[Trang chu] [Kinh sach]

KINH KIM CANG

[mucluc][loidausach][p1][p2]

[d1-d5][d6-d10][d11-15][d16-d20][d21-d25][d26-d32]


ĐOẠN 6

ÂM:

CHÁNH TÍN HY HỮU.

Tu-bồ-đề bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Phả hữu chúng sanh, đắc văn như thị ngôn thuyết, chương cú, sanh thật tín phủ? Phật cáo Tu-bồ-đề: Mạc tác thị thuyết. Như Lai diệt hậu, hậu ngũ bách tuế, hữu tŕ giới tu phước giả, ư thử chương cú năng sanh tín tâm, dĩ thử vi thật, đương tri thị nhân bất ư nhất Phật, nhị Phật, tam tứ ngũ Phật nhi chủng thiện căn, dĩ ư vô lượng thiên vạn Phật sở, chủng chư thiện căn. Văn thị chương cú, năi chí nhất niệm sanh tịnh tín giả, Tu-bồ-đề, Như Lai tất tri, tất kiến thị chư  chúng sanh đắc như thị vô lượng phước đức. Hà dĩ cố? Thị chư chúng sanh vô phục ngă tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, vô pháp tướng diệc vô phi pháp tướng. Hà dĩ cố? Thị chư chúng sanh, nhược tâm thủ tướng tắc vi trước ngă, nhân, chúng sanh, thọ giả. Nhược thủ pháp tướng tức trước ngă, nhân, chúng sanh, thọ giả. Hà dĩ cố? Nhược thủ phi pháp tướng tức trước ngă nhân chúng sanh thọ giả. Thị cố bất ưng thủ pháp, bất ưng thủ phi pháp. Dĩ thị nghĩa cố, Như Lai thường thuyết: Nhữ đẳng Tỳ-kheo tri ngă thuyết pháp như phiệt dụ giả, pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp.

DỊCH:

CHÁNH TÍN ÍT CÓ: (Người tin đúng rất ít có).

Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn, vả lại có chúng sanh được nghe những lời nói và chương cú như thế, sanh ḷng tin chân thật chăng? Phật bảo Tu-bồ-đề: Chớ nói như thế. Sau khi Như Lai diệt độ, sau khoảng năm trăm năm, có người giữ giới, tu phước, đối với những chương cú này hay sanh ḷng tin cho đây là thật, nên biết người ấy không phải ở nơi một đức Phật, hai đức Phật, ba, bốn, năm đức Phật gieo trồng căn lành mà đă ở chỗ vô lượng ngàn muôn đức Phật gieo trồng căn lành. Người nghe chương cú này cho đến một niệm sanh ḷng tin thanh tịnh, này Tu-bồ-đề, Như Lai ắt biết, ắt thấy các chúng sanh ấy được vô lượng phước đức như thế. V́ cớ sao? V́ các chúng sanh ấy không c̣n có tướng ngă, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, không có tướng pháp cũng không tướng phi pháp. V́ cớ sao? V́ nếu các chúng sanh ấy, tâm c̣n chấp tướng là c̣n chấp ngă, nhân, chúng sanh, thọ giả. Nếu c̣n chấp tướng pháp tức c̣n chấp ngă nhân chúng sanh thọ giả. V́ cớ sao? Nếu c̣n chấp tướng phi pháp tức c̣n chấp ngă nhân chúng sanh thọ giả. Thế nên không nên chấp pháp, không nên chấp phi pháp. Bởi do nghĩa ấy, Như Lai thường nói: Tỳ-kheo các ông nên biết, ta nói pháp ví dụ như chiếc bè, pháp c̣n nên bỏ, huống là phi pháp.

GIẢNG:

Trong đoạn này đức Phật dạy thêm: Người nào nghe kinh này sanh niềm tin th́ người đó đă có những duyên lành như thế nào. Trước tiên do ngài Tu-bồ-đề gợi ư, Ngài hỏi Phật rằng: Có những chúng sanh nào được nghe chương cú này sanh ḷng tin chân thật chăng? Những chúng sanh nghe Phật nói những lờiø như thế, họ có tin chăng? Đức Phật xác nhận: Sau khi Phật nhập Niết-bàn khoảng năm trăm năm có những người biết giữ giới, biết tu phước, ngay nơi kinh Kim Cang, họ sanh niềm tin cho là thật, là đúng th́ nên biết người đó không phải chỉ gieo trồng căn lành ở một, hai, ba, bốn, năm Đức Phật mà đă gieo trồng căn lành ở chỗ ngàn muôn đức Phật rồi. Qua lời xác định của đức Phật, quí vị kiểm lại xem ḿnh đă gieo trồng căn lành bao lâu? Nơi bao nhiêu đức Phật?

Đức Phật xác nhận là nếu ngay những lời Phật dạy mà người nào tin quả quyết đó là thật th́ người đó đă gieo trồng căn lành ở chỗ vô lượng ngàn muôn đức Phật rồi! Như vậy chúng ta có tủi thân là ḿnh mới phát tâm tu hay không? Hay là chúng ta đă gieo trồng căn lành nơi nhiều chư Phật, nhưng tại chúng ta tu hành lôi thôi nên bây giờ c̣n sót lại đây? Hiện nay nếu chúng ta cố gắng tu nữa, dần dần sẽ có ngày ḿnh đến, chớ không có căn lành th́ nghe kinh này không tin nổi. Ngày nay chúng ta nghe mà tin được và quả quyết là Phật nói đúng chân lư, đủ niềm tin là đă có căn lành từ lâu rồi. Song đă gieo trồng căn lành ở nhiều đời chư Phật mà c̣n lang thang ở đây, thật đáng tủi hổ quá phải không? Tuy nhiên chúng ta cũng có chút hănh diện là đă có căn lành chớ không phải ḿnh là con số không, mà đă có căn lành rồi nếu quyết chí tu, chúng ta có thể tiến được chớ không đến nỗi phải lui sụt. Do tin như thế, chúng ta có thể cố gắng tiến tới.

Tiếp theo đức Phật hạ thấp xuống một tầng nữa. Ngài bảo: Giả sử như có những người nghe lời dạy đây, chỉ sanh một niệm, một niệm thôi, một niệm tin trong sạch th́ người đó sẽ được Phật thấy biết chắc chắn người đó được công đức vô lượng. Đó là cái thấy biết của Phật như thế chớ không phải Ngài nói suông. Quí vị có được một niệm tin trong sạch chưa? Nghe lời dạy như vậy mà được một niệm tin trong sạch đă là công đức vô lượng rồi. V́ cớ sao? V́ những chúng sanh đó không c̣n tướng ngă, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả. Tại sao? V́ một niệm tin trong sạch là tin rằng nếu chúng ta c̣n một niệm tức là c̣n một chúng sanh chưa độ được. Vậy là c̣n ngă, c̣n nhân, c̣n chúng sanh, c̣n thọ giả. Trái lại nếu tất cả chúng sanh được độ vào vô dư Niết-bàn rồi th́ tướng ngă, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả đâu c̣n, nên nói không c̣n những tướng đó.

Đức Phật lại bảo thêm: Không c̣n tướng pháp và cũng không c̣n tướng phi pháp nữa. Thường trong nhà Phật nói pháp là đúng pháp, phi pháp là không đúng pháp, cũng như chúng ta nói pháp là phải, phi pháp là quấy, việc phi pháp là việc tà, việc sai quấy. Pháp và phi pháp, hai tướng đó không c̣n nữa. V́ cớ sao? Nếu tâm c̣n chấp tướng th́ c̣n chấp ngă, nhân, chúng sanh, thọ giả. Nếu c̣n chấp tướng pháp th́ cũng c̣n chấp tướng ngă, nhân, chúng sanh, thọ giả. Pháp là phải, nếu c̣n chấp phải th́ cũng c̣n ngă, nhân, chúng sanh, thọ giả. Thí dụ việc đó là việc phải, tôi làm việc phải hay ai làm việc phải? Hoặc tôi làm hoặc người làm? Nếu có người làm việc phải th́ người đối với ḿnh tức có nhân là có ngă, trái lại có ngă là có nhân. Thế nên chấp cái phải là thật th́ cũng có ngă, nhân, chúng sanh, thọ giả; chấp cái quấy là thật th́ cũng có ngă, nhân, chúng sanh, thọ giả. Vậy chẳng những chúng ta không chấp vào cái tướng của tâm niệm ḿnh mà cũng không nên chấp pháp phải và quấy. Có nhiều khi ḿnh không chấp các tướng mà chấp điều phải điều quấy là thật. Các tướng là không thật c̣n điều phải quấy có thật hay không? Phải quấy cũng là cái giả định của một thời thôi. Tùy theo mỗi thời đặt việc này là phải th́ chúng ta thấy nó phải, đặt việc kia là quấy th́ chúng ta thấy nó quấy, chớ đâu có ǵ là cố định. Nếu chúng ta chấp có một cái cố định, đó cũng là chấp pháp mà chấp pháp là cũng c̣n chấp ngă. Ngă và pháp không tách rời nhau được. Chấp pháp và phi pháp là chấp pháp; chấp ngă, nhân, chúng sanh, thọ giả là chấp ngă. Hai cái chấp này dứt sạch th́ mới an lành giải thoát. Thế nên trong đoạn sau, đức Phật bảo: Như ta thường nói Tỳ-kheo các ông nên biết, ta nói pháp ví dụ như chiếc bè, pháp c̣n nên bỏ huống là phi pháp.

Thí dụ như chúng ta cho những câu chuyện tầm phào ở thế gian là những lời nói bậy, là phi pháp, c̣n những lời dạy trong kinh sách là lời vàng ngọc đúng pháp. Nhưng chấp phi pháp là thật cũng bệnh, chấp pháp là thật cũng bệnh! Do đó đức Phật dạy rằng: Lời Phật nói dụ như chiếc bè giúp người qua sông. Khi chưa qua khỏi bờ mê th́ chiếc bè rất quí, khi nương chiếc bè qua đến bờ giác rồi, chiếc bè có c̣n giá trị ǵ nữa không? Trong kinh A-hàm đức Phật ví dụ ở bên này bờ sông có giặc cướp đuổi hại người, có người chạy tránh giặc cướp, muốn qua bờ sông bên kia là chỗ an lành, không tai họa. Bấy giờ họ mới chặt tám cây kết thành bè (tám cây ví dụ cho Bát chánh đạo) rồi nương chiếc bè qua được bên kia bờ sông. Khi qua đến nơi, người đó bước lên bờ, dĩ nhiên chiếc bè phải bỏ lại. Như vậy Bát chánh đạo là pháp của Phật nói mà khi đến bờ giác c̣n phải bỏ huống nữa là việc phi pháp, điều sai quấy bậy bạ. Song hiện giờ, phi pháp quí vị bỏ được chưa? Như vậy nếu nói với quí vị th́ phải nói thế nào? Phi pháp c̣n chẳng bỏ huống là pháp! Phật th́ bảo: Pháp c̣n phải bỏ huống là phi pháp. Quí vị th́ trái lại phi pháp, tức là những chuyện nói xằng nói bậy không có nghĩa ǵ, c̣n bỏ không được huống là pháp, là cái hay, làm sao bỏ nổi! Như vậy chúng ta ngược lại với Phật!

Tóm lại qua đoạn này, trước hết đức Phật lên người tu hành mà tin được các lời Phật nói trong kinh Kim Cang là đă gieo trồng căn lành sâu dầy rồi. Đoạn thứ hai đức Phật bảo rằng đúng ra người tin được kinh này th́ phải thấy rơ tất cả tướng ngă, nhân, chúng sanh, thọ giả đều không thật. Chẳng những bốn tướng không thật mà phải thấy tất cả tướng thế gian đều không thật và tất cả pháp phải và không phải cũng đều không thật. Thấy được như vậy người đó mới đúng là tin kinh này một cách chân chánh. Đây là phá chấp ngă và chấp pháp v́ ngă là giả dối th́ pháp cũng là giả dối. Nếu chúng ta biết ngă giả dối nhưng c̣n cho pháp là thật, đó cũng là bệnh. Lời Phật nói chỉ có giá trị khi chúng ta c̣n mê và khi chúng ta nhờ lời nói đó thoát khỏi mê lầm rồi th́ phải bỏ lời đó đi. Quí vị thấy chỉ có Phật mới dám nói như vậy, chớ ở thế gian chưa có ai dám nói như thế. Chúng ta thấy rơ giá trị Phật pháp là ở chỗ không để chúng ta kẹt trong một cái chấp nào. Lời Phật dạy là phương thuốc trị bệnh, bệnh lành th́ bỏ thuốc. Nghe ngôn ngữ phải biết ứng dụng để tu, chớ không nên bám vào ngôn ngữ cho đó là cứu kính, kiếp kiếp đời đời giữ hoài không bỏ th́ vô t́nh chúng ta bị kẹt.

Đến bờ th́ phải bỏ bè, nhưng nếu chưa đến bờ mà vội bỏ bè th́ đó là điều hiểm nguy. Thế nên việc quan trọng là chúng ta phải nhận đúng lẽ thật, phải biết ḿnh đang ở vị trí nào, ḿnh là người đến bờ hay là người mới sửa soạn bước xuống bè. Nếu vừa sửa soạn bước xuống bè th́ rán kiếm dây ràng bè cho chắc để nhờ nó đưa ḿnh qua sông, c̣n nếu ḿnh đă đến bờ rồi th́ chiếc bè trở thành vô nghĩa, bỏ nó không chút tiếc nuối. Người học đạo phải sáng suốt như thế, chớ đừng lầm lẫn hai vị trí đó, chưa tới bờ mà đă vội bỏ bè, hay đến bờ rồi mà c̣n giữ chiếc bè; cả hai đều là bệnh, đều lầm lẫn, hiểu vậy là chúng ta hiểu đạo.

? 

ĐOẠN 7

ÂM:

VÔ ĐẮC VÔ THUYẾT.

Tu-bồ-đề, ư ư vân hà? Như Lai đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề da? Như Lai hữu sở thuyết pháp da? Tu-bồ-đề ngôn: Như ngă giải Phật sở thuyết nghĩa, vô hữu định pháp, danh A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, diệc vô hữu định pháp Như Lai khả thuyết. Hà dĩ cố? Như Lai sở thuyết pháp, giai bất khả thủ, bất khả thuyết, phi pháp, phi phi pháp. Sở dĩ giả hà? Nhất thiết Hiền Thánh giai dĩ vô vi pháp nhi hữu sai biệt.

DỊCH:

KHÔNG ĐƯỢC, KHÔNG NÓI.

Này Tu-bồ-đề, ư ông nghĩ sao? Như Lai được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác chăng? Như Lai có nói pháp chăng? Tu-bồ-đề thưa: Như con hiểu qua nghĩa Phật nói, không có pháp nhất định tên là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cũng không có pháp nhất định Như Lai có thể nói. V́ cớ sao? V́ pháp Như Lai nói đều không thể chấp, không thể nói, chẳng phải pháp, chẳng phải phi pháp. V́ cớ sao? V́ tất cả bậc Hiền Thánh đều do pháp vô vi mà có sai biệt.

GIẢNG:

Chắc hẳn quí vị đều thắc mắc tự hỏi tại sao Phật nói kinh ḿnh học mà nói không nói, c̣n tu là cốt được đắc quả mà ở đây Phật nói không đắc là tu làm sao? Trong đoạn trước, quí vị nhớ đức Phật phá pháp và phi pháp. Phải và quấy đă phá rồi, đến đây cái chúng ta quí kính nhất là pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, tức pháp chứng quả thành Phật, pháp đó có thật hay không? Phải và quấy không thật chúng ta đồng ư rồi, c̣n pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác mà Phật chứng có thật hay không? Nhiều khi những cái tầm thường th́ thấy giả, nhưng đến cái cao quí hơn th́ thấy thật. Thí dụ như ch́, kẽm… chúng ta nói là giả, đến vàng lại thấy là thật. Nhưng nếu thấy vàng là thật th́ cũng c̣n thấy thật, v́ một cái thật th́ những cái khác cũng thật luôn, cho nên pháp và phi pháp là giả rồi nhưng đến pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nếu chúng ta thấy thật th́ cũng là bệnh. V́ thế đức Phật mới hỏi: Vậy Như Lai có được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác hay không? Và Như Lai có nói pháp hay không? Đó là hai câu hỏi Phật đặt ra để ngài Tu-bồ-đề trả lời. Ngài Tu-bồ-đề thưa: "Như chỗ hiểu của con qua nghĩa Phật nói", đây là ngài Tu-bồ-đề dè dặt, những ǵ Ngài biết th́ nói biết, những ǵ học được nơi Phật th́ nói con học của Phật. Thế nên Ngài thưa: Con biết theo nghĩa của Phật nói, chớ không phải con biết theo ư riêng của con, không có pháp nhất định tên Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cũng không có pháp nhất định Như Lai nói. Ngài trả lời dứt khoát như vậy. Tiếp theo Ngài mới giải thích lư do. V́ cớ sao? Như Lai nói pháp đều không thể chấp, không thể nói, chẳng phải pháp, chẳng phải phi pháp. V́ cớ sao? . Câu này thật là khó! Quí vị thấy khi chúng ta chấp pháp thấp th́ đức Phật phá pháp thấp không thật, đến khi pháp thấp phá rồi, chúng ta lại chấp pháp cao nên ở đây đức Phật phá luôn cả pháp cao. Thường ai tu cũng mong chứng quả thành Phật. Thành Phật rồi mới nói pháp, cũng như Phật chứng quả rồi Ngài nói pháp vậy. Như thế Ngài có chứng đắc và có nói pháp hay không?

Trong đoạn trước Phật đă dạy: Phàm có tướng đều là hư vọng, và nếu c̣n thấy có pháp thật là cũng c̣n chấp ngă, nhân, chúng sanh, thọ giả. Vậy pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác tức là pháp thành Phật có thật không? Nếu thấy pháp đó thật th́ cũng c̣n tướng ngă, tướng nhân… Tại sao? V́ nói thành Phật th́ hỏi ai thành? Ta thành phải không? Thấy có pháp thành Phật thật th́ phải có người thành Phật, đó là c̣n ngă, c̣n ngă th́ c̣n nhân, c̣n chúng sanh, thọ giả. Nếu thế Phật là phàm phu mất rồi! Cho là Phật có nói pháp thật cũng không được, v́ phàm những ǵ nói ra đều là tướng hư giả.

Như vậy Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác hay nói gọn là Phật, là đối với chúng sanh. Chúng sanh là mê nên Phật là giác, giác đối với mê, hết mê rồi c̣n nói giác làm ǵ. Giác là đối đăi với mê, mê không thật th́ giác cũng không thật; và nếu mê giác đều không thật th́ có thành Phật hay không? Nếu không c̣n thấy có mê thật, giác thật th́ tâm không c̣n chấp hai bên mà tâm không chấp hai bên, đó là như như, đó là Phật pháp thân hiện, không thấy được thành Phật mà đă thành Phật. Hiện giờ chúng ta mơ ước thành Phật mà không thành Phật được, v́ mơ ước là vọng tưởng, mà vọng tưởng c̣n th́ Phật pháp thân đâu có hiện, thế nên cầu mà không được. Trái lại, không thấy có pháp để cầu thành Phật, nên tâm thể lặng lẽ không c̣n hai bên mê giác đối đăi, do đó tâm hoàn toàn thanh tịnh, tâm thể thanh tịnh tức là pháp thân Phật, là Như Lai. Không được mà được, đó là điều không thể nói cho thế gian hiểu, v́ thế gian nói hoặc là được, hoặc là không, chớ không bao giờ nói không được mà được. Nhưng ở đây không đắc mà đắc, không chứng mà chứng, đó mới là khó khăn, bởi v́ nếu thấy chứng đắc là c̣n có ngă tức là có pháp. Nếu phá được ngă pháp rồi th́ đâu c̣n nói chứng nói đắc, mà không chứng đắc th́ đó là Phật. Nhưng hễ nói Phật tức là có chứng có đắc rồi. V́ vậy Phật pháp vượt ngôn ngữ của thế gian. Ngôn ngữ thế gian luôn rơi vào hai bên hoặc được, hoặc mất, hoặc có, hoặc không. Ở đây phá hết những chấp ngă và pháp, khi ngă và pháp hết rồi th́ đó là Phật. Nếu c̣n thấy có pháp để đắc là c̣n pháp, c̣n thấy ḿnh chứng là c̣n ngă th́ đâu phải là Phật, ngă pháp c̣n làm sao gọi là Phật được. Dẹp hết ngă pháp đó là Phật mà không có chứng, có đắc, đó mới thật là lạ. Cho nên không chứng mà chứng, không đắc mà đắc, chớ không phải một bề nói không đắc là không đắc. Như trong kinh Bát-nhă quí vị đọc "vô đắc v. v…" đừng nói như vậy là không ngơ; có nhiều người nói Bát-nhă nói cái ǵ cũng không, tất cả đều không. Không phải thế, khi không c̣n những chấp ngă pháp th́ pháp thân mới hiện tiền. Cũng như tôi đă nói không dính vào tất cả th́ tâm mới an trụ, an trụ đó mới là an trụ thật. Ở đây cũng vậy, nếu tâm niệm c̣n dính c̣n chấp th́ tâm niệm đó là tâm niệm cuồng loạn, là tướng sanh diệt. Không c̣n dính chấp vào cái hư giả đó mới là vô sanh, mới là chân thật, cho nên thật tướng là vô tướng, cái chỗ không tướng là tướng chân thật. Thật rất lạ, v́ vậy người học Phật nếu không tu th́ không bao giờ hiểu nổi, ḿnh có tu rồi khi hết vọng tưởng th́ thấy cái chân thật hiện tiền, c̣n nếu không tu th́ nghe rất lạ, ngôn từ quá khó hiểu. Thế nên ngài Tu-bồ-đề mới nói rằng: Không có pháp cố định tên A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, cũng không có pháp cố định để Phật nói. V́ cớ sao? V́ Như Lai nói pháp đều không nên chấp, cả pháp và phi pháp cũng đều không chấp, v́ không chấp nên nói tất cả Hiền Thánh đều do pháp vô vi mà có sai biệt.

Thế nào là Hiền Thánh? Thí dụ như trong tứ quả Thanh văn: Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán th́ ba quả vị đầu c̣n ở bậc Hiền. Tại sao? V́ ba quả vị này c̣n ở trong ṿng sanh. Tu-đà-hoàn c̣n bảy phen sanh, Tư-đà-hàm c̣n một phen sanh, A-na-hàm th́ sanh trong cơi trời. Đến A-la-hán mới hoàn toàn vô sanh, mới là vô lậu hoàn toàn nên gọi là Thánh. Đối với hàng Bồ-tát th́ từ Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng là bậc Hiền, từ Sơ địa trở lên đến Thập địa mới gọi là Thánh. Như vậy các bậc Hiền Thánh sai biệt nhau tại điểm nào? Chính tại pháp vô vi, tức là do cái pháp thân bất sanh bất diệt đó. Người sống được với nó viên măn là Thánh, người sống được một phần nhỏ là Hiền bậc thấp, người sống được một phần lớn hơn, là bậc Hiền cao hơn. Như thế chúng ta thấy do pháp vô vi, bất sanh bất diệt mà có chư Hiền Thánh sai biệt, chớ không phải căn cứ trên quyền lực ǵ ở bên ngoài. Cũng như hiện giờ quí vị tu, có người mới tu ngồi trong một giờ đồng hồ, có thể có một trăm lần vọng tưởng, có người tu khá hơn, ngồi trong một giờ chỉ c̣n tám mươi lần vọng tưởng, đối với phàm phu người đó khá hơn, nếu người nào ngồi trong một giờ mà chỉ có hai mươi lần vọng tưởng th́ đó là khá lắm. Đến khi trong một giờ mà không có một vọng tưởng nào, đó là đă bước vào địa vị Hiền rồi. Song suốt một ngày một đêm đến hai mươi bốn giờ mà chỉ được một giờ không vọng tưởng, đó mới được một phần nhỏ xíu trong thời gian một ngày một đêm; nếu chúng ta thêm hai giờ rồi đến bốn giờ không vọng tưởng… th́ chỗ không vọng tưởng đó là pháp vô vi bất sanh bất diệt. Nếu chúng ta được một ngày không vọng tưởng, sánh với người được mười ngày không vọng tưởng th́ người được mười ngày đó tiến bộ hơn ḿnh, ḿnh được một năm không vọng tưởng mà người được mười năm không vọng tưởng th́ người đó cao hơn ḿnh. V́ vậy khi nói cao thấp là căn cứ trên pháp vô vi ḿnh sống được trọn vẹn hay được từng phần.

Thập tín là mới tin được ḿnh có cái bất sanh bất diệt thôi, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng là mới được lóe thấy, đến Thập địa mới được từng phần rơ ràng. Thế nên nói sai biệt nhau là căn cứ trên pháp vô vi, chớ không phải căn cứ trên cái ǵ bên ngoài, không phải vị Thầy thọ kư cho người này chứng cái ǵ, người kia chứng cái ǵ v. v… Mà chính trên pháp vô vi bất sanh bất diệt, ai sống được với cái đó nhiều là cao, ai sống được với cái đó ít là thấp. C̣n chưa sống được với cái đó là phàm phu. Hiểu như vậy, chúng ta thấy người tu sở dĩ khác hơn người thế gian là ở chỗ đó. Quí vị thử kiểm lại nếu ḿnh biết tu chút ít th́ có khác hơn người thế gian không? Người thế gian cứ tha hồ nghĩ, cả đến khi ngủ, nằm xuống cũng chưa chịu ngủ, vẫn nghĩ hết chuyện này đến việc kia, chừng nào ngủ quên mới thôi. C̣n chúng ta vừa khởi nghĩ là đă rầy nó rồi. Đấy là chỗ khác nhau. Ḿnh rầy lần lần nó cũng giảm bớt, đến bao giờ ḿnh vừa nh́n nó liền mất như trâu thuần thục, rồi từ từ cho đến hết nghĩ, lúc đó ḿnh mới sống với cái chân thật. Sự thật cái nghĩ không phải là ḿnh. Khi không nghĩ ḿnh vẫn hiện tiền chớ không có mất, nếu cái nghĩ là ḿnh th́ hết nghĩ ḿnh mất phải không? Không phải, hết nghĩ ḿnh vẫn hiện tiền, ḿnh vẫn sờ sờ, tai vẫn nghe, mắt vẫn thấy. Thế nên khi nào hết nghĩ th́ lúc đó pháp vô vi hiện tiền. Pháp vô vi c̣n gọi là pháp thân hay là chân tâm. Sở dĩ chúng ta sai biệt nhau trên phương diện tu hành là sai biệt ở điểm đó, chớ đừng tính năm tu, như tôi tu mười năm, người kia tu bảy năm, vậy người đó thua tôi ba năm hay là người khác mới tu hai năm, thua tôi đến tám năm v. v… Ngay nơi pháp vô vi đó, chúng ta được sâu hoặc được cạn mới là khác nhau.

? 

ĐOẠN 8

ÂM:

Y PHÁP XUẤT SANH.

- Tu-bồ-đề, ư ư vân hà? Nhược nhân măn tam thiên đại thiên thế giới thất bảo, dĩ dụng bố thí, thị nhân sở đắc phước đức, ninh vi đa phủ?

Tu-bồ-đề ngôn: Thậm đa, Thế Tôn! Hà dĩ cố? Thị phước đức tức phi phước đức tánh, thị cố Như Lai thuyết phước đức đa.

- Nhược phục hữu nhân ư thử kinh trung thọ tŕ năi chí tứ cú kệ đẳng, vị tha nhân thuyết, kỳ phướùc thắng bỉ. Hà dĩ cố? Tu-bồ- đề, nhất thiết chư Phật cập chư Phật A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề pháp, giai tùng thử kinh xuất. Tu-bồ-đề, sở vị Phật pháp giả tức phi Phật pháp.

DỊCH:

Y NƠI CHÁNH PHÁP MÀ SANH RA TẤT CẢ QUẢ VỊ.

- Này Tu-bồ-đề, ư ông nghĩ sao? Nếu có người dùng bảy báu đầy cả tam thiên đại thiên thế giới để bố thí, người ấy được phước đức thật nhiều chăng?

Tu-bồ-đề thưa: Bạch Thế Tôn rất nhiều! V́ cớ sao? V́ phước đức ấy tức chẳng phải là tánh phước đức, thế nên Như Lai nói phước đức nhiều.

- Nếu lại có người ở trong kinh này, thọ tŕ cho đến bốn câu kệ v. v… v́ người khác giảng nói th́ phước đức này c̣n hơn phước đức của người kia. V́ cớ sao? Này Tu-bồ-đề, tất cả chư Phật và pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của chư Phật đều từ nơi kinh này ra. Này Tu-bồ-đề, nói là Phật pháp đó tức chẳng phải Phật pháp.

GIẢNG:

Quí vị nghe giải nghĩa đoạn này có dễ hiểu không? Đức Phật nói rằng: Giả sử có người đem bảy báu (vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mă năo) đầy dẫy cả tam thiên đại thiên thế giới ra bố thí. Tam thiên đại thiên thế giới quá rộng đối với chúng ta, giả sử đem bảy báu đầy dẫy cả thế giới của chúng ta ra bố thí th́ quí vị nghĩ phước nhiều ít? Thật t́nh là phước rất nhiều. Cho nên ngài Tu-bồ-đề thưa: Bạch Thế Tôn phước rất nhiều. Nhưng khi nói phước rất nhiều ngài Tu-bồ-đề sợ chúng ta hiểu lầm Ngài thấy phước đức là một việc có thật cho nên Ngài nói: Phước đức ấy không phải tánh phước đức thế nên nói là phước đức nhiều. Bởi v́ theo tinh thần kinh Kim Cang lúc nào đức Phật cũng chỉ cho chúng ta thấy rằng tất cả pháp ở thế gian, từ những h́nh tướng đến tâm tưởng danh ngôn đều là pháp nhân duyên, mà đă là nhân duyên ḥa hợp th́ không có tự tánh, tức là chúng không có cái tánh thật. Quí vị nhớ phàm những ǵ do nhân duyên ḥa hợp th́ tự bản tánh nó không có thật, nếu có thật th́ đâu do duyên ḥa hợp. Đă là ḥa hợp th́ ngay bản tánh nó không thật, phải do cái này cái kia hợp lại thành, nếu có cái thật th́ không đợi duyên hợp. Thế nên ngài Tu-bồ-đề sợ chúng ta hiểu lầm là phước đức có tự tánh thật nên Ngài nói tiếp: Phước đức ấy tức không phải tánh phước đức nên nói phước đức nhiều. Nó không có tánh cố định v́ vậy mà nói nhiều. Nói nhiều là một lối nói tùy theo tâm niệm, tùy theo sở chấp của chúng sanh, chớ không phải nó có tánh thật. Đức Phật đưa thí dụ trước, tiếp theo Ngài mới so sánh với pháp. Nếu có người đem bảy báu, chúng ta chỉ nói một thứ báu tầm thường là vàng thôi, giả sử có người đem vàng đầy chùa này ra bố thí, quí vị nghĩ phước đức nhiều ít? Mấy mươi kiếp ḿnh làm chưa đủ vàng chứa đầy chùa này, nếu đem bao nhiêu đó ra bố thí th́ phước cũng quá nhiều rồi, huống nữa là đầy dẫy cả quả địa cầu. Song thử hỏi chừng bao nhiêu kiếp chúng ta làm được số vàng đầy dẫy cả quả địa cầu? Một đời ḿnh, nếu may mắn làm đâu được đó th́ cũng chỉ có thể làm được chừng vài trăm lượng, tức khoảng chừng một giỏ xách. Làm đâu được đó trong một đời mà chỉ được chừng một giỏ xách th́ bao nhiêu đời mới được một làng, rồi bao nhiêu đời mới đầy cả một nước, bao nhiêu đời mới đầy được cả thế giới? Nếu tính số vàng đầy cả tam thiên đại thiên thế giới th́ ít ra phải cả triệu triệu kiếp mới có thể có được. Cả triệu triệu kiếp khổ công nhọc nhằn mà gom lại đem bố thí hết th́ chúng ta tưởng tượng phước đức nhiều ít? Không thể tính nổi. Bấy giờ đức Phật mới so sánh: Nếu có người ở trong kinh này thọ tŕ cho đến bốn câu kệ v. v…, v́ người khác nói th́ phước của người thọ tŕ bốn câu kệ này c̣n hơn phước của người bố thí bảy báu kia. Quí vị tin nổi không? Đó là điều thật hy hữu, thật khó tin mà tin được là chuyện phi thường. Vậy mà tôi tin, chuyện khó tin mà tin được mới là lạ. Như tôi thường ví dụ mỗi sáng chúng ta thấy những hạt sương đọng ở đuôi những lá cây, khi mặt trời lên những hạt sương đó lóng lánh giống như những hạt kim cương, những hạt kim cương đem ra ngoài ánh nắng cũng lóng lánh như thế. Nhưng có người được hạt kim cương chừng bằng ngón tay cái, có người nói: À hạt kim cương của chị lóng lánh như những hạt sương trên lá cây, chúng tôi xin đổi hạt kim cương này bằng một triệu hạt sương lóng lánh đó. Thử hỏi quí vị chịu không? Không chịu. Mười triệu hạt sương, một tỷ triệu hạt sương được không? Vẫn không đồng ư. Khắp cả thế giới có bao nhiêu hạt sương tôi hốt hết đem đổi hạt kim cương, quí vị đồng ư không? Dĩ nhiên là không. Tại sao? Bởi kim cương là thật, hạt sương là giả, bởi giả cho nên bao nhiêu cũng không đổi được cái thật.

Trên nhân gian này, khi người ta quan niệm vàng là quí th́ vàng là quí, nếu người ta cho rằng vàng không quí th́ vàng hết quí. Như vậy cái quí đó chỉ là do quan niệm của con người, chớ không phải nó thật quí. Nó là cái giả tạm do con người đặt ra.

Tŕ đây đừng hiểu là đọc. Thí dụ như cứ đọc: Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai, đọc măi như vậy có phải là tŕ chưa? Đừng hiểu chữ tŕ theo nghĩa quá tầm thường đó. Tŕ là thọ tŕ, thọ là nhận, tŕ là giữ. Chúng ta nhận hiểu được kinh Kim Cang và sống được với nó gọi là tŕ; thọ tŕ là sống được với trí tuệ Bát-nhă, mà trí tuệ Bát-nhă là cái chân thật muôn đời muôn kiếp không bao giờ hoại. Song đối với đức Phật, Ngài thấy nó thật, c̣n đối với chúng ta, v́ chưa thấy nên khó hiểu, khó tin. Như vậy trí tuệ Bát-nhă là cái thật, tất cả vàng bạc của báu thế gian là cái giả, vậy phải đem bao nhiêu cái giả để chúng ta đồng ư đổi một cái thật? Cũng như phải đem bao nhiêu hạt sương lóng lánh để chúng ta nhận đổi một hạt kim cương? Chắc chắn không bao giờ chúng ta đồng ư. Cái giả dù nhiều thế mấy cũng không b́ được một cái thật. Cho nên khi nào chúng ta ngộ được thể Kim Cang Bát-nhă, chúng ta mới thấy rằng tất cả thế gian không cái ǵ b́ được với nó cả. V́ thế đức Phật bảo: Dù đem bao nhiêu của báu thế gian bố thí, công đức cũng không bằng tŕ bốn câu Kim Cang. Thọ tŕ nghĩa là sống được với cái chân thật đó th́ muôn triệu cái giả cũng không b́ kịp. Lại v́ người khác nói, chỉ cho người biết và sống được th́ đó là phước đức không có ǵ b́ kịp.

Kế đến, đức Phật bảo: Này Tu-bồ-đề, tất cả chư Phật và pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của chư Phật đều từ kinh này mà ra. Câu này quí vị làm sao hiểu? Như vậy sẽ có người hỏi: Phật nói kinh Kim Cang mà tại sao kinh Kim Cang lại nói rằng chư Phật đều từ kinh này ra? Vậy kinh này sanh ra Phật hay Phật sanh ra kinh này? Do đó có một nghi vấn là: Kinh có trước hay Phật có trước? Nếu kinh này sanh ra chư Phật th́ kinh có trước. Nhưng mà ai nói kinh? Phật nói kinh là Phật có trước. Tại sao nói chư Phật và pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của chư Phật đều từ kinh này ra? Như thế tức là kinh này có trước. Nếu chúng ta hiểu kinh này theo nghĩa văn tự th́ không bao giờ hiểu nổi. Có một vị hỏi một thiền sư: Pháp có trước hay Phật có trước? Thiền sư trả lời: Nói th́ Phật trước pháp sau, nghe th́ pháp trước Phật sau. Câu trả lời đó quí vị hiểu không? Nói th́ Phật trước pháp sau, tại sao? Bởi v́ nói th́ đức Phật ngộ đạo rồi Ngài mới nói được kinh, tức là Phật trước pháp sau. C̣n nghe th́ pháp trước Phật sau, quí vị là người chưa ngộ cho nên nghe kinh rồi mới ngộ, sau mới thành Phật, vậy là pháp trước Phật sau.

Ở đây nói kinh này là mẹ tất cả chư Phật và cả pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Trí tuệ Kim Cang Bát-nhă là trí tuệ bất sanh bất diệt. Trí tuệ đó ai cũng sẵn có, nếu quên nó là chúng sanh, ngộ được nó th́ thành Phật. Nhân ngộ trí tuệ đó mà thành Phật th́ chính trí tuệ đó sanh ra Phật, nhân trí tuệ đó diễn đạt cho người ta hiểu, là pháp. Như vậy là từ trí tuệ đó sanh ra pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Thế nên nói "Kinh này" không có nghĩa đơn giản là bao nhiêu chữ, bao nhiêu tờ mà là chỉ thẳng trí tuệ Bát-nhă chân thật. V́ kinh này nói về trí tuệ Bát-nhă chân thật nên trí tuệ đó tức là kinh này. Hiểu như thế mới gọi là hiểu. Tŕ bốn câu kệ của kinh này là tŕ ngay tinh thần của kinh chớ không phải tŕ văn tự của kinh. Có nhiều người nói kinh này phước lớn quá, nên ngày nào cũng đọc bốn câu kệ rồi tự hào rằng tôi có phước đức vô lượng vô biên, như vậy đúng chưa? Đó là chúng ta chấp tướng chớ chưa đúng được tinh thần công đức. Thế nên ở đây nói kinh này để chỉ cho trí tuệ Bát-nhă bất sanh bất diệt, là mẹ của chư Phật, là mẹ của tất cả kinh.

Đức Phật lại bảo ngài Tu-bồ-đề: Nói Phật pháp tức không phải Phật pháp. V́ chúng ta nghe nói Phật pháp rồi chấp thật Phật pháp, nên Phật liền bác không phải Phật pháp. Tại sao? Vừa có ngôn từ Phật pháp th́ ngôn từ đó cũng là tướng duyên hợp. Thể của danh từ Phật pháp là không thật, nhưng tùy theo chúng sanh mê, gọi đó là Phật pháp để cảnh tỉnh họ. Bản chất của Phật pháp không thật nên nói không phải Phật pháp, v́ tùy chúng sanh nên gọi là Phật pháp.

? 

ĐOẠN 9

ÂM:

NHẤT TƯỚNG VÔ TƯỚNG.

- Tu-bồ-đề, ư ư vân hà? Tu-đà-hoàn năng tác thị niệm ngă đắc Tu-đà-hoàn quả phủ? Tu-bồ-đề ngôn: Phất dă Thế Tôn! Hà dĩ cố? Tu-đà-hoàn danh vi Nhập lưu nhi vô sở nhập, bất nhập sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, thị danh Tu-đà-hoàn.

- Tu-bồ-đề, ư ư vân hà? Tư-đà-hàm năng tác thị niệm: Ngă đắc Tư-đà-hàm quả phủ? Tu-bồ-đề ngôn: Phất dă Thế Tôn! Hà dĩ cố? Tư-đà-hàm danh Nhất văng lai nhi thật vô văng lai, thị danh Tư-đà-hàm.

- Tu-bồ-đề, ư ư vân hà? A-na-hàm năng tác thị niệm: Ngă đắc A-na-hàm quả phủ? Tu-bồ-đề ngôn: Phất dă Thế Tôn! Hà dĩ cố? A-na-hàm danh vi Bất lai, nhi thật vô bất lai, thị cố danh A-na-hàm.

- Tu-bồ-đề, ư ư vân hà? A-la-hán năng tác thị niệm: Ngă đắc A-la-hán đạo phủ? Tu-bồ-đề ngôn: Phất dă Thế Tôn! Hà dĩ cố? Thật vô hữu pháp danh A-la-hán. Thế Tôn! Nhược A-la-hán tác thị niệm: Ngă đắc A-la-hán đạo, tức vi trước ngă, nhân, chúng sanh, thọ giả. Thế Tôn! Phật thuyết ngă đắc Vô tránh tam-muội, nhân trung tối vi đệ nhất, thị đệ nhất ly dục A-la-hán. Thế Tôn! Ngă bất tác thị niệm: Ngă thị ly dục A-la-hán. Thế Tôn! Ngă nhược tác thị niệm: Ngă đắc A-la-hán đạo, Thế Tôn tắc bất thuyết Tu-bồ-đề thị nhạo A-lan-na hạnh giả. Dĩ Tu-bồ-đề thật vô sở hành, nhi danh Tu-bồ-đề thị nhạo A-lan-na hạnh.

DỊCH:

MỘT TƯỚNG KHÔNG TƯỚNG.

- Này Tu-bồ-đề, ư ông nghĩ sao? Tu-đà-hoàn hay khởi nghĩ thế này: Ta được quả Tu-đà-hoàn chăng? Tu-bồ-đề thưa: Bạch Thế Tôn, không vậy! V́ cớ sao? Tu-đà-hoàn gọi là Nhập lưu mà không có chỗ nhập, chẳng nhập sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, ấy gọi là Tu-đà-hoàn.

- Tu-bồ-đề, ư ông nghĩ sao? Tư-đà-hàm hay khởi nghĩ thế này: Ta được quả Tư-đà-hàm chăng? Tu-bồ-đề thưa: Bạch Thế Tôn, không vậy! V́ cớ sao? V́ Tư-đà-hàm tên là Nhất văng lai mà thật không có văng lai, ấy gọi là Tư-đà-hàm.

- Tu-bồ-đề, ư ông nghĩ sao? A-na-hàm hay khởi nghĩ thế này: Ta được quả A-na-hàm chăng? Tu-bồ-đề thưa: Bạch Thế Tôn, không vậy! V́ cớ sao? A-na-hàm tên là Bất lai mà thật không có bất lai, thế nên tên A-na-hàm.

- Tu-bồ-đề, ư ông nghĩ sao? A-la-hán hay khởi nghĩ thế này: Ta được đạo A-la-hán chăng? Tu-bồ-đề thưa: Bạch Thế Tôn, không vậy! V́ cớ sao? Thật không có pháp tên là A-la-hán. Bạch Thế Tôn nếu A-la-hán khởi nghĩ thế này: Ta được đạo A-la-hán tức là c̣n chấp ngă nhân chúng sanh thọ giả. Bạch Thế Tôn! Phật nói con được Vô tránh tam-muội là bậc đệ nhất trong số người đó, là A-la-hán ly dục đệ nhất. Bạch Thế Tôn! Con không khởi nghĩ con là ly dục A-la-hán. Bạch Thế Tôn! Nếu con khởi nghĩ: Con được đạo A-la-hán, Thế Tôn ắt chẳng nói Tu-bồ-đề là người ưa hạnh A-lan-na. Do Tu-bồ-đề thật không có sở hành nên gọi là Tu-bồ-đề ưa hạnh A-lan-na.

GIẢNG:

Trước nói về bốn quả Thanh văn, đó là Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán. Người tu Phật, tu theo Thanh văn thừa, chúng ta thường gọi là Tiểu thừa, th́ chứng bốn quả, quả thứ nhất là Tu-đà-hoàn, quả thứ hai là Tư-đà-hàm, quả thứ ba là A-na-hàm, quả thứ tư là A-la-hán.

Quả thứ nhất là Tu-đà-hoàn, Trung Hoa dịch ra hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất là Thất lai. Thất là bảy, lai là trở lại. Tu-đà-hoàn là những vị có chứng quả nhưng vẫn c̣n trở lại trần gian bảy phen nữa mới chứng A-la-hán, mới không c̣n sanh tử. Nghĩa thứ hai là Nhập lưu, nhập là vào, lưu là ḍng, nghĩa là vào được ḍng Thánh. Người tu chứng quả Tu-đà-hoàn, tuy c̣n sanh tử song nhất định không lui sụt, từ đó tiến vào ḍng Thánh đến trọn vẹn thành A-la-hán. Thế nên cố định là bảy phen trở lại rồi chứng A-la-hán, trong bảy phen đó dầu ai làm ǵ cũng không lui sụt cho nên gọi là vào ḍng Thánh.

Quả thứ hai là Tư-đà-hàm, Trung Hoa dịch là Nhất lai. Nhất là một, lai là lại. Những vị này chỉ c̣n một phen trở lại nhân gian rồi chứng quả A-la- hán nên gọi là Nhất lai.

Quả thứ ba là A-na-hàm, Trung Hoa dịch là Bất lai. Bất là chẳng, lai là lại. Những vị chứng A-na-hàm chỉ c̣n một phen sanh lên cơi Ngũ A-na-hàm Thiên, lên cơi trời đó rồi chứng A-la-hán, nhập Niết-bàn chớ không trở lại trần gian nữa nên gọi là Bấât lai.

Đến quả thứ tư là A-la-hán. A-la-hán dịch nghĩa là Vô sanh. Vị này không c̣n sanh tử nữa, đó là viên măn trong bốn quả Thanh văn.

Đây là kinh Đại thừa, vậy tại sao đức Phật lại lấy bốn quả Thanh văn để đối chiếu? Đó là ư nói rằng dù cho trong bốn quả Thanh văn nhưng tinh thần Đại thừa vẫn hợp, vẫn không khác. Tu-đà-hoàn không khởi nghĩ: Ta được quả Tu-đà-hoàn, nếu khởi nghĩ có quả Tu-đà-hoàn th́ không gọi là Tu-đà-hoàn nữa. Tại sao Tu-đà-hoàn gọi là Nhập lưu mà thật không có sở nhập, tức là không có chỗ nhập? Không chỗ nhập nghĩa là sao? Tức là không kẹt vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Như Lục tổ không dính vào sáu trần nên Ngài thấy được chỗ ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm. Ngài ngộ đạo tức là ngài Nhập lưu rồi. V́ vậy nên Ngài thốt lên: À, ḿnh có một cái mà từ trước đến nay chưa từng thấy, đầy đủ, thanh tịnh, chưa từng sanh diệt v. v… Đó là Nhập lưu mà thật không có chỗ nào để nhập, thấy rơ không dính với sáu trần mà hiện có cái chân thật, đó gọi là Tu-đà-hoàn, là bước vào ḍng Thánh.

Đến quả Tư-đà-hàm, cũng gọi là Nhất lai. Nhất lai mà thật không có văng lai. Đến quả này là c̣n một phen qua lại, nghĩa là c̣n sanh ra trên thế gian một lần nữa, như vậy tức có đến, có đi, nhưng sự thật ở đây không có đến có đi mới gọi là Tư-đà-hàm. Tại sao? V́ trên chỗ chân thật bất sanh bất diệt không có đến có đi, c̣n thấy có đến có đi là chưa nhập được trong đó. Thế nên nói rằng nếu c̣n thấy có đến có đi th́ chưa phải là Tư-đà-hàm. Thật không có đến, đi tức là an trụ, không c̣n qua lại nữa, đó mới là Tư-đà-hàm.

A-na-hàm tức là Bất lai, những vị này cũng không khởi nghĩ ta được quả A-na-hàm. Tại sao? A-na-hàm là chẳng lại, song thật không có cái chẳng lại. Có đi mới nói có lại, mà Như Lai là vô sở tùng lai diệc vô sở khứ cố danh Như Lai, nghĩa là Như Lai không từ đâu đến cũng không đi đâu nên gọi là Như Lai. Ở đây tuy nói bốn quả Thanh văn nhưng sự thật đều nhằm chỉ cái thể chân thật Như Lai. Trên cái thể chân thật Như Lai đó, người nào c̣n khởi niệm chấp th́ không thể đạt được. Thế nên Tu-đà-hoàn do buông xả sáu trần mới nhập được thể Như Lai đó, đến Tư-đà-hàm do an trụ được trong đó, không văng lai, đến đây đă an trụ rồi th́ đâu c̣n qua lại, nếu c̣n qua lại th́ chưa phải an trụ; đến quả A-na-hàm nói là Bất lai mà sự thật không phải Bất lai, ấy mới gọi là A-na-hàm.

Đến quả cuối cùng là A-la-hán. A-la-hán có khởi nghĩ ḿnh chứng A-la-hán không? Ngài Tu-bồ-đề nói không. V́ cớ sao? V́ thật không có pháp tên A-la-hán… Tại sao? Trong kinh thường nói đến A-la-hán mà ở đây nói không có pháp tên A-la-hán? Chúng ta mượn việc thế gian để hiểu qua nghĩa Phật pháp. Như hiện giờ quí vị mỗi người được mang một cái tên, song người biết tên quí vị là thật biết quí vị chưa? Như có người tên là Bạch Mai nghĩa là mai trắng, khi người khác nghe tên Bạch Mai th́ có ấn tượng cô ấy chắc trắng lắm, không ngờ người tên Bạch Mai lại đen. Vậy quí vị nghĩ thế nào? Tên chưa hẳn thật là người phải không? Chẳng qua là giả danh do cha mẹ hoặc Thầy Tổ đặt cho, thế nên nghe tên, biết tên chưa phải là biết người, gặp người, thấy được người mới gọi là biết người. Tên chỉ là giả danh bên ngoài, đâu phải là bản chất của người đó. Trong Phật pháp cũng vậy, A-la-hán là chỉ cho cái bất sanh bất diệt, ngộ được cái bất sanh bất diệt gọi là A-la-hán, hay sống được với cái bất sanh bất diệt đó là A-la-hán. Như vậy, A-la-hán là một cái tên chỉ người sống được với cái đó, tên chưa phải là bản chất bất sanh bất diệt, v́ vậy nói thật không có pháp tên A-la-hán. Tên A-la-hán chỉ là giả danh c̣n cái bất sanh bất diệt đó không có tên. V́ thế ngài Tu-bồ-đề mới nói: Bạch Thế Tôn, nếu A-la-hán khởi nghĩ ta được đạo A-la-hán tức là chấâp ngă nhân chúng sanh thọ giả. Quí vị thấy câu này làm sáng nghĩa trên vô cùng, bởi v́ A-la-hán nếu khởi nghĩ ta được đạo A-la-hán là c̣n có ngă, nhân, chúng sanh, thọ giả. Tại sao? Ta được đạo th́ đạo A-la-hán là cái bị được và ta là người hay được, như vậy tức nhiên là có ngă, mà có ngă th́ có nhân, có chúng sanh có thọ giả không nghi ngờ ǵ nữa. Thế nên đến chỗ đó Phật không thấy ḿnh là người hay được, không thấy ḿnh là người hay được mới là cái được chân thật. Đến chỗ đó, nhập vào đó mà không có niệm, không niệm th́ nói ǵ ḿnh được.

Quí vị thử ngồi thiền, bao giờ được yên tịnh chừng năm phút thôi, trong năm phút yên tịnh đó quí vị thấy có cái ngă nào dấy lên không? Có nghĩ được không? Vừa dấy niệm được là đă mất cái an tịnh vô sanh rồi. Vừa dấy niệm được là mất liền, đó là chỗ không dấy niệm, nếu nói ḿnh được là đă dấy niệm tức mất quả A-la-hán. Chỗ đó thật là tế nhị. V́ vậy đến đây ngài Tu-bồ-đề nói thêm: Bạch Thế Tôn, Phật nói con được Vô tránh tam-muội, trong số người đó con là bậc nhất. Vô tránh tam-muội là cái chánh định không c̣n tranh luận. Chúng ta hiện nay, ngồi lại th́ luôn luôn tranh luận, tranh luận với người này, người kia… Thí dụ như buổi tối quí vị ngồi niệm Phật, hoặc tọa thiền, lúc đó quí vị có nói chuyện với ai không? Ngồi xuống là chúng ta bắt đầu lư luận với người này, tranh luận với người kia, sắp đặt việc nọ… Khi ngồi đó coi như là ngồi thiền, thiền là định mà sự thật cứ tranh luận măi. Khi nào ngồi mà không c̣n tranh luận nữa gọi là "Vô tránh tam-muội", nghĩa là được cái chánh định không c̣n tranh luận. Không c̣n tranh luận tức là thanh tịnh lặng lẽ.

Ngài Tu-bồ-đề muốn chỉ rằng A-la-hán không khởi nghĩ ḿnh được đạo A-la-hán. Ngài lấy ḿnh làm bằng chứng. Ngài nói: Thế Tôn khen con ở trong số người tu về chánh định không c̣n dấy động đó, con là bậc nhất. Nếu con khởi nghĩ con là người ĺa dục được A-la-hán, ắt Thế Tôn không nói con là người ưa hạnh A-lan-na. A-lan-na cũng gọi là A-lan-nhă, tức là hạnh tịch tĩnh. Tịch là yên, tĩnh là lặng, chỗ rất là yên lặng tức là chỗ không c̣n dấy động, không c̣n sanh diệt. Tại sao? V́ vừa khởi nghĩ là đă động rồi, đă động th́ đâu c̣n ưa hạnh tịch tĩnh nữa. Ngài Tu-bồ-đề nói tiếp: Do Tu-bồ-đề thật không có sở hành nên gọi là Tu-bồ-đề ưa hạnh A-lan-na. Không có sở hành tức là không có chỗ dấy động, nên mới thật là người ưa hạnh tịch tĩnh.

Như vậy rơ ràng trong đoạn này đức Phật chỉ một tướng là không tướng. Một tướng tức là một tướng chân thật vô sanh, nó không có tướng mạo. Vừa có tướng mạo hoặc là thấy ḿnh Nhập lưu cũng chưa phải là Tu-đà-hoàn, thấy ḿnh Văng lai cũng chưa phải là Tư-đà-hàm, c̣n thấy ḿnh Bất lai cũng chưa phải là A-na-hàm, c̣n thấy ḿnh được đạo A-la-hán cũng chưa phải là A-la-hán. Như vậy chỗ chân thật đó không có tướng mạo, vừa dấy bất cứ một niệm nào về tướng mạo đều là sai, chưa vào được chỗ đó, dù cho A-la-hán là quả cứu kính của Thanh văn nhưng thật ra cũng phải đến chỗ đó mới gọi là A-la-hán.

? 

ĐOẠN 10

ÂM:

TRANG NGHIÊM TỊNH ĐỘ.

Phật cáo Tu-bồ-đề: Ư ư vân hà? Như Lai tích tại Nhiên Đăng Phật sở ư pháp hữu sở đắc phủ?

- Phất dă Thế Tôn! Như Lai tại Nhiên Đăng Phật sở, ư pháp thật vô sở đắc.

- Tu-bồ-đề, ư ư vân hà? Bồ-tát trang nghiêm Phật độ phủ?

- Phất dă Thế Tôn! Hà dĩ cố? Trang nghiêm Phật độ giả, tức phi trang nghiêm, thị danh trang nghiêm.

- Thị cố Tu-bồ-đề, chư Bồ-tát Ma-ha tát ưng như thị sanh thanh tịnh tâm, bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm. Tu-bồ-đề, thí như hữu nhân, thân như Tu-di sơn vương, ư ư vân hà? Thị thân vi đại phủ? Tu-bồ-đề ngôn: Thậm đại, Thế Tôn! Hà dĩ cố? Phật thuyết phi thân, thị danh đại thân.

DỊCH:

TRANG NGHIÊM TỊNH ĐỘ.

Phật hỏi Tu-bồ-đề: Ư ông nghĩ sao? Như Lai thuở xưa ở chỗ đức Phật Nhiên Đăng, đối với pháp, có sở đắc chăng?

- Bạch Thế Tôn, không vậy! Như Lai ở nơi đức Phật Nhiên Đăng, đối với pháp, thật không có sở đắc.

- Tu-bồ-đề, ư ông nghĩ sao? Bồ-tát trang nghiêm cơi Phật chăng?

- Bạch Thế Tôn, không vậy! V́ cớ sao? Trang nghiêm cơi Phật tức không phải trang nghiêm, ấy gọi là trang nghiêm.

- Thế nên Tu-bồ-đề, các Bồ-tát lớn nên như thế mà sanh tâm thanh tịnh, không nên trụ nơi sắc sanh tâm, không nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, nên không có chỗ trụ mà sanh tâm kia. Tu-bồ-đề, ví như có người thân to như núi Chúa Tu-di (Sumeru), ư ông nghĩ sao? Thân ấy là lớn chăng? Tu-bồ-đề thưa: Rất lớn, bạch Thế Tôn! V́ cớ sao? Phật nói chẳng phải thân, ấy gọi là thân lớn.

GIẢNG:

Trong đoạn này trước tiên đức Phật hỏi ngài Tu-bồ-đề: Thuở xưa, ở chỗ đức Phật Nhiên Đăng, đức Phật có pháp để được chăng? Nếu chúng ta đọc tiền thân Phật th́ thấy trong đó Phật kể thuở xưa khi Ngài c̣n tu Bồ-tát hạnh nơi đức Phật Nhiên Đăng (Dipamkara-buddha), do Ngài cúng dường, bố thí nên được đức Phật Nhiên Đăng thọ kư sau sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni (Sàkyamuni). Như vậy ở nơi đức Phật Nhiên Đăng, đức Phật Thích-ca đă được thọ kư thành Phật. Nhưng ngài Tu-bồ-đề thưa: Không, ở chỗ đức Phật Nhiên Đăng, đức Phật thật không có pháp để được. Quí vị thấy như là phủ nhận việc đức Phật đă nói trước kia, phải không? Nhưng không phải. Như đoạn trước nói nếu A-la-hán thấy được đạo A-la-hán là c̣n tướng ngă, tướng nhân v. v… Như vậy nếu Phật c̣n thấy có pháp để được th́ cũng c̣n tướng ngă, tướng nhân… mà c̣n tướng ngă, tướng nhân th́ làm sao được thọ kư thành Phật? Thế nên ngài Tu-bồ-đề xác định rằng đức Phật ở chỗ Phật Nhiên Đăng thật không có pháp để được.

Tiếp theo đức Phật hỏi ngài Tu-bồ-đề: Ư ông nghĩ sao, Bồ-tát có trang nghiêm cơi Phật không? Ngài Tu-bồ-đề thưa: Không. V́ cớ sao? Trang nghiêm cơi Phật, tức không phải trang nghiêm, ấy gọi là trang nghiêm. Tại sao không phải trang nghiêm ấy gọi là trang nghiêm? Thường trong các kinh Đại thừa hay nói rằng: Người tu Bồ-tát hạnh nên trang nghiêm cơi Phật hay là trang nghiêm Tịnh độ. Muốn trang nghiêm Tịnh độ th́ cơi đó ở đâu và chúng ta làm sao trang nghiêm? Về công hạnh đó, trong kinh nói: Mỗi đức Phật đều có hạnh nguyện. Ví dụ đức Phật Di-đà (Amita) có hạnh nguyện Di-đà, đức Phật Thích-ca có hạnh nguyện Thích-ca, hạnh nguyện đó gọi là để trang nghiêm cơi Phật. Vị nào nguyện làm hạnh nhẫn nhục viên măn th́ khi tu hạnh nhẫn nhục trong thế gian này là tạo nhân trang nghiêm cơi Phật của vị ấy, hoặc tu hạnh bố thí ở cơi này, cũng là nhân trang nghiêm cơi Phật của vị ấy về sau. Thế nên những hạnh đó được viên măn th́ cơi Phật trang nghiêm đẹp đẽ phi thường. Chúng ta tu cái nhân ở đây tốt đẹp bao nhiêu th́ cơi Phật của ḿnh cũng sang cả tốt đẹp bấy nhiêu. Vậy ngay hiện tại chúng ta hành những hạnh hợp đạo lư, đó là chúng ta trang nghiêm cơi Phật. Chúng ta thử lấy ví dụ trong thế gian: Như có người dự trù năm năm nữa sẽ cất một cái nhà đẹp. Khi họ dự định như thế th́ từ đó về sau họ phải tích lũy tiền, dự trữ sắt, đá v. v… Họ chuẩn bị những vật liệu tốt đầy đủ cho đến ngày xây nhà, đến lúc ấy họ mới thực hiện được một cái nhà đẹp. Như vậy khi chúng ta chuẩn bị những vật liệu hoặc tiền bạc tức là chúng ta trang nghiêm cho cái nhà mai sau phải không? Trái lại nếu hiện tại chúng ta không dự trữ cái ǵ hết, đến khi muốn cất nhà đẹp th́ có cất được không?

Trong Phật pháp cũng vậy, khi chư Phật thành Phật rồi, cơi nước các Ngài đầy đủ công đức vô lượng vô biên là v́ khi tu Bồ-tát hạnh các Ngài đă hành những công hạnh, những phước đức để trang nghiêm cơi nước của các Ngài mai sau, đến khi thành Phật th́ tất cả đều viên măn. Như quí vị đọc kinh Di-đà thấy trong kinh diễn tả nơi cơi Cực lạc, cái ǵ cũng sung măn, cái ǵ cũng tốt đẹp, đó là do khi tu hạnh Bồ-tát, đức Di-đà đă nguyện như thế; cho nên mỗi công hạnh của Ngài đều hướng về cơi nước của Ngài sau này, đếân khi viên măn công hạnh th́ được cơi nước trang nghiêm. Đức Phật muốn khi thành Phật được cơi nước trang nghiêm th́ hiện tại Ngài cũng tập những công hạnh như thế. Vậy Bồ-tát có trang nghiêm cơi Phật không? Những công hạnh lục độ là trang nghiêm chớ ǵ? Song ở đây ngài Tu-bồ-đề thưa: Bạch Thế Tôn không, v́ cớ sao? Trang nghiêm cơi Phật tức không phải trang nghiêm, ấy gọi là trang nghiêm. Bởi v́ tất cả công hạnh của ḿnh đều là tướng hữu vi, mà tướng hữu vi là tướng duyên hợp; đă là tướng duyên hợp th́ đâu phải là cố định, là chân thật nên không phải là trang nghiêm, nhưng theo thế tục gọi đó là trang nghiêm. Trên bản chất không phải là trang nghiêm v́ là tướng duyên hợp, nhưng trên giả danh đó là trang nghiêm. Nếu thấy có trang nghiêm tức là chấp hành động đó thật, tức phi trí tuệ Bát-nhă. Không có trí tuệ Bát-nhă sao được gọi là Bồ-tát? V́ vậy chúng ta phải thấy rơ thâm ư của từng lời kinh, nói trang nghiêm tức không phải trang nghiêm, nếu chúng ta thấy thật có trang nghiêm th́ cơi Phật của ḿnh là cơi giả dối rồi!

Tiếp đến đức Phật liền nhắc lại một ư, tôi gọi là điệp khúc, tức là nhắc lại ư khi Ngài giảng về nghĩa an trụ tâm ở đoạn trước: An trụ tâm là không nên trụ sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Đức Phật bảo: Các Bồ-tát lớn nên như thế mà sanh tâm thanh tịnh. Như thế là sao? Chẳng nên trụ nơi sắc, chẳng nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, nên không chỗ trụ mà sanh tâm kia, tức là đừng kẹt vào sáu trần, đó mới thật là trang nghiêm cơi Phật, mới thật là cứu kính của hàng Bồ-tát. Nếu vừa khởi niệm ḿnh làm việc này là trang nghiêm cơi Phật, ḿnh làm việc kia để dành mai sau chẳng hạn th́ c̣n trụ vào sắc, thanh, hương v. v…, tức là chưa phải trang nghiêm cơi Phật, chưa phải là Bồ-tát. Thế nên câu không nên kẹt nơi sắc, không kẹt nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp, nên không chỗ kẹt mà sanh tâm kia, tức là không có chỗ trụ mới đúng là cái tâm thanh tịnh chân thật, bất sanh bất diệt.

Phật dạy tiếp: Này Tu-bồ-đề, như có người thân như núi chúa Tu-di, thân ấy lớn chăng? Quí vị thấy chỉ cần nói về kích thước của một cây cột hay là của một vật ǵ tương đối hơi lớn như cái nhà chẳng hạn th́ thân ḿnh có bằng một cây cột không? Chưa bằng. Thân ḿnh có bằng cái nhà không? Cũng không bằng. Thường trong kinh nói núi Tu-di là ngọn núi lớn nhất có bốn châu thiên hạ ở chung quanh như Nam Thiệm bộ châu (Jambudvipa) - chỗ chúng ta ở - Bắc Câu Lô châu (Uttara-kuru) v. v… Vậy núi Tu-di khoảng bao lớn? Có người thân lớn bằng núi chúa Tu-di chớ không phải núi Tu-di thường. Giả sử có người thân bằng Núi Lớn Vũng Tàu này th́ quí vị tưởng tượng người đó như thế nào? Họ nặng nề, họ đi tới đâu th́ chết thiên hạ tới đó, không có đường sá nào họ đi được phải không? Nếu bằng núi chúa Tu di th́ quá sức to không thể tưởng tượng. Khi Phật hỏi: Ư ông nghĩ sao, thân đó lớn chăng, ngài Tu-bồ-đề liền thưa: Bạch Thế Tôn rất lớn. Khi nói rất lớn rồi Ngài liền chuyển trở lại: Phật nói không phải thân, ấy mới gọi là thân lớn. Tại sao? Bởi v́ nói thân lớn th́ e chúng ta tưởng lầm tướng lớn tướng nhỏ là thật, thế nên Ngài liền nói "Không phải thân, ấy gọi là thân lớn". Không phải thân nghĩa là thân đó là tướng duyên hợp không thật, do nhiều duyên, nhiều yếu tố hợp thành th́ nói là lớn, chớ sự thật nó không thật có, nếu chúng ta thấy có thân thật th́ nó không phải lớn. Điều đó để cho chúng ta thấy rằng tất cả những tướng ở thế gian dù tướng thân to lớn cũng là tướng duyên hợp hư giả, mà đă là duyên hợp th́ không phải thật lớn, chẳng qua nói lớn nói nhỏ là tùy theo giả danh mà nói thôi.

?

 

[mucluc][loidausach][p1][p2]

[d1-d5][d6-d10][d11-15][d16-d20][d21-d25][d26-d32]

[Trang chu] [Kinh sach]