ Bồ-đề-đạt-ma chỉ cần bảo: “Đem tâm ra ta an cho.” Ngài Huệ Khả nhìn 
      sững lại xem tâm ra làm sao mà đem. Nhìn sững lại thì nó mất tiêu, nó tan 
      hoang không còn, Ngài liền trả lời: “Con tìm tâm không được.” Tổ 
      Bồ-đề-đạt-ma bảo: “Ta đã an tâm cho ngươi rồi.” Như vậy pháp an tâm của Tổ 
      Đạt-ma và “cầu giải thoát làm gì” của Tổ Tăng Xán có khác nhau không? Thật 
      là không hai, hình thức có khác, nhưng tinh thần không khác. Tổ Tăng Xán 
      chỉ cho Tổ Đạo Tín con đường giải thoát bằng cách nhìn lại xem cái gì trói 
      buộc mình. Nhìn lại không thấy có gì trói buộc, ngay đó đã giải thoát rồi. 
      
      
                  Chúng tôi hiện nay sống cách xa Tổ hơn ngàn năm, chúng tôi dạy 
      quí vị tu phải làm gì? Quí vị nghĩ rằng các phiền não làm cho mình khổ 
      đau, buồn phiền, bực bội. Chúng tôi bảo quí vị các thứ phiền não ấy, quí 
      vị hãy buông đi. Nhìn lại chúng nó, thấy biết mặt thật của chúng nó rồi, 
      buông đi đừng theo chúng thì hết phiền não, hết khổ đau, đó tức là tu vậy. 
      Việc này đâu có khác với lời dạy người xưa bao nhiêu. Tinh thần giải thoát 
      nằm ngay chỗ nhìn thẳng, thấy mặt thật của những phiền não. Thấy được mặt 
      thật của chúng rồi, thì tự chúng nó tan hoang. Nói biết vọng, nói buông đi 
      là một lối nói thôi. Sự thật nhìn lại thấy nó, thì nó đã mất hết rồi, còn 
      gì nữa mà phải biết, còn gì nữa mà phải buông. Đây là trọng tâm trong 
      Thiền tông mà chúng tôi đã chỉ dạy quí vị. Trọng tâm đó, chính Tổ 
      Bồ-đề-đạt-ma đã dạy Tổ Huệ Khả, chính Tổ Tăng Xán đã dạy Tổ Đạo Tín. Đó là 
      chủ đích chúng tôi muốn chỉ cho quí vị. 
      
                  
      Các Tổ dạy chúng ta tu giải thoát đúng với tinh thần đức Phật đã nói: “Tất 
      cả nước biển chỉ có một vị, vị mặn; tất cả giáo pháp của ta chỉ có một vị, 
      vị giải thoát.” Như đoạn đã nói: Sáu căn tiếp xúc với sáu trần, không dính 
      không mắc, là giải thoát. Đoạn này Tổ dạy: Nhìn các tâm niệm đang chạy 
      theo sáu trần, biết chúng không thật, đó là giải thoát. Đoạn trước nói về 
      các căn bên ngoài không cho dính với trần cảnh, đoạn này nói về các tâm 
      niệm bên trong, ngay từ cội gốc, các tâm niệm vừa dấy khởi chạy theo cảnh, 
      chúng ta biết sự thật về chúng nó thì chúng nó tan hoang ngay từ trứng 
      nước. Chúng ta dẹp các tâm niệm ngay lúc còn trong bào thai, không đợi 
      chúng nó dính với cảnh mới tháo gỡ. Như vậy sự giải thoát này là ngay bên 
      trong, sâu hơn và tế nhị hơn. Giải thoát nói ở đoạn trên là sáu căn không 
      dính mắc với sáu trần là giải thoát theo tinh thần nguyên thủy, giải thoát 
      ở đây là dẹp các tâm niệm ngay khi còn là trứng nước, là giải thoát theo 
      tinh thần nhà thiền. Các niệm vừa dấy khởi đã bị tiêu diệt ngay, không có 
      niệm đuổi theo trần cảnh: Mắt thấy sắc không dính với sắc, tai nghe tiếng 
      không dính với tiếng, mũi ngửi mùi không dính với mùi… Các niệm đã diệt 
      rồi, lo gì chúng ra nơi mắt, nơi tai, nơi mũi mà dính với sáu trần được. 
      Đó là chủ yếu của sự tu thiền mà chúng tôi thường gọi là Tổ sư Thiền. 
      
                  Để 
      hiểu rõ hơn tinh thần giải thoát trong nhà thiền chúng tôi xin dẫn bài kệ 
      của một Thiền sư đời Trần ở Việt Nam, ngài Điều Ngự Giác Hoàng, tức là vua 
      Trần Nhân Tông. Bài kệ “Sơn Phòng Mạn Hứng” như sau: 
      
      
                              Thùy phược cánh tương cầu giải thoát, 
      
      
                              Bất phàm hà tất mịch thần tiên. 
      
      
                              Viên nhàn, mã quyện nhân ưng lão, 
      
      
                              Y cựu vân trang nhất tháp thiền. 
      
                  
      Tạm dịch: 
      
      
                              Ai trói lại mong cầu giải thoát, 
      
      
                              Chẳng phàm nào phải kiếm thần tiên. 
      
      
                              Vượn nhàn, ngựa nhọc, người cũng lão, 
      
      
                              Như cũ am mây một giường thiền. 
      
      
                  Ngài Trần Nhân Tông nói rất rõ: “Chúng ta cầu giải thoát vì 
      chúng ta thấy bị trói buộc, nhưng ai trói buộc chúng ta? Chẳng qua là 
      những tâm niệm tham mê đắm trước trói buộc chúng ta. Những tâm niệm ấy vừa 
      dấy lên, chúng ta đã thấy nó rồi, thấy nó tức thì nó tan hoang, như vậy 
      còn ai trói buộc mình mà cầu giải thoát? Biết các tâm niệm là tạm bợ, là 
      hư dối, chúng ta không chạy theo nó, đó là giải thoát. Còn thêm một ý 
      nghĩa nữa: Nói trói buộc là trói buộc thân năm uẩn này, còn một cái không 
      bao giờ bị trói buộc, đó là cái gì? Đó là cái không tên, phải không? Cái 
      đó không phải phàm, không phải thánh. Không phải phàm, cầu thành tiên làm 
      gì? Không phải phàm, cần cầu thánh hay không? Sở dĩ chúng ta muốn được 
      thành thánh là vì chúng ta thấy mình là phàm phải không? Cái đó không phải 
      phàm, tức nhiên không cầu thành thánh, cũng không cầu thành thần tiên chi 
      nữa. 
      
      
                  Vượn nhàn, ngựa nhọc, người cũng lão 
      
      
                  Vượn chỉ cho các niệm dấy khởi của chúng ta lăng xăng như khỉ 
      vượn. Ngựa chỉ cho ý dong ruổi bên ngoài. Tâm viên ý mã khi đã yên rồi, 
      không còn lăng xăng nữa, khi ấy chúng ta cũng đã già rồi không còn ham 
      muốn không còn đuổi theo cái gì nữa. Khi con người không còn ham muốn, tâm 
      viên ý mã không còn lăng xăng, lúc ấy ra làm sao? 
      
                  
      Như cũ am mây một giường thiền. 
      
      
                  Lúc ấy chỉ còn một giường thiền ở trong am mây mà thôi. Giường 
      thiền đó giống như giường của ai, quí vị có biết không? Giường thiền này 
      là giường ông Duy-ma-cật nằm bệnh. 
      
                  
      Trên đường tu lúc nào tâm viên ý mã chịu dừng chịu lặng, lúc đó chúng ta 
      sẽ đầy đủ cảnh viên mãn của con người giải thoát hiện tiền. Sự giải thoát 
      viên mãn đó được tượng trưng bằng một chiếc giường thiền, giường của ông 
      Duy-ma-cật nằm bệnh v.v… Đối với sự tu hành, cốt làm sao tâm viên ý mã mỏi 
      mệt, nằm yên ngủ, lúc đó cái chân thật hiện nguyên hình, không phải tìm 
      kiếm ở đâu xa xôi. 
      
                 
      Chúng tôi dẫn tiếp theo đây câu chuyện của Lục Tổ nhân nghe một câu trong 
      kinh Kim Cang mà ngộ đạo. Ngũ Tổ giảng kinh Kim Cang đến đoạn ngài 
      Tu-bồ-đề hỏi Phật: “làm sao để trụ tâm” tức là: người cầu Vô thượng Bồ-đề 
      làm sao an trụ được tâm của mình (tức là cái tâm Vô thượng Bồ- đề), Phật 
      trả lời: “Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, 
      pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.” Nghĩa là người phát tâm Vô 
      thượng Bồ-đề không nên trụ nơi sắc, nơi thanh, nơi hương, nơi vị, nơi xúc, 
      nơi pháp. Không nên có chỗ trụ đó là trụ. Cho nên ưng vô sở trụ nhi sanh 
      kỳ tâm, tức là không nên có chỗ trụ mà sanh tâm Vô thượng Bồ-đề. Khi nghe 
      tới câu đó, Lục Tổ liền thốt lên rằng: 
      
      
                              “Đâu ngờ tánh mình xưa nay vốn thanh tịnh, 
      
      
                              Đâu ngờ tánh mình xưa nay vốn tự đầy đủ, 
      
      
                              Đâu ngờ tánh mình hay sanh muôn vật v.v…” 
      
      
                 Các chữ đâu ngờ, nói lên chỗ ngộ của Lục Tổ, Ngài ngộ cái gì? 
      Ngài ngộ sáu căn không dính với sáu trần, đó là giải thoát, phải không? – 
      Chưa phải. Nếu Ngài ngộ sáu căn không dính với sáu trần, Ngài là Nhị thừa 
      rồi, chớ không phải là một vị tổ trong Thiền tông. Câu hỏi là: “Người phát 
      tâm Vô thượng Bồ-đề, muốn an trụ tâm ấy, phải làm sao?” Đáp: Không dính 
      với sáu trần, là an trụ tâm Vô thượng Bồ-đề. Ngay nơi câu đáp này Lục Tổ 
      thấy rõ rằng: Tâm không chạy theo sáu trần là cái Vô thượng Bồ-đề hiện 
      tiền. Cái Vô thượng Bồ-đề  đó đã sẵn thanh tịnh, đã sẵn đầy đủ mà nó dấy 
      niệm cho nên hay sanh muôn pháp, mới đuổi theo muôn pháp. Ở đoạn trên nói 
      sáu căn không dính với sáu trần đó là giải thoát, mà chúng ta không biết 
      cái gì giải thoát, không có một cái chủ đề của sự giải thoát. Nhưng ở đây, 
      khi nghe câu đáp, Lục Tổ thấy được mặt thật của sự giải thoát rồi. Vì thấy 
      được mặt thật đó, nên Ngài mới thốt lên những câu đâu ngờ, đâu ngờ mình 
      như vậy, đâu ngờ nó sẵn như vậy v.v… Khi nghe thốt lên những câu đó, Ngũ 
      Tổ biết đệ tử đã ngộ, cho nên ngang đó mới truyền y bát cho. 
      
                  
      Chúng ta thấy rằng, đối với Thiền tông không phải chỉ gỡ hết những dính 
      mắc bên ngoài, gọi là giải thoát, giải thoát bằng một danh từ rỗng, mà 
      phải thấy được mặt thật của sự giải thoát, mà các bộ kinh Nhị thừa chưa đề 
      cập tới. Giải thoát là cởi mở, cởi mở là động từ chớ không phải là chủ từ. 
      Như vậy cởi mở cái gì? Ở đoạn trước, theo tinh thần Nguyên thủy, chúng ta 
      nghĩ rằng được giải thoát mà không biết cái gì được giải thoát. Nhưng tới 
      đây, với tinh thần nhà Thiền, Lục Tổ không thấy như vậy. Ngài thấy rằng 
      cái giải thoát đó là tánh Bồ-đề sẵn có của chính chúng ta. Tánh Bồ-đề đó 
      thanh tịnh từ thuở nào, tánh Bồ-đề đó đầy đủ muôn pháp, tánh Bồ-đề đó đầy 
      đủ diệu dụng. Sống được với tánh Bồ-đề đó gọi là giải thoát. Giải thoát là 
      tánh Bồ-đề không bị nhiễm với sáu trần, nó là cái chủ thật của mình. Vì 
      vậy trong nhà thiền gọi nó là Bản lai diện mục, là Chủ nhân ông v.v… Hiểu 
      như quí vị mới thấy cái trình tự tu tiến của người tu, nếu không chúng ta 
      có thể hiểu lầm. Lục Tổ ngộ được lý giải thoát, không phải chỉ là động từ 
      giải thoát mà Ngài thấy được ông chủ là người không bị trói buộc, ông chủ 
      mới là chủ từ. Ông chủ đó mới thật là mình, sống được với ông chủ đó mới 
      thật là viên mãn giải thoát. 
      
                  
      Sau đây chúng tôi dẫn thêm câu chuyện con khỉ: Ngài Ngưỡng Sơn đến hỏi đạo 
      với ngài Trung Ấp: “Bạch Hòa thượng, thế nào là nghĩa Phật tánh?” Ngài 
      Trung Ấp đáp: “Ta nói thí dụ thì ông hiểu. Như có con khỉ ở trong cái nhà 
      sáu cửa. Bên ngoài có một con khỉ  đến mỗi cửa kêu chéo chéo, con khỉ bên 
      trong cũng đáp lại chéo chéo. Đến mỗi cửa nó mỗi kêu, bên trong đều đáp 
      ứng lại…” Nghe tới đó ngài Ngưỡng Sơn mới hỏi: “Bạch Hòa thượng, nếu con 
      khỉ trong nhà nó ngủ thì sao?” Hòa thượng Trung Ấp liền từ giường thiền 
      bước xuống, chạy lại nắm tay ngài Ngưỡng Sơn nói: “Chéo chéo ta và ông đã 
      thấy nhau rồi.” 
      
                  
      Qua câu chuyện trên, quí vị hiểu thế nào? 
      
                  
      Cái nhà sáu cửa là thí dụ cho sáu căn của chúng ta, con khỉ ở ngoài chéo 
      chéo là thí dụ cho sáu trần. Bởi sáu căn duyên với sáu trần, con khỉ ở 
      trong nó ứng lên để đối đáp, nên gọi là dính mắc. Nếu con khỉ ở trong nó 
      ngủ, con khỉ ở ngoài kêu chéo chéo cách mấy, nó cũng không ứng đáp, phải 
      vậy không? Tuy mỗi cửa đều có kêu, có động, mà vì nó ngủ nên nó không đáp 
      lại, nhưng nó vẫn có mặt trong nhà. Hình ảnh con khỉ ngủ trong nhà giống 
      như chỗ Lục Tổ thấy, Ngài thấy rằng cái đó nó sẵn có, nó thanh tịnh từ 
      thuở nào. 
      
                  
      Tinh thần Thiền tông chỉ cho chúng ta thấy cái không dính với sáu trần gọi 
      là giải thoát, không phải động từ giải thoát suông, mà có ông chủ nằm yên 
      không chạy ra. Sống được với ông chủ đó mới là thật sự giải thoát, giải 
      thoát là ông chủ đó, chớ không phải giải thoát bằng một tên suông. 
      
                  
      Chúng ta tu thiền cốt làm sao sống được với ông chủ, ông chủ đó là ai? 
      Chúng tôi có phê bình câu chuyện của một Phật tử nói rằng nước biển nổi 
      sóng ầm ầm mà nó không biết có chứa muối bên trong. Đến khi nước tràn vào 
      bờ, bị ngăn chận lại, rồi khô đi, bấy giờ chất muối mới hiện ra. Như vậy 
      muối khi ở biển hòa tan với nước, nó đã có sẵn trong nước. Khi nước bốc 
      hơi muối cô đọng lại. Như vậy nước và muối là hai, cho nên tôi chấm câu 
      chuyện đó dưới điểm trung bình. 
      
                  
      Còn ở đây Lục Tổ nói: “không phải hai”, chính ông chủ đó, đâu ai khác hơn 
      là mình. Nhưng vì mê mình sống với cái điên đảo vọng tưởng, rồi bị nó dẫn 
      chạy, gọi đó là luân hồi, là trói buộc. Nếu tỉnh mình không chạy theo cái 
      điên đảo vọng tưởng, mình sống thật với ông chủ, thì ông chủ đó lúc nào 
      mà  chẳng hiện tiền. Bên ngoài có kêu gọi, dù không đáp lại, ông vẫn  mở 
      mắt nhìn mà không dính mắc. Trường hợp con khỉ trong nhà cũng vậy, đừng 
      tưởng đợi nói đối đáp, nó mới có mặt. Chính khi không đối đáp, nó cũng vẫn 
      hiện hữu. 
      
                  
      Chúng ta giải thoát bằng cách là phải sống thật với ông chủ của mình, hay 
      là với bản lai  diện mục của chính mình, cái đó đã có sẵn trong chúng ta 
      muôn đời mà chúng ta quên đi, chúng ta không biết. Ngày nay được Phật Tổ 
      nhắc chỉ, chúng ta phải ráng nỗ lực để sống trở lại. Quên ông chủ, gọi đó 
      là mê, sống trở về với ông chủ gọi đó là tỉnh là giác. Thành kẻ mê làm 
      chúng sanh trầm luân trong sáu đường, đó là kẻ đau khổ, gọi là bị phiền 
      trược. Nếu tỉnh, trở về với ông chủ, không còn bị sáu trần lôi kéo nữa, 
      chỉ một ông chủ hoàn toàn thanh tịnh, khi đó chúng ta hoàn toàn giải 
      thoát. Giải thoát đó không có nghĩa là chúng ta phải nhờ ai phụ giúp, mà 
      chính là chúng ta tự biết tỉnh giác, biết trở về với chính mình. Sự giải 
      thoát là bổn phận của chúng ta phải trở về, chớ không ai làm thế, cũng 
      không ai bắt buộc. Rất đáng thương cho chúng sanh tự có của báu mà không 
      biết, rồi phải thở than, đau khổ muôn đời. Chúng ta được vinh hạnh, được 
      phúc đức nhờ Phật Tổ chỉ, chúng ta tuy chưa thấy tạng mặt tạng mày, nhưng 
      cũng mang máng biết, mang máng tin, đó cũng là phúc đức lớn, đó là hồng ân 
      sâu rộng Phật Tổ đã ban bố cho chúng ta. 
      
                  
      Mỗi một năm mới là một lần đưa chúng ta đến gần chỗ chết, chúng ta có 
      duyên phúc lớn, được phước lành nhiều, mong rằng tất cả ráng làm bổn phận 
      của mình để khỏi uổng một đời làm người mà không được tỉnh giác. Và cũng 
      tự mình không để mình bị gạt, tức là chạy theo cái giả dối, điên cuồng mà 
      quên mất cái chân thật của chính mình. Được như vậy mới xứng đáng, là con 
      dòng họ Thích, mới xứng đáng là kẻ quyết chí đi theo con đường Phật Tổ đã 
      đi. 
      
                  
      Hôm nay là ngày đầu năm, chúng tôi mong rằng sang năm mới này, tất cả quí 
      vị có được sức tỉnh giác mạnh hơn, và chính quí vị càng ngày càng nhận 
      thấy tường tận cái chân thật của chính mình rồi sống trở về, đừng bị ngoại 
      cảnh lôi cuốn, mà phải phiêu bạt, trầm luân đau khổ. 
      
      NAM-MÔ BỔN 
      SƯ THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT. 
      
      ]  |