RA KHỎI HẦM LỬA
      
      
      BÀI NÓI CHUYỆN VỚI TĂNG NI 
      
      TẾT KỶ TỴ 1989
      
                  
      Hôm nay Tăng Ni, Phật tử về đây để mừng năm mới và tha thiết chúc tụng 
      chúng tôi. Thật ra chúng ta mừng thêm một tuổi hay là chúng ta buồn bớt đi 
      một năm sống? Lần lượt hết năm này sang năm khác, cứ thế mà chúng ta trải 
      qua mấy mươi năm từ thuở bé cho đến ngày nay. Riêng tôi thì tóc bạc da 
      nhăn rồi, còn quí vị có người tóc đã bắt đầu bạc, cũng có người còn trẻ 
      hơn. Như vậy chúng ta đi trên con đường sanh tử đã quá dài, có khi hơn nửa 
      đường, có khi nửa đường, có khi mới được một phần ba, một phần tư đường. 
      Nhưng dù sao chúng ta đã đi thì nhất định là phải đến, không ai không đến. 
      Thế nên trong nhà Phật lẽ sanh tử là một việc lớn. Vì lý do sợ vô thường 
      nửa chừng, qua được một năm là thấy mình sống thêm một tuổi, sang năm tới 
      chưa biết có tròn được một năm không, nên năm mới mừng tuổi có nghĩa là 
      mừng sống thêm một tuổi. Mừng thêm một tuổi là buồn bớt đi một năm sống, 
      nhưng vì thêm một tuổi là qua được cái yểu và thêm cái thọ, nên tạm gọi đó 
      là mừng. 
      
                  
      Nói theo thế tình, quí vị đến đây là mừng tuổi chúng tôi. Phần chúng tôi, 
      thấy Tăng Ni là những người chúng tôi cưu mang từ bao năm nay, chúng tôi 
      muốn những người đó mỗi ngày một hay, mỗi ngày một cao thượng, mỗi ngày 
      thêm sáng suốt, giác ngộ và giải thoát. Thế mà nhiều khi, với con mắt bi 
      quan, chúng tôi thấy có những người không tiến bao nhiêu, hy vọng được 
      giải thoát nhưng lại trói buộc nhiều, muốn được giác ngộ nhưng ngọn đèn 
      trí  tuệ lu từ từ, đó là những điều làm cho chúng tôi phải lo lắng. Thế 
      nên mỗi đầu năm, chúng tôi đều nhắc nhở Tăng Ni nói riêng và Phật tử nói 
      chung, phải có cái nhìn quán xuyến từ buổi ban sơ cho đến hiện nay, để 
      thấy rõ nước  tiến của mình mỗi năm mỗi khác, chớ không nên dậm chân một 
      chỗ hoặc thối lui, vì như thế là điều đáng buồn. Đề tài tôi nhắc nhở quí 
      vị hôm nay là “Ra khỏi hầm lửa”. 
      
                  
      Tất cả người xuất gia, nếu không có chủng duyên lành từ nhiều đời trước, 
      chắc khó có thể xuất gia, cạo tóc, ở chùa tu hạnh giải thoát. Từ khi lọt 
      lòng mẹ, chúng ta đã có bổn phận đối với cha mẹ, quyến thuộc..., đến khi 
      khôn lớn, chúng ta có trọng trách đối với gia đình, xã hội. Như vậy làm 
      sao chúng ta dứt bỏ được tất cả để một mình thảnh thơi nơi đạo tràng tu 
      hành thanh tịnh? Cắt đứt được những manh mối trói buộc, an ổn ở chùa tu 
      hành học đạo, đó là do đầy đủ phúc duyên chớ không phải ai muốn cũng được. 
      Đã có phúc duyên lớn như vậy, quí vị nghĩ sao? Không lẽ lại chần chờ, thờ 
      ơ để cho duyên tốt đó bị mai một? Vì như thế là chúng ta đã hủy cái nhân 
      đã gieo từ bao đời, đến nay mới được thành tựu. Quí vị là người từ trong 
      trăm mối buộc ràng của gia đình, của xã hội mà cắt đứt tất cả, ở yên tu 
      hành thì quí vị phải nhớ làm tròn bổn phận để khỏi hổ là mở việc này lại 
      cột việc khác. Tránh sự bận rộn phiền toái của gia đình, vào chùa lại cũng 
      phiền toái bận rộn, đó là điều sai lầm, không đúng tinh thần người học 
      đạo. Thế nên tôi dẫn vài câu chuyện của những bậc đi trước để nhắc quí vị. 
      
                  
      Đây là một câu chuyện trong kinh Nguyên thủy thuộc hệ Pali. Một vị Sa-di 
      tên là Sanu, đi tu từ thuở bé, cha mẹ gởi ông vào tịnh xá ở với chư Tăng 
      lúc ông được năm, bảy tuổi. Một thời gian sau, ông học hành khá, thuyết 
      pháp hay, nhưng không biết vì lý do gì ông thối Bồ-đề tâm, ông về xin mẹ 
      hoàn tục. Mẹ ông là người tha thiết với đạo nên khi thấy ông về với thái 
      độ chán nản việc tu hành, bà buồn khổ, bà khóc. Thấy mẹ khóc, ông lấy làm 
      lạ mới hỏi: 
      
      
                              Thưa mẹ người ta khóc, 
      
      
                              Khóc vì người đã chết, 
      
      
                              Hay có khóc người sống, 
      
      
                              Khi sống không được thấy. 
      
      
                              Thưa mẹ con đang sống, 
      
      
                              Và mẹ đang thấy con, 
      
      
                              Vậy vì sao thưa mẹ, 
      
      
                              Mẹ lại khóc cho con? 
      
                  
      Quí vị thấy câu hỏi của ông: Ở thế gian người ta khóc vì đau khổ khi con 
      chết, hoặc vì cảnh sanh ly, còn sống mà phải chia tay mỗi người một nơi. 
      Phần ông, ông còn sống và còn về gặp mẹ, không phải là chia ly, vậy tại 
      sao mẹ khóc? Bà mẹ đáp: 
      
      
                              Người ta khóc cho con, 
      
      
                              Là khóc khi con chết, 
      
      
                              Hay khóc cho con sống, 
      
      
                              Nhưng không được thấy mặt. 
      
      
                              Ai đã bỏ dục vọng, 
      
      
                              Lại trở lui đời này, 
      
      
                              Này con người ta khóc,          
      
      
                              Là khóc cho người ấy, 
      
      
                              Vì người ấy được xem, 
      
      
                              Còn sống cũng như chết, 
      
      
                              Này con, được kéo ra, 
      
      
                              Khỏi than hầm lửa rực, 
      
      
                              Con còn muốn rơi vào, 
      
      
                              Đống than hồng ấy chăng? 
      
                  
      Quí vị thấy bà mẹ nói lý do quá rõ ràng: Không phải bà khóc vì con chết 
      hay vì sống mà không thấy mặt nhau. Đây là bà khóc cho đứa con đã bỏ dục 
      lạc thế gian, nay muốn trở lui lại, người đó giống như kẻ đang sống mà trở 
      lại chết. Khóc cái chết là khóc cho người bỏ tâm hồn trong trắng, sáng 
      suốt, trở lại thành con người tối tăm u mê, chính đó là niềm đau khổ của 
      bà mẹ. Lý do thứ hai là bà thấy con mình được xuất gia, chẳng khác nào 
      người được kéo ra khỏi hầm lửa. Đã ra khỏi hầm lửa, nay lại nài nỉ xin trở 
      vào hầm lửa, thấy biết cái khổ đó, bà thương xót nên bà khóc. Như vậy hai 
      lý do mà mẹ khóc con là: một, vì con không còn sống được với đạo mà trở 
      lại trần tục, như từ cõi sống đi vào cõi chết, hai là vì thấy con đã ra 
      khỏi hầm lửa khổ đau nay còn muốn trở lại để thiêu mình trong hầm lửa. Đó 
      là niềm đau của bà nên bà khóc. Như thế quí vị thấy đối với người mẹ, 
      người cha biết đạo lý, khi thấy con đi tu, đã thâm nhập đạo lý và sống 
      được trong đạo một thời gian thì niềm vinh hạnh của cha mẹ không gì khác 
      hơn là mừng con mình đã có được hạnh xuất trần thoát tục, mừng con được 
      rảnh rang nhàn hạ trong đạo đức, rồi mai kia sẽ làm lợi ích cho mình và 
      cho nhiều người. Khi một người con đã được cha mẹ đặt hy vọng, đặt niềm 
      tin, nay trái lại, muốn bỏ đạo lý để trở thành người thế tục thì cha mẹ 
      cũng đau khổ như là khi cho con đi tu vậy, có khi còn khổ hơn nữa. Một là 
      thấy nhục nhã vì con mình đã không tròn được chí nguyện cao cả của nó, hai 
      là thương con đã có chí giải thoát xuất trần, đã được thảnh thơi nhàn hạ, 
      nhưng nay nó lại trở thành một con người tầm thường, lăn trong trần tục, 
      bị muôn mối buộc ràng. Thế nên cha mẹ khổ đau vì con không tròn bản 
      nguyện. Chúng ta đã biết được tâm niệm của cha mẹ chúng ta thì khi đi tu 
      quí vị nghĩ chúng ta phải làm thế nào? Chúng ta chần chờ để qua ngày tháng 
      hay là chúng ta có niệm thối lui trở về tìm hưởng dục lạc? Hai quan niệm 
      đó đều là tội lỗi, đều gây khổ đau cho cha mẹ chúng ta, nếu là người biết 
      đạo. Đó là tôi dẫn câu chuyện của gia đình ông Sa-di Sanu. 
      
                  
      Đến câu chuyện của một Thiền sư mà chúng ta đã học, đó là Thiền sư Đạo 
      Ưng, Ngài nói: “Các ông xuất gia như kẻ tội ra khỏi khám đường, nên ít 
      muốn biết đủ, chớ tham danh lợi ở đời... được ở trong Phật pháp mười phần 
      sống phải chết chín phần...” Ngài Đạo Ưng là một Thiền sư nên lời nói đơn 
      giản, nhưng chúng ta cũng thấm biết bao! Chúng ta là người xuất gia không 
      phải chỉ có nghĩa bỏ nhà cha mẹ vào trong chùa là đủ nghĩa xuất gia. Xuất 
      gia có nghĩa là chúng ta vượt ra khỏi nhà thế tục, vượt ra khỏi nhà phiền 
      não và vượt ra khỏi nhà luân hồi trong tam giới, như thế mới đầy đủ ý 
      nghĩa xuất gia. Như vậy ngày chúng ta xuất gia là ngày chúng ta thệ nguyện 
      sẽ ra khỏi nhà phiền não, nhà trầm luân trong tam giới, có khác nào chúng 
      ta ra khỏi khám đường. Nếu chúng ta ra khỏi khám đường mà còn nài nỉ xin 
      trở vào lại thì có hợp lý không? Dĩ nhiên là không. Thế nên đã xuất gia, 
      chúng ta phải một lần ra khỏi là vĩnh viễn không trở lại, đó mới là người 
      khôn ngoan sáng suốt. Nếu ra rồi còn muốn trở lại thì thật là rất dại khờ, 
      làm cho những người chung quanh nhìn chúng ta với đôi mắt thương xót. Đã 
      ra khỏi khám đường rồi chúng ta phải làm gì nữa? Ngài nhắc: Nên ít muốn 
      biết đủ, tức là hết lòng tham lam, đừng có muốn nhiều, đừng có tạo nhiều, 
      phải dừng tâm tham muốn lại, đừng có tạo nhiều, phải dừng tâm tham muốn 
      lại để có thì giờ tu hành. Những gì có danh, có lợi, chúng ta đừng chạy 
      theo nó vì nó là sợi dây, là miếng mồi nhử chúng ta, để dẫn chúng ta trở 
      lại trong vòng đau khổ của khám đường. Muốn thực hiện được bản nguyện ra 
      khỏi vòng trầm luân tam giới, Ngài dạy chúng ta: Được ở trong Phật pháp, 
      mười phần sống phải chết hết chín phần. Nếu sống đủ mười phần, đó là người 
      thế tục, ngày nay chúng ta phải chết chín phần đi, chết chín phần thế tục, 
      chỉ còn một phần nhỏ nhỏ, còn phải ăn, còn phải mặc, còn phải tới lui, qua 
      lại, nhưng cái còn đó rất đơn giản, rất ít oi, chớ đừng sống trọn vẹn như 
      người thế tục. Như vậy chính sự tinh tấn tu hành là cái gốc để chúng ta 
      thoát ly tam giới. Vả muốn được như thế chúng ta phải hạn chế những nhu 
      cầu, những mong muốn mà người thế gian có quyền hưởng. Chúng ta phải bớt 
      đi, càng bớt nhiều thì tinh tấn tu hành càng tăng trưởng. Trái lại nếu 
      chúng ta cứ đòi hỏi, cứ chạy theo chúng thì tinh thần tu hành ngày càng 
      giảm sút. Thế nên Ngài dạy: Mười phần sống phải chết chín phần. Đó là lời 
      các vị tiền bối nhắc nhở trong lúc tu hành. 
      
                 
      Trong kinh Tứ Thập Nhị Chương đức Phật cũng đã từng dạy: “Người xuất gia 
      ra khỏi dục lạc của thế gian, chẳng khác nào người khạc đàm dãi nhổ xuống 
      đất.” Một khi chúng ta khạc đàm dãi nhổ xuống đất rồi, chúng ta lại có 
      muốn ngó lại nó không? Chắc gớm lắm, không muốn ngó lại; ngó lại còn không 
      muốn, huống nữa là lấy tay sờ, lấy lưỡi liếm, chúng ta có dám làm không? 
      Chắc không bao giờ dám! Cũng thế, đã nguyện xuất gia rồi, chúng ta là 
      người đã thấy rõ những cái dở, những cái xấu, những cái hại của thế gian 
      thì chúng ta phải dứt khoát vượt ra khỏi trần lao để làm lợi ích cho mọi 
      người, hay nói cách khác là để dìu dắt mọi người cùng ra khỏi trần lao. 
      Thế nên chúng ta không thể xem thường, chúng ta phải thấy dục lạc thế gian 
      là mối họa lớn cần phải tránh, cần phải không nhìn đến, thì chúng ta mới 
      có thể vươn lên được. Nếu còn ưa thích, còn mơ ước nó, chúng ta sẽ chìm 
      đắm, sẽ đau khổ. 
      
                  
      Tiếp đây là một vị sư Ni (truyện trích trong hệ Pali), bà Subha, nói lại 
      việc tu hành của bà trong một bài kệ dài, tôi chỉ dẫn một đoạn: 
      
      
                              Dục làm cho điên cuồng, 
      
      
                              Loạn ngôn tâm thác loạn, 
      
      
                              Làm uế nhiễm chúng sanh, 
      
      
                              Sắp rơi bẫy ác ma. 
      
      
                              Dục nguy hiểm không cùng, 
      
      
                              Nhiều khổ, thuốc độc lớn, 
      
      
                              Ngọt ít, tạo đấu tranh, 
      
      
                              Héo tàn ngày tươi sáng. 
      
      
                              Ta quyết định như vầy: 
      
      
                              Không trở lui dục nhân, 
      
      
                              Tách thành điều bất hạnh, 
      
      
                              Luôn vui hưởng Niết-bàn... 
      
                  
      Qua các câu trên quí vị thấy ý chí của bà. Bà biết rõ là dục lạc làm cho 
      chúng sanh điên cuồng, dục lạc tạo cho chúng sanh nói những lời không đúng 
      lẽ thật, nên gọi là loạn ngôn. Tâm của chúng sanh vì nhiễm dục lạc nên 
      điên đảo, giống như người thác loạn. Dục lạc làm cho tâm chúng sanh ô uế, 
      nhiễm nhơ rồi dẫn dắt, lôi chúng sanh vào bẫy của ác ma, bị trói buộc 
      trong vòng ma. Dục lạc nguy hiểm không thể nào kể hết, nó tạo nhiều khổ, 
      nó là thuốc độc, nó không vui, nó là nhân của đấu tranh. Quí vị thấy chúng 
      ta cãi nhau là vì cái gì? Chúng ta giành giật nhau là do đâu? Có phải vì 
      dục lạc không? Chính vì tìm kiếm, theo đuổi dục lạc mà thân chúng ta phải 
      héo tàn, những ngày sống của chúng ta trở thành khô khan, không còn tươi 
      sáng nữa. Biết được như thế chúng ta phải làm sao? Chúng ta quyết định 
      không trở lại với dục lạc, quyết định dứt hết các nhân của dục lạc vì đó 
      là nhân tạo thành những điều bất hạnh, những điều đau khổ. Hơn nữa chúng 
      ta luôn luôn phải vui hưởng cảnh thanh tịnh, an lạc Niết-bàn, đó là mục 
      tiêu chánh yếu của tất cả chúng ta. Quí vị nghĩ chúng ta tu là cốt làm sao 
      dứt hết các nhân khổ đau, tiến tới nhân an lạc và hưởng quả an lạc, tức là 
      chúng ta muốn bỏ khổ được vui. Tuy nhiên không phải chỉ riêng bản thân 
      chúng ta hết khổ, riêng bản thân chúng ta được vui; chúng ta sẽ chỉ cho 
      bằng hữu, cho huynh đệ, cho mọi người chung quanh chúng ta cũng được hết 
      khổ, cũng được an vui như chúng ta. Như thế mới gọi đạo Phật là đạo cứu 
      khổ, đạo Phật là đạo ban vui. Nếu chúng ta tu mà càng tu càng phiền não, 
      càng héo hắt khổ đau thì chừng nào chúng ta hết khổ? Nếu chúng ta không 
      hết khổ, làm sao chúng ta có thể đưa mọi người đến chỗ an vui? Thế nên chủ 
      yếu của đời tu chúng ta là phải làm sao chính tự mình cởi bỏ hết những mầm 
      khổ đau để được an lạc tự tại trong đạo. Chính sự an lạc tự tại đó là mục 
      đích để chúng ta hướng dẫn mọi người cùng được hưởng như thế chúng ta mới 
      thật là người tu chân chánh, mới thật đạt được sở nguyện của người xuất 
      gia. 
      
                  
      Tôi dẫn thêm lời của Sơ tổ Trúc Lâm, cũng thường gọi là Điều Ngự Giác 
      Hoàng, Ngài có làm bài phú “Cư Trần Lạc Đạo” bằng chữ nôm, tôi trích một 
      đoạn trong hội thứ mười: 
      
                  
      “... Núi hoang rừng quạnh, ấy là nơi dật sĩ tiêu dao. 
      
                  
      Chiều vắng am thanh, chính thật cảnh đạo nhân du hí. 
      
                  
      Ngựa cao tán cả, Diêm vương nào kể đứa nghênh ngang; 
      
                  
      Gác ngọc lầu vàng,     ngục tốt thiếu chi người yêu quí. 
      
                  
      Chuộng công danh, lòng nhân ngã, thật ấy phàm phu; 
      
                  
      Say đạo đức, dời thân tâm, định nên thánh trí. 
      
                  
      Mày ngang mũi dọc, tướng lạ xem ắt bẵng nhau; 
      
                  
      Mặt thánh lòng phàm, thực cách nhẫn vàn vàn thiên lý...” 
      
                  
      Tôi trích đoạn này để quí vị thấy ý nghĩa. Ngài diễn tả người tu phải ở 
      chỗ nào? “Núi hoang rừng quạnh, ấy là nơi dật sĩ tiêu dao.” Những kẻ ẩn sĩ 
      lúc nào cũng thảnh thơi nơi núi hoang rừng rậm. Chiều vắng am thanh tức là 
      chùa ở chỗ vắng vẻ, am ở chỗ yên tịnh, chính thật cảnh đạo nhân du hí; du 
      hí là du hí tam-muội nghĩa là ở trong chánh định mà vui vẻ. “Ngựa cao tán 
      cả, Diêm vương nào kể đứa nghêng ngang”, dầu cho có được ngồi ngựa cao, 
      được che tán lớn việc đó trên thế gian thấy như nghênh ngang đắc thế lắm, 
      nhưng vua Diêm Vương có sợ không? Tới ngày cũng lôi mình xuống dưới, chớ 
      không ai tránh được. Còn “gác ngọc lầu vàng, ngục tốt thiếu chi người yêu 
      quí” nghĩa là sao? Người có gác ngọc, người được lầu vàng, những người đó 
      là bạn yêu quí của ngục tốt, của ngưu đầu mã diện. Tại sao? Vì chính đó là 
      gốc của ái nhiễm mà người ái nhiễm là bạn để cho ngục tốt hay ngưu đầu mã 
      diện lôi xuống dưới chơi với nó. Như vậy hai trường hợp: trường hợp được 
      ngựa cao tán cả cũng không thoát khỏi tay Diêm Vương, trường hợp được gác 
      ngọc lầu vàng thì làm bạn với ngưu đầu mã diện. “Chuộng công danh, lòng 
      nhân ngã, thật ấy phàm phu”, nếu chúng ta tu mà còn quí mến công danh, còn 
      ưa thích nhân ngã, quả thật chúng ta là kẻ phàm phu. Trái lại “say đạo 
      đức, dời thân tâm, định nên thánh trí”. Ở trong đạo, người nào tu hành một 
      cách say mê thích thú, thân tâm luôn đổi thay, ngày xưa một trăm phần 
      phiền não, tu một năm còn chín chục phần, tu hai năm còn tám chục phần, tu 
      mười năm thì hoàn toàn trong sạch người đó mới thật là người tốt; và chính 
      việc dời thân tâm là điều quyết định để trở nên con người thánh trí. Như 
      vậy phàm phu là vì chuộng công danh, lòng nhân ngã, thánh trí là vì biết 
      mến đạo đức, biết sửa đổi thân tâm. Chúng ta muốn làm phàm, hay muốn làm 
      thánh đều tùy theo niệm, tùy theo tâm của chúng ta. Hai câu sau Ngài nói: 
      “Mày ngang mũi dọc, tướng lạ xem ắt bẵng nhau.” Về phần mắt và mũi của 
      chúng ta thì thế nào? Chân mày ngang, mũi dọc xuống. Bất cứ ai dầu đẹp, 
      dầu xấu, dầu trắng, dầu đen... chân mày cũng ngang mũi cũng dọc xuống chớ 
      không có khác gì nhau. Thấy dường như lạ nhưng đều bẵng nhau nghĩa là bằng 
      nhau hết; không có khác, ai cũng mày ngang, ai cũng mũi dọc. Nhưng “mặt 
      thánh lòng phàm thật cách nhẫn vàn vàn thiên lý”. Bài này dùng chữ mặt, có 
      chỗ khác viết lòng phàm, lòng thánh. Tuy về thân, dáng vẻ đồng nhau nhưng 
      về tâm, tâm phàm, tâm thánh cách nhau vàn vàn thiên lý tức là muôn trùng 
      thiên lý. Câu nói gọn hơn là: “Như nhau dọc mũi ngang mày, lòng phàm lòng 
      thánh cách nhau ngàn trùng.” Như vậy ai cũng mày ngang mũi dọc giống hệt 
      nhau, nhưng tâm hồn của người nhiễm ô trần tục và tâm hồn của người được 
      thanh thoát, tiêu dao trong cảnh thanh tịnh thì cách biệt nhau không biết 
      là bao nhiêu. Trên hình thức, tất cả chúng ta đồng nhau, nhưng trên tâm 
      niệm thì người biết tu và người không biết tu cách nhau muôn trùng. Vậy 
      tất cả chúng ta, ai là người đã có chí tu hành, phải cố gắng đạt cho kỳ 
      được sự cao cả, sự thanh thản đó, đừng để trở thành kẻ phàm phu tục tử 
      đáng chê, đáng trách như buổi ban đầu. 
      
                  Để 
      kết luận, tôi nhắc lại một lần nữa, tất cả chúng ta đã được phúc duyên 
      lành nhiều đời nên ngày nay mới được vào đạo, được xuất gia, tu hạnh giải 
      thoát. Đó là phúc đức lớn, vinh dự lớn của mình, quí vị đã được thì nên 
      giữ và cố gắng làm tăng trưởng thêm. Có nhiều người cũng muốn được xuất 
      gia, được thong thả tu hành như chúng ta, nhưng duyên của họ chưa đến. Vậy 
      chúng ta được đầy đủ phúc, đầy đủ duyên, chúng ta phải cố gắng mỗi ngày 
      mỗi tiến, đừng đứng nguyên một chỗ, cũng đừng lui sụt. Tôi trích thêm một 
      bài kệ nữa của ngài Điều Ngự Giác Hoàng, bài “Sơn Phòng Mạn Hứng”, bài thứ 
      hai. Quí vị nghe rồi ứng dụng đúng như tinh thần này: 
      
      
                              Thị phi niệm trục tiêu hoa lạc, 
      
      
                              Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn. 
      
      
                              Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch, 
      
      
                              Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn. 
      
                  
      Dịch: 
      
      
                              Phải trái rụng theo hoa buổi sớm. 
      
      
                              Lợi danh lạnh với trận mưa đêm, 
      
      
                              Hoa tàn, mưa tạnh, non im lắng, 
      
      
                              Xuân cỗi còn dư một tiếng chim (Đỗ Văn Hỷ) 
      
                  
      Quí vị thấy chúng ta tu phải làm sao giống như bài kệ này. Việc phải trái 
      tức là thị phi phải rụng theo hoa buổi sớm. Buổi sáng nhìn xuống gốc mai, 
      chúng ta thấy mai rã cánh không biết là bao nhiêu phải không? Chúng ta tu 
      thế nào mà bao nhiêu điều thị phi rụng như những cánh hoa lả tả rơi buổi 
      sớm, chớ không dính chặt, dính cứng trong tâm mình. “Lợi danh lạnh với 
      trận mưa đêm”: Đến mùa thu, có những trận mưa đêm tầm tã, gió lạnh, những 
      tâm danh lợi của mình cũng lạnh như vậy, lạnh không còn một chút hơi ấm 
      nào. Quí vị lạnh chưa? Hoa tàn, mưa tạnh thì còn cái gì? Còn một ngọn núi 
      im lặng xanh rì phải không? Cũng như thế, tâm thị phi đã rụng hết, tâm 
      danh lợi đã lạnh hết, lúc đó chúng ta sẽ còn một tâm thể thanh tịnh bất 
      sanh bất diệt như một hòn núi xanh rì, vững vàng đứng giữa trời. Và còn 
      điều gì nữa? “Xuân cỗi còn dư một tiếng chim”: Tuy mùa xuân tàn rồi mà còn 
      một tiếng chim hót. Thật đẹp làm sao! Tu hành phải như vậy, phải làm sao 
      mà thị phi rụng hết như hoa, danh lợi lạnh ngắt như mưa đêm. Được như vậy 
      sớm muộn gì cũng được giải thoát, chỉ sẽ còn một hòn núi bất di bất dịch 
      đứng giữa trời. Mong rằng tất cả Tăng Ni cũng như Phật tử có được tâm niệm 
      như ngài Điều Ngự Giác Hoàng đã nhắc trong bài kệ “Sơn Phòng Mạn Hứng”. 
      
                  
      Hôm nay là ngày đầu năm Kỷ Tỵ, tôi có đôi lời nhắc nhở chung cho Tăng Ni 
      và Phật tử cùng nghe. Mong rằng quí vị ghi nhớ ý của các Tổ, các bậc tu 
      hành trước, lấy đó làm kinh nghiệm mà cố gắng học và làm theo gương người 
      xưa, để xứng đáng là người xuất gia và làm tròn được sở nguyện của mình, 
      hầu trên đền đáp bốn ân, dưới cứu giúp ba cõi. Đó cũng là sở nguyện của 
      chúng tôi. 
      
      NAM-MÔ BỔN 
      SƯ THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT. 
      
      ]  |