[Trang chu] [Kinh sach]

BƯỚC ĐẦU TRÊN CON ĐƯỜNG THIỀN

[mucluc][loidausach][p1][p2][p3][p4][p5][p6]


CÓ PHÁP MÔN NÀO

hơg

CHÁNH VĂN:

1. Một thời Thế Tôn ở

2. Ở đấy, Thế Tôn gọi các Tỳ kheo.

3. Có Pháp Môn nào, do pháp môn ấy, Tỳ kheo, ngoài ḷng tin, ngoài ưa thích, ngoài lắng nghe, ngoài suy tư về phương pháp (àkàrapari-takkà), ngoài kham nhẫn, thích thú biện luận (dithini shànakhanti), có thể xác chứng Chánh trí; vị ấy biết rơ: "Sanh đă tận, phạm hành đă thành, những việc nên làm đă làm, không c̣n trở lui trạng thái này nữa"?

4. Bạch Thế Tôn, đối với chúng con, pháp lấy Thế Tôn làm căn bản...

5. Có một pháp môn, này các Tỳ kheo, do pháp môn ấy, Tỳ kheo ngoài ḷng tin, ngoài ưa thích, ngoài lắng nghe, ngoài kham nhẫn, thích thú biện luận, có thể xác chứng Chánh Trí; vị ấy biết rơ: "Sanh đă tận... trạng thái này nữa".

6. Pháp môn ấy là ǵ, do pháp môn ấy "... không c̣n trở lui trạng thái này nữa?"

7. Ở đây, này các Tỳ kheo, Tỳ kheo khi mắt thấy sắc, hoặc nội tâm có tham, sân, si biết rơ: "Nội tâm ta có tham, sân, si"; hoặc nội tâm không có tham, sân, si biết rơ: "Nội tâm ta không có tham, sân, si". Này các Tỳ kheo khi mắt thấy sắc, hoặc nội tâm có tham, sân, si biết rơ: "Nội tâm ta có tham, sân, si"; hoặc nội tâm không có tham, sân, si biết rơ: "Nội tâm ta không có tham, sân, si". Này các Tỳ kheo, biết rơ chúng có mặt hay không có mặt trong tâm vị ấy, có phải chúng là những pháp do ḷng tin được hiểu biết, hay do ưa thích được hiểu biết, hay do lắng nghe được hiểu biết, hay do suy tư về phương pháp được hiểu biết, hay do kham nhẫn, thích thú về biện luận được hiểu biết?"

- Thưa không, bạch Thế Tôn

- Có phải các pháp này, do thấy chúng với trí tuệ, nên được hiểu biết ?

- Thưa phải, bạch Thế Tôn.

Đây là pháp môn, này các Tỳ kheo, do pháp môn này, ngoài ḷng tin, ngoài ưa thích, ngoài lắng nghe, ngoài suy tư về phương pháp, ngoài kham nhẫn, thích thú biện luận, có thể xác chứng với Chánh Trí; vị ấy biết rơ: "Sanh đă tận.... không c̣n trở lui trạng thái này nữa".

8. Lại nữa, này các Tỳ kheo, Tỳ kheo khi nghe tai tiếng... khi mũi ngửi hương... khi lưỡi nếm vị... khi thân cảm xúc..."

9. Lại nữa, này các Tỳ kheo, khi ư biết Pháp, hoặc nội tâm có tham, sân, si biết rơ: "Nội tâm ta có tham, sân, si", hoặc nội tâm không có tham, sân, si biết rơ: "Nội tâm ta không có tham, sân, si". Này các Tỳ kheo, khi ư biết pháp hoặc biết rơ nội tâm có tham, sân, si: "Nội tâm ta có tham, sân, si", hoặc biết rơ nội tâm không có tham, sân, si: "Nội tâm ta không có tham, sân, si". Này các Tỳ kheo, sự biết rơ chúng có mặt hay không có mặt trong tâm vị ấy, có phải chúng là những pháp do ḷng tin được hiểu biết, hay do ưa thích được hiểu biết, hay do lắng nghe được hiểu biết, hay do suy tư về phương pháp được hiểu biết, hay do kham nhẫn, thích thú về biện luận được hiểu biết?"

- Thưa không, bạch Thế Tôn.

- Có phải các pháp này, do thấy chúng với trí tuệ nên được hiểu biết?

- Thưa phải, bạch Thế Tôn.

10. Đây là pháp môn, này các Tỳ kheo, do pháp môn ấy, Tỳ kheo ngoài ḷng tin, ngoài ưa thích, ngoài lắng nghe, ngoài suy tư về pháp môn, hay ngoài kham nhẫn, thích thú biện luận, có thể xác chứng với Chánh trí; vị ấy biết rơ: "Sanh đă tận, Phạm hạnh đă thành, những việc nên làm đă làm, không c̣n trở lui trạng thái này nữa".

GIẢNG

Có Pháp Môn Nào là bài Kinh nguyên thủy rất hệ trọng đối với đường lối tu của Thiền viện. Phật nói có Pháp môn, nhưng tại sao không đặt tên là pháp môn ǵ? Nếu thiền sinh không học, không nắm vững bài kinh này, khi nghe phê phán BIẾT VỌNG là một lối tu do người sau đặt ra, không phải Phật dạy th́ sẽ hoang mang không vững ḷng tin để tu tập. Ngược lại, nếu học hiểu kinh này chính chắn thông suốt, chúng ta sẽ thấy đường lối tu của Thiền viện có sẵn căn bản, có nguồn gốc rơ ràng.

Có pháp môn nào có nghĩa là không có phương pháp nào hết.

Có pháp môn nào, do pháp môn ấy, Tỳ kheo ngoài ḷng tin, ngoài ưa thích, ngoài lắng nghe, ngoài suy tư về phương pháp (Aøkàrapari takkà), ngoài kham nhẫn, thích thú biện luận (ditthini shànakhanti) có thể xác chứng Chánh Trí; vị ấy biết rơ: "Sanh đă tận, Phạm hạnh đă thành, những việc nên làm đă làm, không c̣n trở lui trạng thái này nữa".

Phật nói có một pháp môn vượt ngoài tín ngưỡng tôn giáo, không tin Phật, không tin Pháp, không tin Bồ Tát, La Hán, vượt ngoài sự chán ưa Ta bà Cực lạc, vượt ngoài sự lắng nghe học hỏi, vượt ngoài tư duy quán sát, vượt ngoài kham nhẫn tu tập, vượt ngoài thích thú biện luận. Nhưng "pháp môn ấy" có thể xác chứng Chánh Trí và chứng quả A La Hán. Như vậy, đó là pháp môn ǵ? Có phải pháp môn đó không lệ thuộc tín ngưỡng giáo điều của Tôn giáo là phải tin Tam bảo, phải ăn chay, phải lạy Phật cho có phước? Pháp môn đó không phải kham nhẫn để tu hành, không phải khởi tâm chán ngán cơi Ta bà, ưa thích và cầu sanh về Tịnh độ, không phải ráng nghe ráng học để thâm nhập lư đạo, không phải tư duy giản trạch giáo nghĩa cho hay cho rơ. Tất cả những điều nêu trên đều không liên hệ với pháp môn mà Phật nói ở đây. Vậy mà pháp môn này có thể xác chứng được Chánh trí và chứng quả A La Hán.

Khi Phật nêu lên vấn đề đó th́ các Tỳ kheo bạch:

- Bạch Thế Tôn, đối với chúng con, Pháp lấy Thế Tôn làm căn bản...

Các thầy Tỳ kheo bạch Phật rằng Thế Tôn là nguồn mạch của giáo pháp, xin Phật chỉ dạy, chứ các Tỳ kheo không thể biết pháp môn đặc biệt đó là pháp môn ǵ? Phật dạy :

Có một pháp môn, này các Tỳ kheo, do pháp môn ấy, Tỳ kheo ngoài ḷng tin, ngoài ưa thích, ngoài lắng nghe, ngoài kham nhẫn, thích thú biện luận có thể xác chứng Chánh trí; vị ấy biết rơ: "Sanh đă tận, Phạm hạnh đă thành, những việc nên làm đă làm, không c̣n trở lui trạng thái này nữa".

Pháp môn ấy là ǵ, do pháp môn ấy..."... không c̣n trở lui trạng thái này nữa?".

Ở đây, này các Tỳ kheo, Tỳ kheo khi mắt thấy sắc, hoặc nội tâm có tham, sân, si biết rơ: "Nội tâm ta có tham, sân, si", hoặc nôïi tâm không có tham, sân, si biết rơ: "Nội tâm ta không có tham, sân, si". Này các Tỳ kheo, Tỳ kheo khi mắt thầy sắc, hoặc nội tâm có tham, sân, si biết rơ: "Nội tâm ta có tham, sân, si"; hoặc nội tâm không có tham, sân, si biết rơ: "Nội tâm ta không có tham, sân, si".

Phật dạy có một pháp môn vượt ngoài ḷng tin, vượt ngoài ưa thích, vượt ngoài kham nhẫn, vượt ngoài nghe học, vượt ngoài biện luận, tư duy. Pháp môn ấy là khi mắt thấy sắc nơi tâm có khởi tham, sân, si biết rơ ràng tâm có tham, sân, si; nếu tâm không có tham, sân, si cũng biết rơ là tâm không có tham, sân, si.

Này các Tỳ kheo, biết rơ chúng có mặt hay không có mặt trong tâm vị ấy, có phải chúng là những pháp do ḷng tin được hiểu biết, hay do ưa thích được hiểu biết, hay do lắng nghe được hiểu biết, hay do suy tư về phương pháp được hiểu biết, hay do kham nhẫn, thích thú về biện luận được hiểu biết?

- Thưa không, bạch Thế Tôn.

Phật dạy nh́n thẳng tâm: khi căn tiếp xúc với trần, tham, sân, si có mặt hay không có mặt. Phải thấy biết một cách rơ ràng. Nghĩa là khi mắt thấy sắc có niệm tham, niệm sân, niệm si dấy khởi th́ biết có tham, sân, si; nếu không có niệm tham, niệm sân, niệm si dấy khởi th́ biết không tham, sân, si. Khi tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị... có tham, sân, si dấy khởi th́ biết có tham, sân, si, không có tham, sân, si dấy khởi th́ biết không có tham, sân, si. Thấy biết rơ ràng, không cần thêm sự kiện ǵ khác. Thấy biết như thế là tu. Đó là pháp môn ǵ ?

Ở đây, tôi hướng dẫn các Thiền sinh trong mọi sinh hoạt hằng ngày khi mắt thấy sắc, tai nghe tiếng... có niệm dấy khởi chạy theo ngoại trần liền biết không theo, niệm không khởi cũng biết, đó là tu. Vậy, pháp mà chúng ta đang tu và pháp mà Phật dạy tu trong kinh này có khác không? Trong kinh, Phật nói theo lối xưa ngắn gọn, chỉ nói tâm có tham, sân, si th́ biết tâm có tham, sân, si; không có tham, sân, si th́ biết không tham, sân, si. Về sau được triển khai rơ hơn: biết niệm tham, niệm sân, niệm si là hư dối không chạy theo tham, sân, si, chớ không phải biết có tham, sân, si mà chạy theo tham, sân, si. Biết để mà không theo, th́ cái biết đó mới có giá trị. Cái BIẾT đó là TRÍ. Trong văn kinh Phật khẳng định rất rơ: "Pháp môn này không thuộc tín ngưỡng tôn giáo, không do học hỏi, không cần cố gắng kham nhẫn, không do suy tư... chỉ dùng trí tuệ mà biết".

Sau đây Phật lại nhấn mạnh thêm:

- Có phải các Pháp này, do thấy chúng với trí tuệ nên được hiểu biết?

- Thưa phải, bạch Thế Tôn.

- Đây là pháp môn, này các Tỳ kheo, do pháp môn này, ngoài ḷng tin, ngoài ưa thích, ngoài lắng nghe, ngoài suy tư về phương pháp, ngoài kham nhẫn, thích thú biện luận, có thể xác chứng với Chánh Trí. Vị ấy biết rơ: "Sanh đă tận, Phạm hạnh đă thành, những việc nên làm đă làm, không c̣n trở lui trạng thái này nữa".

Khi căn tiếp xúc với trần, biết có niệm dấy khởi chạy theo ngoại trần hay không niệm dấy khởi chạy theo ngoại trần, cái biết đó là trí tuệ. Bài kinh này xác định rơ ràng pháp tu biết vọng, mà Thiền viên đang hướng dẫn Thiền sinh tu tập là dùng tŕ tuệ nh́n lại tâm ḿnh. Khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần có khởi niệm chạy theo ngoại trần hay không khởi niệm chạy theo ngoại trần. Nếu có khởi niệm th́ biết nó là vọng tưởng chợt hiện, chợt mất, hư giả không theo. Nếu không khởi niệm th́ tâm lặng lẽ, tuy lặng lẽ mà vẫn tỉnh giác không mờ mịt. Nh́n lại để thấy hành trạng của tâm ḿnh, đó là pháp môn ǵ? Không có một phương pháp thứ lớp trước sau để thực hành mà vẫn có tu, nên tạm gọi là BIẾT VỌNG.

Vậy, Phật dạy tu trong kinh này cũng như BIẾT VỌNG mà Thiền viện đang chủ trương, không có một phương pháp thứ lớp trước sau để thực hành, mà vẫn có cách tu là dùng trí nh́n lại hành trạng của tâm ḿnh để dừng mọi vọng niệm, đó là giải thoát. Kinh Viên Giác thuộc hệ thống Đại thừa cũng dạy: "Tri huyễn tức ly, ly huyễn tức giác". Nếu biết huyễn th́ ĺa huyễn, mà ĺa huyễn là giác. Thấy vọng niệm khởi là huyễn hóa. Không thật nên không theo, không theo tức là ĺa vọng niệm, mà ĺa vọng niệm là giác, là giải thoát. Đó là sự nhất quán giữa Nguyên thủy, Đại thừa và Thiền tông.

Ngài Thần Quang trải qua bao nhiêu lần thử thách mới được Tổ Bồ Đề Đạt Ma nhận làm đệ tử. Tuy được Tổ nhận làm đệ tử, nhưng Ngài vẫn c̣n mang trong ḷng nỗi bất an. Một hôm, Ngài rón rén thưa:

- Bạch Ḥa Thượng, tâm con không an, xin Ḥa Thượng dạy con phương pháp an tâm. Tổ nh́n thẳng vào mặt Thần Quang bảo:

- Đem tâm ra ta an cho.

Ngài Thần Quang cũng như chúng ta, đ̣i có một phương pháp để nương theo đó mà thực hành. Nhưng Tổ dạy như vậy là phương pháp ǵ ???

Ngài Thần Quang ḷng tin đă đặt trọn vẹn nơi thầy, nên Tổ dạy sao làm vậy. Bèn xoay nh́n lại để t́m tâm, t́m thật kỹ mà chẳng thấy tướng trạng của tâm như thế nào, Ngài thật thà thưa rằng:

- Bạch Ḥa thượng, con t́m tâm không được.

Tổ bảo:

- Ta đă an tâm cho ngươi rồi.

Tổ bảo như thế là nói thật hay nói dối? Ngài dùng pháp ǵ để an tâm cho Thần Quang? Và an bao giờ?

Lời Tổ nói mới nghe qua thấy như nói đùa, nhưng đó là một tiếng sét làm chấn động tâm năo Thần Quang, khiến Ngài hốt nhiên tỉnh ngộ thấy được cách an tâm, và tâm Ngài từ đó được an.

Thiền tông chủ trương "Không có một pháp cho người" và "Có pháp môn nào" mà Phật dạy trong bài kinh này có trái nhau không? Người Trung Hoa đầu tiên (Thần Quang) được tiếp nhận yếu chỉ Thiền từ Aán Độ sang do Bồ Đề Đạt ma truyền là pháp môn nào ?

Chư Tổ Thiền tông thuộc ḍng Lâm Tế từ đời Tống tùy theo căn cơ của người dùng câu thoại đầu lập thành pháp môn để dạy tu. Thế mà người sau không biết, chấp pháp môn tu của ḿnh là trên hết, bèn bài bác pháp tu Mặc chiếu của Tông Tào Động và Tri vọng truyền từ Bồ Đề Đạt Ma là tà. Người truyền đạo như thế, mang nặng tinh thần ức dương, bài bác phủ nhận tất cả để c̣n lại một pháp môn của ḿnh, thật là một việc làm vô trách nhiệm, không thông suốt được gốc ngọn. Phật đă tùy căn cơ của chúng sanh dùng rất nhiều pháp môn để giáo hóa để độ khắp. Thế mà người sau lại bài bác tất cả để c̣n lại một pháp môn của ḿnh, đó là một việc làm đưa đạo Phật đến chỗ tiêu diệt mà người truyền đạo không thấy cái họa lớn đó.

Bài kinh này nếu nằm trong Hán tạng th́ có thể bị nghi ngờ là do các Tổ Trung Hoa gầy dựng, gây niềm tin cho người. Nhưng bài kinh này chỉ có trong kinh Nguyên Thủy, thuộc tạng Pàli mà không có trong Hán Tạng. Như vậy, th́ chư Tổ Thiền Tông dạy không có pháp môn đâu chẳng phải không căn cứ từ cội nguồn Phật pháp từ giáo lư Nguyên thủy đă có thời đức Phật, từ miệng Phật nói ra. Vậy, hệ thống truyền thừa từ Phật đến Tổ Huệ Khả và Chư Tổ Thiền tông sau này, không phải là chuyện ngẫu nhiên vô căn cứ.

Nh́n lại tâm ḿnh, trong kinh này, chính Đức Phật đă dạy, sau Chư Tổ tiếp tục dạy, không phải mới bịa đặt ra sau này. V́ từ lâu, người tu quen dùng phương tiện như sổ tức, niệm Phật, tŕ chú.... để buộc tâm, bây giờ nói không có pháp môn th́ sanh nghi, nào biết lối tu này phát nguồn từ Đức Phật dạy. Như vậy, pháp môn tu không cần một phương pháp, chỉ cần nh́n thẳng tâm ḿnh nên gọi là trực chỉ, nếu c̣n nương một pháp như quán sổ tức, quán bất tịnh, khán thoại đầu... để tu th́ không gọi là Trực chỉ. Căn bản của Thiền tông là chỗ không có một pháp để dạy người, nếu có một pháp th́ Thiền sư đăùnói, đă dạy, đâu cần đánh hét làm ǵ. Bởi không có một pháp nên các Ngài khéo dùng thuật chỉ thẳng, ngay đó khiến người nhận ra chân tâm ḿnh, nên nói Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật là vậy. Kinh này không nói thành Phật mà nói thành A La Hán, kinh Nguyên thủy thường gọi Phật là bậc A La Hán Chánh Đẳng Chánh Giác. Vậy, qua bài kinh này chúng ta đă thấy rơ nguồn gốc pháp tu tri vọng mà Thiền viện đang chủ trương phát xuất từ đâu rồi.

Qua bài kinh này, tôi xin xác nhận lại hai điều:

I. Không có pháp môn

Phật dạy tu mà không có một phương pháp thứ lớp trước sau cho người thực hành, chỉ dùng trí tuệ để thấy rơ hành trạng của nội tâm khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần. Trong kinh dùng chữ tham, sân, si. Chư Tổ th́ nói tất cả mọi vọng niệm. Hai cách nói tuy khác nhau nhưng ư nghĩa không khác. V́ mắt thấy sắc đẹp khởi niệm ưa thích, đó là tham. Tai nghe lời thô tục, khởi niệm bực bội, đó là sân. Đối cảnh tâm ngơ ngơ không biết ǵ, chấp cảnh là thật, đó là si. Vậy, tất cả mọi ư niệm dấy khởi chạy theo trần cảnh đều là tham, sân, si.

II. Biết là Trí tuệ

Khi thấy biết vọng tưởng, vọng tưởng lặng. Cái biết đó là Trí tuệ. V́ khi mê, cho vọng tưởng là tâm ḿnh nên bị nó dẫn chạy ngược chạy xuôi rồi phiền năo khổ đau. Bây giờ, biết bản chất của nó là không thật là vọng tưởng nên không chạy theo nó nữa. Không theo nó th́ tham, sân, si dừng; tham, sân, si dừng th́ hết phiền năo khổ đau. Người không phiền năo khổ đau là người trí. Vậy, biết vọng tưởng là trí tuệ, đừng lầm mà nghi ngờ cái biết đó cũng là vọng tưởng. Phải thấy cho thật rơ điều này. Nên biết thấy được vọng niệm là trí tuệ và từ trí tuệ sẽ đi tới giải thoát. V́ biết vọng niệm nên không theo, không theo nên không nhiễm, không nhiễm là giải thoát. Đó là trọng tâm tu hành mà Tổ Bồ Đề Đạt Ma đă chỉ thẳng: "Đem tâm ra ta an cho".

Hồi xưa đọc qua chỗ này, mấy lần tôi vẫn không hiểu. V́ tôi quan niệm tu là phải có một phương pháp hẳn ḥi, nên t́m hoài không được, sanh nản ḷng. Không ngờ Tổ đă tuyên bố trực chỉ th́ c̣n pháp môn ǵ nữa? Bây giờ th́ thấy rất rơ, chỉ cần nh́n lại hành trạng của nội tâm, vừa có niệm khởi liền biết nó là vọng niệm không theo, không vọng niệm cũng biết, đó là tu. Như vậy ngay khi vọng niệm hết th́ chân tâm sáng suốt tự hiện, mà chân tâm sáng suốt đó là Giác, là Phật. Thế mà chúng ta muốn thấy ông Phật hào quang rực rỡ với những tướng khác lạ, chớ không chịu nhận ông Phật hằng sáng hằng giác sẵn có nơi ḿnh. Tánh giác dụ như cái gương sáng, bên ngoài có vật th́ hiện bóng trong gương, bên ngoài không vật th́ gương không bóng, nhưng mặt gương vẫn trong sáng. Cũng vậy, tánh giác khi không có vọng niệm th́ thanh tịnh sáng suốt, mắt vẫn thấy, tai vẫn nghe, các căn vẫn biết không mê mờ, cũng không có cái lanh của điên đảo. Một giờ niệm không khởi là một giờ tâm sáng suốt thanh tịnh, là Phật hiện tiền.

V́ không biết Phật là tánh giác, sẵn có nơi tự tâm ḿnh, nên người đời tưởng tượng rồi chạy theo h́nh tướng tô điểm vẽ vời tượng Phật môi son má phấn ḷe loẹt. Phật đă không cho đệ tử dùng hương hoa, phấn sáp trang điểm thân h́nh, bây giờ chúng ta lại dùng son phấn tô điểm tượng Phật, làm một điều hết sức trái ngược! Đức Phật từ giă nếp sống xa hoa lộng lẫy ở hoàng cung, đi vào rừng sống một đời sống đơn giản b́nh dị. Vậy mà, ngày nay người học Phật quá thiển cận, cứ chạy theo cái ḷe loẹt hào nhoáng bên ngoài, nên đạo càng ngày càng xa. Cái thật hiện hữu trước mắt th́ không chịu nhận. Chúng ta có thể ngồi chơi: mắt vẫn thấy, tai vẫn nghe tất cả âm thanh sắc tướng bên ngoài mà không khởi một niệm, tâm thanh tịnh lặng lẽ khoảng 5 phút, 10 phút... ngay khi đó tâm b́nh an là Phật hiện tiền. Nói tâm b́nh an là Phật hiện tiền th́ thấy quá dễ nên mọi người không dám tin. Song, đó là một lẽ thật không thể phủ nhận. Phật không xa, chỉ v́ ḿnh đem tâm t́m kiếm thành ra xa cách, rồi tự than: Ta sanh vào thời mạt pháp, cách Phật quá xa, nên khó tu! Nếu nắm được then chốt rồi th́ sự tu hành không khó, gần với đạo vô cùng, ai cũng có thể làm được. Chỉ cốt đối duyên, xúc cảnh mắt vẫn thấy, tai vẫn nghe... không khởi niệm chạy theo trần cảnh, tâm hằng lặng lẽ sáng suốt đó là hợp đạo, là sống với trí tuệ, là Phật.

Bài kinh này giúp cho chúng ta thấy rơ đường lối tu của thiền viện là dùng trí tuệ nh́n lại hành trạng của nội tâm ḿnh, đó là một cách tu có căn bản, có nguồn cội, để chúng ta vững ḷng tin, không hoang mang nghi ngờ, không sợ việc tu của ḿnh bị sai lạc mà nỗ lực tu tập.

]

 


[mucluc][loidausach][p1][p2][p3][p4][p5][p6]

[Trang chu] [Kinh sach]